Hình KimLoan và anh Hai chụp năm 1995 tại Canada
Gia đình tôi có tám anh chị em, anh Hai tôi là con trai lớn, sau bà chị Cả. Trước năm 1975, ba tôi làm Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà, má tôi mở quán cà phê giải khát tại nhà. Anh Hai, là con trai trưởng, đã sớm ý thức việc học hành để làm gương cho lũ em nhỏ, hầu sau này tiến thân, không phải vất vả đầu tắt mặt tối như ba má. (Ba tôi ngoài chuyện đi làm, phải thức dậy từ khuya phụ má tôi dọn hàng, chuẩn bị đón khách, vì quán nhà tôi ngay cổng trại Đoàn Dư Khương, là Lục Quân Công Xưởng thời đó nên khá bận rộn khách khứa cả ngày).
Anh học rất giỏi, vì ước mộng vào Y Khoa, anh vào học Khoa Học Sài Gòn. Nhưng vì thời cuộc chiến tranh, Mùa Hè Đỏ Lửa tổng động viên năm 1972 mà anh phải từ bỏ giấc mộng Bác Sỹ, vào trường Sư Phạm. Ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm, đưa biết bao người vào bước ngoặt mới của cuộc đời, trong đó có gia đình tôi. Mẹ tôi mất sau đó một tháng, ba đi học tập về không có việc làm, mọi việc trong nhà đều đặt nặng trên vai bà chị Cả và anh Hai vì lũ chúng tôi còn tronglứa tuổi ăn chưa no lo chưa tới.
Lúc đó anh đang dạy học ngoài Cần Thơ, nhưng là thủ lĩnh tinh thần của cả nhà. Một vài tuần anh bắt xe về thăm nhà, dặn dò mọi điều, rồi lại trở về Cần Thơ. Thời buổi khó khăn chung, mỗi lần anh về tụi nhỏ chúng tôi thích lắm, vì anh mang quà Miền Tây về, nào xoài nào mận, nào cốm dẹp, và có khi mang cả gạo và thịt heo, đó là tiền anh dành dụm nhờ đi dạy kèm Anh Văn cho mấy người muốn đi vượt biên. Anh cũng là người cương quyết dặn dò không cho gia đình nghe lời dụ dỗ và ép uổng của chính quyền mà đi kinh tế mới. Và cũng chính anh, là người nhen nhóm trong nhà tôi hai chữ “vượt biên” vì như theo lời anh nói “không thể sống chung với cộng sản”.
Lần đó anh về thăm nhà như thường lệ, rồi họp cả gia đình, báo tin buồn, anh bị “trúng tuyển nghĩa vụ quân sự”theo chỉ tiêu của nhà trường để đáp ứng nhu cầu gửi quân qua biên giới Campuchia. Bà chị Cả khóc lóc, ba tôi rầu rĩ, mấy anh em khác thì lặng im che dấu nỗi buồn, nhưng anh Hai tôi mỉm cười cho mọi người lên tinh thần. Sau đó anh nói:
- Đây chính là cơ hội để con tìm đường đi bộ qua biên giới, vào Thailand tỵ nạn, xin mọi người bình tâm mà cầu nguyện cho đầu xuôi đuôi lọt.
Nói rồi anh lấy trong túi xách ra tấm bản đồ biên giới Campuchia-Thailand mà anh mua ngoài chợ trời. Tấm bản đồ bằng Tiếng Anh, nhưng với vốn liếng mấy năm học ở Hội Việt Mỹ trước năm 1975, và giáo viên dạy Anh Văn tại trường Phan Thanh Giản Cần Thơ, thì tờ bản đồ anh xem trong nháy mắt. Anh vẽ chi chít và ghi chú cẩn thận trên bản đồ, và chỉ cho mọi người xem dự tính của anh, sẽ đào ngũ, đi qua Siêm Riệp, rồi từ đó theo đường mòn biên giới vào Thái. Nghe anh nói ngon ơ, nhưng ai cũng biết là biết bao hiểm nguy chờ đợi. Bọn Khmer Đỏ còn rình rập giết chóc, đường rừng ngập các bãi mìn, chưa kể là lính đào ngũ còn bị quân đội Việt Nam tìm bắt ráo riết, chạy đâu cho thoát.
Cả nhà ngày đêm cầu nguyện, lắng lo thì bỗng ba tuần sau anh về nhà, báo tin vui, vì nhà trường cần những giáo viên giỏi như anh, nên đã xin đặc biệt cho vài giáo viên được tạm hoãn thi hành “nghĩa vụ quân sự”. Sau lần đó, anh vẫn kiên quyết tìm đường vượt biển, nên mùa hè năm tới anh ra khơi, và xui xẻo thay, cả nhóm bị bắt khi đang chờ tàu lớn, rồi bị giam tù lại Long Đất chín tháng trời. Khi ra tù, anh mất việc, mất cả hộ khẩu nên tìm về Sài Gòn, ở nhà “ ăn không ngồi rồi” đợi chờ cơ hội tiếp theo. Trong thời gian này, anh lại đi tìm ngoài chợ trời mua sách của Hải Quân VNCH, và la bàn đi biển để học cách làm hoa tiêu. Anh vào cả thư viện tìm thêm tài liệu, đến lục lọi các tiệm sách cũ…và rồi cuối cùng, nhờ bạn bè giới thiệu với một chủ tàu, anh được mời đi vượt biên miễn phí với tư cách là hoa tiêu. Họ còn cho anh dẫn theo một người, mà trong gia đình tôi lúc đó, tôi là “ứng cử viên” sáng giá nhất cho chuyến đi vì tuổi mới lớn, vừa bước vào trung học, có cơ hội học tiếp khi qua Mỹ. Anh đã trằn trọc mấy đêm liền, không dám quyết định mang tôi đi theo hay không. Vì lúc đó thời tiết bị ảnh hưởng bão nên mưa gió, tình hình ngoài biển không phải lúc nào cũng êm ả. Mà chuyện đi vượt biên thì đầy hiểm nguy, “con nuôi má” thì ít, mà “con nuôi cá” và “má nuôi con” cũng chả phải hiếm, chưa kể nạn cướp biển đang hoành hành.Xóm tôi cũng đã có mấy gia đình cho con cái đi mà chẳng bao giờ đến nơi, cũng không trở về nhà.Đêm cuối cùng trước khi ra khơi, anh thao thức đến khi trời sắp sáng.Không ngủ được, anh ra ngoài phòng khách tìm nước uống. Khi đi ngang qua chiếc giường thấy tôi đang ngủ say, bên cạnh là chiếc bàn học của tôi sách vở xếp gọn gàng với chiếc cặp táp chuẩn bị đến trường ngày mai. Thế là anh quyết định dứt khoát, anh sẽ ra đi một mình, để tôi được tiếp tục những ngày tươi đẹp êm đềm của tuổi học trò. Vì anh là “mạng cùi”, không còn gì để mất, còn tôi là “mạng vàng”, còn mới lớn ngây thơ, anh không dám mang ra biển cả đầy gian nan bấp bênh.
Trời không phụ lòng người, chuyến đi may mắn thành công, cập bến Bidong, Malaysia sau vài ngày trên biển dù anh mới lần đầu làm hoa tiêu. Thuyền vừa vào bờ đất Mã, mọi người sung sướng hân hoan lạy trời lạy đất cảm tạ, còn anh thì mang nỗi day dứt khi để tôi ở lại nhà. Suốt thời gian ở trại, mỗi lần ra cầu Jetty đón người mới đến, hay khi đứng trên lớp dạy Tiếng Anh cho đồng bào tỵ nạn, anh vẫn chưa nguôi nỗi buồn tiếc nuối đó.Vì vậy, anh quyết tâm bằng mọi giá, sẽ bảo lãnh toàn bộ gia đình qua Mỹ trong thời gian sớm nhất.
Từ trại tỵ nạn, anh đến định cư tại thành phố Wichita, Kansas là bắt đầu ngay việc tìm hiểu chuyện học đại học. Giấc mơ Y Khoa năm nào chợt bừng sống lại, nhưng ở độ tuổi ngót nghét ba mươi, chương trình học Y vừa dài vừa tốn kém. Vì mục tiêu lớn hơn là cứu gia đình còn kẹt lại Việt Nam, một lần nữa, anh phải từ bỏ ước mơ của mình, vào học ngành Engineer.Anh vừa đi học vừa đi làm thêm cuối tuần để một vài tháng “tiếp tế” cho gia đình bằng một thùng quà chất lượng. Hàng xóm chung quanh hay nói với tôi:
- Nhà người ta có con gái qua Mỹ gửi đồ về là sung sướng lắm, vì con gái biết thu vén tối đa cho gia đình. Còn nhà cô, chỉ cần một ông anh Hai thôi cũng bằng hai, ba cô con gái nhà người ta cộng lại.
Nhờ thông minh, siêng năng cần cù, dù vừa học vừa đi làm, anh tốt nghiệp Electrical Engineer với điểm xuất sắc (Cum Laude), được chọn ghi tên vào cuốn sách Who’s Who Among Students in American Universities. Vừa ra trường, anh đầu quân cho hãng Boeing, sau chuyển qua Tinker Air Force Base của chính phủ liên bang ở Oklahoma, rồi lại qua Defense Contract Management Agency (DCMA) under U.S. Department of Defense tai Dallas, Texas cho đến ngày nay.
Ngay khi vừa vào đại học, anh cũng đã bắt tay vào việc làm hồ sơ bảo lãnh gia đình. Trong khi nhiều người bạn học khác chỉ lo học hoặc đi làm, chưa thấy được tầm quan trọng của việc bảo lãnh thân nhân, thì anh đã âm thầm xúc tiến từng bước thủ tục. Anh tự tìm hiểu qua phone hoặc trên giấy tờ (thuở ấy chưa có internet để lên mạng dễ dàng như ngày nay). Không cần nhờ đến văn phòng luật sư, anh sử dụng khả năng English của anh theo dõi cập nhật hồ sơ một cách khoa học, rõ ràng đúng trình tự.
Cuối năm 1989, vì nôn nóng không thể đợi giấy tờ bảo lãnh hiệu lực, gia đình đã cho tôi đi vượt biên, và tôi đến trại tỵ nạn Panatnikhom, Thailand. Nghe tin tôi đến trại, anh mừng rỡ vô cùng. Mỗi tháng anh gửi tiền chu cấp đều đặn. Khi những người xung quanh tôi, cũng có thân nhân nước ngoài, người thì nhận tiền nhỏ giọt, người thì tháng có tháng không, còn tôi thì cứ tuần đầu tháng là có thư, vì cứ mỗi ngày mồng một của tháng, anh hoặc vợ anh (lúc ấy anh mới lập gia đình) đi gửi tiền, suốt bốn năm như thế, chưa trễ một lần nào!
Vì tôi đến trại muộn màng, nên phải đối phó với cuộc thanh lọc, anh em tôi viết thư qua lại rất nhiều để tìm kết quả tốt nhất. Để keep track, từ lá thư đầu anh đã đánh số 1, tiếp theo lá thứ 2, và cứ thế …Nếu tôi nhận lá thư số 10 rồi đến số 12 là biết ngay bị mất lá số 11, tôi báo cho anh, anh mở sổ tay ra xem lá 11 có nội dung chính là gì, nếu quan trọng thì cho tôi biết. Trong các lá thư, ngoài vài thông tin về tình hình gia đình, anh hay viết nhiều về nước Mỹ, hoặc dặn dò những việc chuẩn bị thanh lọc. Để tôi dễ nhớ, anh viết các mục theo số 1,2,3 hay a,b,c , xuống hàng, gạch đầu dòng …Khi tôi viết thư hỏi các vấn đề gì, thư sau anh trả lời từng mục rõ ràng, đầy đủ.
Đặc biệt, lúc đó, anh tôi còn “nổi tiếng” trong trại, ít nhất là khu tôi ở, vì sự chăm lo “có một không hai” dành cho cô em gái là tôi. Sợ tôi bị rớt thanh lọc, anh bảo tôi cứ bình tĩnh để anh tìm cách, chứ dứt khoát không để tôi phải quay về Việt Nam. Rồi một hôm, tôi nhận được hơn 20 lá thư, mà toàn là tên Mỹ xa lạ, chưa hề quen biết, trong đó cũng có một lá thư của ông anh tôi. Thì ra anh đã tự ý đăng “Tìm Bạn Bốn Phương” của Mỹ với ước mong sẽ tìm được một người nào đó, tốt đẹp, và biết đâu sẽ tiến xa hơn, đưa tôi qua khỏi cuộc thanh lọc đáng ghét. Nhưng giải pháp này cũng chẳng đi đến đâu!
Còn nữa, sợ viết trong thư không thể nói hết về nước Mỹ để tôi mở mang kiến thức, anh còn ngồi thâu băng cassette, kể chuyện nước Mỹ cho tôi nghe. Kể về thành phố Wichita thời sinh viên của anh, về thành phố San Antonio nơi gia đình anh đang sinh sống, về các trường đại học, về cuộc sống người Việt và người Mỹ, về mọi thứ trên đất Mỹ không thiếu đề tài gì. Đêm đêm tôi mở cuộn băng “Nước Mỹ” của anh tôi cho cả lô nhà cùng nghe (bằng cái máy cassette nho nhỏ chạy bằng battery). Mọi người nằm nghe say mê, rồi đi vào giấc mộng êm ái mơ màng với nước Mỹ ở bên kia bờ đại dương. Một hôm, có người tìm đến căn nhà tỵ nạn tôi, hỏi lớn:
- Cô Loan ơi, cho tôi mượn cái băng cassette.
- Băng ca sỹ Ngọc Lan hả anh? (Vì chị dâu tôi cũng hay gửi băng nhạc cho tôi nghe, bà con xung quanh cũng hay qua mượn)
- Khồng…ồng …!! Tui muốn cái băng “Nước Mỹ” mà anh cô kể chuyện hấp dẫn đó.
Trời! Tôi đâu ngờ sự “nổi tiếng” của anh tôi đã vượt ra khỏi lô nhà tôi đang ở, mà lan truyền qua cả những lô khác. Cho người đó mượn băng “Nước Mỹ” hơn hai tuần chưa thấy trả lại, tôi đến tìm, họ xin lỗi bằng cách cười trừ, rồi khai thiệt là đã chuyền tay cho người này, người nọ cùng nghe. Cuối cùng, tôi tìm được nhà chú kia, người thứ bao nhiêu sau khi chuyền tay cũng chẳng nhớ. Chú ấy gãi đầu, phân trần:
- Chẳng dấu gì cô, tui cũng có thằng con bên Mỹ. Tiền viện trợ nó gửi còn thưa thớt, tháng nhớ tháng quên, chớ đừng nói gì đến chuyện kể về nước Mỹ cho tui nghe.
- Dạ, vậy bây giờ chú nghe băng “Nước Mỹ” xong chưa, cho con xin về cho người khác mượn.
- Cô để thủng thẳng tui nói hết đã chứ. Tuần sau cô quay lại lấy được không, vì tôi đem cuốn băng đó ra tiệm nhờ sang ra hai ba cuốn, mà họ làm chưa xong!
- Úi trời, chú sang ra hai ba cuốn làm gì
-Thì để cho bà con chung trại cùng nghe, và một cuộn tôi sẽ gửi về Việt Nam cho vợ con tui bên bển biết về nước Mỹ, cô thông cảm nha!
Nhờ may mắn, có thêm sự giúp đỡ hết sức lực của anh, tôi đã vượt qua cửa ải thanh lọc, nhưng “phúc bất trùng lai”, tôi bị phái đoàn Mỹ từ chối tại cuộc phỏng vấn, và theo lời khuyên của anh, tôi xin định cư bên Canada. Vừa qua Canada chưa kịp nóng chỗ, anh tôi đã lên ngay chương trình "giải cứu" tôi qua Mỹ, nhưng “người tính không bằng trời tính”, tôi có nợ có duyên với xứ lạnh tình nồng cho đến nay. (Tôi có viết rõ chuyện này trong bài Giấc Mơ Mỹ Quốc).
Trong thời gian bốn năm tôi bị kẹt bên trại, gia đình còn lại của tôi bên Việt Nam lần lượt đi qua Mỹ theo diện ODP bảo lãnh của anh tôi. Vậy là anh đã thoả mãn ước mong, không còn một thân nhân ruột thịt nào còn lại nơi chế độ Cộng Sản. Mấy người bạn cũ thời đại học Wichita của anh, có người lận đận mãi mới đưa được người nhà qua đây, thậm chí có người vẫn còn cha mẹ bên quê nhà, chỉ vì hồi đó chủ quan và…làm biếng! Họ nói với anh:
-Tụi tôi phục ông sát đất! Không tốn một đồng xu nào cho luật sư mà đưa được cả gia đình anh chị em qua đây đầy đủ. Hồi đó tụi tôi không chịu nghe lời khuyên của ông, giờ hối hận thì đã muộn!!
Là người đi trước, anh hướng dẫn, chỉ bảo kinh nghiệm cho các anh chị em trong nhà những bước đầu hội nhập trên xứ Mỹ. Tới đám con, cháu, thế hệ thứ hai, anh luôn khuyến khích hướng tới các ngành đại học danh giá, dễ kiếm việc, nhất là Y Khoa mà anh đã phải từ bỏ. Rất tiếc là lũ trẻ chỉ học theo ý thích của chúng, không say mê làm bác sỹ, nên có đứa học Dược, có đứa học Nha, rồi kỹ sư cơ khí, kỹ sư điện toán, Computer, Y tá …cũng làm anh rất vui lòng.
Anh là cuốn “Từ Điển Bách Khoa” của đại gia đình tôi với trí nhớ dẻo dai, hiểu biết rộng và chính xác. Mỗi lần qua Mỹ, tôi say sưa ngồi nghe anh nói chuyện hàng giờ mà vẫn chưa đủ. Tên quốc tịch của anh là David, và tôi hay gọi một cách thân thương là “anh Dave thông thái của chúng ta”. Giờ anh đang ở tuổi gần bảy mươi, sức khoẻ hao hụt, trí nhớ anh cũng giảm bớt nên tôi cũng ít hỏi anh những khi có thắc mắc nữa (Cũng may tôi đã kịp có anh Gú Gồ thay thế).
Tôi học hỏi ở anh rất nhiều, khi còn đi học, dù đêm học bài khuya cỡ nào, trước khi đi ngủ tôi luôn soạn sẵn cặp táp, sách vở, 2 cây viết (phải là 2 cây để phòng khi cây bút bị hư hay hết mực nửa chừng), thước kẻ, compa…để sáng ngủ dậy, sau khi đánh răng rửa mặt, thay đồ, ăn sáng là chỉ xách cặp đến trường mà không sợ thiếu sót thứ gì. Tôi cũng tập thói quen viết thư mạch lạc, có các số mục rõ ràng, để dù có viết dài, người đọc cũng khó lầm lẫn và không ngán.
Khi còn ở Việt Nam, anh làm một cuốn Sổ Sức Khoẻ Gia Đình, viết tên mọi người với những ghi chú cần thiết về tình trạng sức khoẻ, sở thích cá nhân và năng khiếu của từng người. Ai bệnh gì, uống thuốc gì, bao lâu, ai vào bệnh viện, năm nào, tại sao, lũ em nhỏ đứa nào cần đi nha sỹ, đứa nào cần thuốc bổ xương, viên dầu cá, đứa nào sắp đến hẹn của Viện Pasteur chích ngừa …
Bây giờ thì trên bàn viết của anh tại căn nhà ở Texas có một tờ giấy đính trên tường, trong đó ghi đầy đủ birthdays của các con, cháu trong đại gia đình. Đứa nào, dù đã lớn học hành ra trường, nếu còn độc thân, vẫn nhận card và chút tiền mừng của anh vào dịp sinh nhật.
Cứ ngỡ anh đã an phận yên tâm vì “giấc mơ Mỹ Quốc” của đại gia đình mình đã trọn vẹn. Nhưng không, anh vẫn quan tâm giúp đỡ những người quen khác còn ở Việt Nam. Hàng năm vào dịp Tết, anh đều đặn gửi tiền cho vài gia đình hàng xóm xưa vẫn còn lao đao nghèo khó. Chị NgaSún bán khoai luộc đầu xóm mỗi lần nhận tiền đều cười vui vẻ, khoe:
- Ôi, hồi đó mỗi lần ảnh từ Cần Thơ về xóm là chiều chiều đi ngang qua nhà tui. Thằng con tui thấy ảnh về là đem bài tập qua hỏi thầy giáo liền á!
Bác Sương kế bên nhà tôi ngày xưa tiếc nuối:
-Nói thiệt, hồi đó tui chỉ mong cậu ấy ngắm nghía con gái tui là tui bắt về làm rể. Ai ngờ, cậu ấy ôm mộng vượt biên!
Riêng tôi còn nhớ chị Quỳnh Giao, xinh đẹp thuỳ mị nhất nhì trong xóm, có lần đến thăm anh khi anh mới về thăm nhà.Hai người ngồi ngay phòng khách nói chuyện tới khuya. Chiếc giường ngủ của tôi kế bên đó, nên tôi nghe được những câu dịu dàng nũng nịu chị đã trách móc anh tôi:
- Lần nào anh về cũng không có thời giờ qua nhà thăm em sao? Em chờ hoài chẳng thấy nên đành phải…xuống nước qua đây tìm anh đó, anh hiểu không?
Hình như anh tôi có cười xin lỗi, và chắc sau này chị ấy đã hiểu, anh phải gạt bỏ chuyện tình yêu để ưu tiên cho chuyện vượt biên, tìm tương lai tươi sáng và lo cho gia đình.
Đó là chuyện những người xóm cũ. Với những học trò trường Phan Thanh Giản xưa và những họ hàng xa ngoài miền Bắc, anh làm theo phương châm “giúp họ câu cá tốt hơn là cho họ cá”, vì quà cáp cho họ anh cũng vẫn làm, nhưng biết bao giờ mới đủ? Ai đang độ tuổi kết hôn, hoặc đã dang dở hôn nhân, nếu có ước muốn, anh đều giúp bước đầu bằng cách đăng mục Tìm Bạn Bốn Phương của Mỹ (kiểu này nhanh hơn Tìm Bạn Bốn Phương với Việt Kiều). Sau đó tuỳ theo duyên phận của từng người, mà kết quả cũng có vài mối lương duyên Việt-Mỹ, đang có happy ending trên đất Cờ Hoa.
Mới đây trong dịp Family Reunion bên Texas nhân dịp đám cưới đứa cháu, tôi hỏi đùa anh:
- Giờ anh có còn muốn đưa ai qua Mỹ nữa không nà?
Anh cười lớn:
- Nếu được, anh ước gì mang toàn dân Việt Nam qua đây, cho họ nếm mùi “tư bản rẫy chết” của Mỹ, nhưng coi bộ khó quá. Thôi thì chỉ cầu mong cho quê hương mau dẹp tan cái đảng Cộng Sản ăn hại, cho người dân được nhờ.
Tôi hỏi tiếp:
- Nếu có điều gì muốn nói về nước Mỹ, anh sẽ nói gì ?!
- Đó là lời Tạ Ơn cuộc đời, Tạ Ơn Nước Mỹ đã cho anh cơ hội tiến thân, và cơ hội giúp lại người khác như một cách đền ơn xứ sở đã cưu mang anh mấy chục năm qua!
Đó là lý do tôi viết bài này, Lời Tạ Ơn nước Mỹ của Anh tôi!
Kim Loan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét