Thứ Hai, 7 tháng 12, 2020

Chuyện Sắc Màu


Tranh sơn dầu Họa sĩ H. Moinard 

Họa sĩ Henri Moinard sanh vào thập niên đầu thế kỷ 20 tại Bretagne, miền Tây nước Pháp. Ông là một nhà giáo, một họa sĩ ấn tượng, từng đoạt giải thưởng. Với giải thưởng đó ông cảm thấy rất mãn nguyện; vì đối với hội họa rất hiếm họa sĩ thành danh lúc còn sống, họ chỉ được công chúng biết đến khi đã lìa đời ! Chúng tôi có cái may là quen biết với họa Moinard lúc ông còn sanh thời. Nhân dịp có mấy người bạn ở Mỹ sang Pháp chơi lại rất thích hội họa, nhất là trường phái ấn tượng nên chúng tôi đã đưa các bạn đi xem các viện bảo tàng về hội họa ở Paris. Thăm khu phố Montmartre, viện bảo tàng của danh họa Claude Monet người thày vĩ đại của truưòng phái ấn tượng ở Giverny, nhưng có lẽ các bạn còn vấn vương màu sắc nên có người đề nghị muốn gặp một họa sĩ Pháp còn sống, chúng liền phôn cho họa sĩ Moinard ngỏ ý muốn đến thăm xưởng vẽ của cụ. Họa sĩ Moinard rất vui và hẹn ngày mời chúng tôi đến. Hôm đi thăm xưởng, cùng đi với chúng tôi còn có một số bạn người Pháp. sau khi xem tất cả những số tranh, cụ bỗng ngẫu hứng tặng chúng tôi mỗi người một bức sơn dầu. Họa sĩ lấy cọ đề nghị vẽ tặng hai người đàn bà Việt đi chung mỗi người một bức chân dung, cả nhóm rất hoan hỷ đón nhận tặng phẩm tinh thần bất ngờ này. Khoảng nửa giờ họa sĩ vẽ xong hai bức chân dung và trao cho hai chị. Chúng tôi vây quanh ngắm hai bức chân dung, điều thật ngỡ ngàng hai bức chân dung chẳng giống người thật! Chúng tôi cả Việt lẫn Pháp đều nhìn nhau biểu lộ sự thắc mắc trong im lặng. Họa sĩ Moinard hiểu được sự ngạc nhiên đó, nhưng lại dẫn cả nhóm ra vườn xem hoa. Trước khi tiễn chúng tôi ra về cụ mỉm cười giải thích: 
"Tôi đã vẽ bà thứ nhất ở cặp mắt, bà thứ hai ở nụ cười."
Họa sĩ nói tiếp:
"Nhiều năm sau, thời gian có thể làm thay đổi dáng vóc, và khuôn mặt hai bà, nhưng ánh mắt và nụ cười đó sẽ còn mãi với thời gian."
  
Chúng tôi ra về mang theo hình ảnh người họa sĩ cặm cụi say mê nghệ thuật, dù tuổi đời đã quá chín mươi. Không biết các bạn của tôi nghĩ sao, riêng tôi lòng cảm thấy thẹn những điều mình biết quá ít về nghệ thuật như giọt nước giữa đại dương ! Hội họa là một thế giới mênh mông, riêng biệt. Trong những khoảng sắc màu tĩnh lặng sâu thẳm có tiếng vọng thầm lặng từ đáy hồn của họa sĩ. Trên đời có biết bao tác phẩm nghệ thuật tạo hình thật độc đáo từ ý tưởng, màu sắc đường nét đầy sáng tạo, nhưng lại thiếu người đồng cảm say mê! Họa sĩ Moinard đã giã từ màu sắc của thế giới này từ một phần tư của thế kỷ trước. 

Nghệ Sĩ Tạo Hình
 
Tâm hồn con người là một thế giới mênh mông muôn màu và đầy bí ẩn, đối với người nghệ sĩ sự đa cảm lại càng bén nhạy hơn vì chỉ một thoáng cảm xúc về ngoại cảnh cũng đủ biến hiện thực thành ý niệm khởi đầu cho một tác phẩm. Nếu hội họa là nghệ thuật của đường nét ánh sáng màu sắc, nhạc là nghệ thuật của âm thanh tiết tấu và thơ là nghệ thuật của lời, thì sáng tạo nghệ thuật là tố chất cần thiết của người nghệ sĩ. Thi ca và hội họa từ thời cổ đại đến nay về hình thức, cấu trúc đã có nhiều thay đổi nhưng giá trị đính thực vẫn hướng về chân thiện mỹ. Từ ngàn xưa người Việt đã biết vẽ tranh nặn tượng điêu khắc, ngành mỹ thuật mang tính dân gian, trang trí. Nhhững loại hình thể đó truyền lại nhau theo lối thủ công nghiệp. Tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống Hà Nội, ngành điêu khắc, đúc tượng, các đồ thờ tự bằng sơn mài chỉ "cha truyền, con nối" không có trường sở chính thức để nghiên cứu học hỏi về mỹ thuật. “ Theo những tài liệu còn lưu trữ ở thư viện Paris. 
Lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt Nam thật sự khởi sắc từ khi có trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (L’École Supérieure Des Beaux -arts de l’Indochine). Trường được thành lập ở Hà Nội năm 1925 do họa sĩ Victor Tardieu một người Pháp làm hiệu trưởng suốt 12 năm. Trường đã được sự cộng tác đắc lực của họa sĩ Joseph Imguimberty giảng dạy từ năm1925cho đến khi bị giải thể 1945 (vì chiến tranh). Họa sĩ Victor Tardieu thuộc Trường phái Cổ điển cuối thế kỷ 19, ông từng là bạn học với danh họa Henri Matisse, Raoult. Họa sĩ Joseph Imguimberty tốt nghiệp trường Trang Trí Quốc Gia Pháp, ông yêu đất nước Việt Nam nên có nhiều họa phẩm sơn dầu rất nhập thần về phong cảnh đồng quê Việt.

Họa Victor Tardieu và Joseph Imguimberty là hai họa sĩ bậc thày đã hướng dẫn các sinh viên Việt Nam làm quen với kỹ thuật hội họa phương Tây, biết những nét căn bản của Trường phái Cổ điển. Với những kiến thức được học hỏi bài bản, sau khi tốt nghiệp, các họa sĩ có thể tự chọn cho mình một trường phái khác, một con đường riêng : tân cổ điển, ấn tượng, lập thể, trừu tượng, siêu thực, nhưng vẫn phát huy truyền thống nghệ thuật của nước nhà như lụa và sơn mài. Từ đó ngành MỹThuật của Việt Nam mới có những tên tuổi lớn:
"Tô Ngọc Văn, Nam Sơn Nguyễn Vạn Thọ, Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Công Văn Chung, Đỗ Đức Thuận, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu, Thạch Lam, Nguyễn Tường Lân, Phạm Hậu, Nguyễn Khang, Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường (người vẽ áo dài kiểu Le Mur), Lưu Văn Sìn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Thị Nhung, Nguyễn Văn Tỵ, Trịnh Hữu Ngọc, Hoàng Lập Ngôn, Nguyễn Dung, Nguyễn Tiến Chung, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Đức Nùng, Dương Hướng Minh, Nguyễn Sĩ Ngọc, Trần Văn Thọ, Huỳnh Văn Thuận, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Trọng Hợp, Phan Tại, Nguyễn Sáng, Huỳnh Văn Gấm, Tạ Khúc Bình, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Phan Thông, Lê Thanh Đức, Mai Văn Hiến, Trần Duy, Phan Kế An, Dương Bích Liên, Nguyễn Kim Đồng, Văn Cao, Văn Giáo, Lê Quốc Lộc, Phạm Viết Song, Tạ Tỵ, Phạm Đăng Trí"….

Từ ngàn xưa "Cầm, Kỳ, Thi, Họa" đánh đàn, đánh cờ, ngâm thơ, vẽ tranh là bốn cái thú của kẻ tao nhã, nhưng biết đàn làm thơ và vẽ tranh chưa hẳn là nghệ sĩ. Hành trình đi tìm Chân Thiện Mỹ của nghệ thuật là bước vào con đường thênh thang nhưng đầy gian nan khó khăn mà người nghệ sĩ phải tự mình tìm lối đi riêng. Trong làng văn nghệ có những trường hợp nghịch lý: Người đã có tác phẩm được ra mắt công chúng chưa hẳn đã hay hơn những người có tác phẩm nhưng chưa in, hoặc ít phổ biến. Gía trị đích thực của một tác phẩm không hẳn được công chúng hoan nghênh khi mới ra mắt mà giá trị đích thực phải qua thử thách với thời gian và được công chúng yêu mến lưu truyền lâu dài, hoặc được giới nghiên cứu phê bình văn học công nhận. Trong giới nghệ sĩ những người vừa là thi sĩ vừa là họa sĩ mà mỗi lãnh vực đều xuất sắc mang dấu ấn nhưng được công chúng biết đến thì không nhiều! Có người do thiên phú khởi đầu con đường văn nghệ chỉ làm thơ và có những bài thơ xuất sắc độc đáo nên được công chúng biết rồi sau đó mới học vẽ và miệt mài với cây cọ mảng màu để thành họa sĩ. Ngược lại có người đã là họa sĩ sau yêu thơ nghiên cứu thơ làm thơ đắm đuối vì thơ thành thi sĩ. Đó là những người đam mê và am tường thấu đáo bài bản về hai bộ môn nghệ thuật 

Tranh Nguyễn Hữu Nhật

Từ ngàn xưa người nghệ sĩ vẫn được yêu mến vì họ đã biết sáng tạo ra cái đẹp để phụng sự con người, nhưng không phải bất cứ cái gì nghĩ ra cũng là sáng tạo cho dù nghệ thuật là sản phẩm của tâm hồn! Nguyễn Hữu Nhật một con người nhiều gian truân nhưng rất đa tài, đã từng là là một họa sĩ, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, người lính, người đấu tranh cho tự do. Làm sao con người ấy có thể chất chứa tất cả những thứ đam mê tinh thần vào trong một tâm hồn? Có phải những thành quả của sáng tạo, những thành tích hăng say, những năm dài tù đày, và nửa đời lưu vong cho đến ngày nhắm
mắt, tất cả đã được thể hiện trong tác phẩm? 

Trước năm 1975 Nguyễn Hữu Nhật từng làm những cuộc triển lãm tranh ở Hội Việt Mỹ Sài Gòn, và tại Alliance francaise, Sài Gòn. Ra hải ngoại họa sĩ đã triển lãm tranh ở Trung Tâm Văn Hóa Quốc Tế Paris năm 2001, đó là lần cuối cùng anh triển lãm tranh ở tầm vóc lớn. Thuở tâm hồn anh còn hồn nhiên rong sáng chưa bị những lớp sóng đời làm chìm nổi nhà thơ có tâm đạo nên thích hoa sen biểu tượng cho sự trong sáng, thanh cao, do đó nhà thơ lấy hoa sen làm tựa cho tác phẩm nên có nhiều bài thơ, tranh vẽ mang ý nghĩa từ hoa sen. Hoa Sen là một loại hoa tinh khiết mà các nước phương Đông lấy làm biểu tượng cho sự thanh cao, nó còn mang ý nghĩa triết lý Nhân Quả hiện sinh vì trong búp đã có gương sen (hạt sen) mà chẳng đợi đến khi hoa già héo phát triển thành quả. Hoa Sen sống trong bùn thân rỗng cọng sen thẳng đứngvươn lên khỏi mặt nước càng sống trong bùn lầy hôi tanh bao nhiêu thì nó lại càng thơm tho hương thơm tỏa ngát, hương sắc không bị bùn làm ô nhiễm vấy bẩn. Trong triết lý Phật giáo tâm rỗng lặng là tâm không bị ô nhiễm, không bị tác động bởi nhị nguyên (thiện ác), đó là đặc tính của Tánh Không là bản thể của Bát Nhã (trí tuệ). Khởi từ những bức tranh sen trắng trong đầm màu trắng của hoa toát lên sự thanh thoát bình yên của tâm hồn đến những đóa sen xanh phần dưới của cánh có màu trắng và phần ngọn có màu hồng nhạt tượng trưng cho ý chí, nghị lực. 

Bán Tranh “Xưa không thích để ai xem
Bức tranh gia bảo vẽ em nhập thần
Giờ lòng đói khát rất cần
Xúi chân đi bán, anh gần hóa điên”
(Thi tập Đã Đời Nguyễn Hữu Nhật)

Ở Paris tôi có giới thiệu với anh những danh họa: René Loesh. Ông Bà Họa sĩ Michiko Ktago, GS Minh Châu Thái Hạc Oanh và họa sĩ Vĩnh Ấn. Thời gian lưu lại Paris họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật đã gặp lại những người bạn cũ là những danh họa: Thái Tuấn, Lê Tài Điển.
Họa sĩ René Loesh: Người Pháp cao tuổi, sống ẩn dật làm bạn với những tác phẩm vẽ sơn dầu bằng dao, ông là bạn và từng triển lãm chung với Nữ danh họa quốc tế người Mỹ là Edna Hibel vẽ sơn dầu bằng bút.
Họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật, nhà văn Nguyễn Thùy cùng tôi đến thăm họa sĩ René và vào xem tranh của ông. Khi bước vào phòng tranh nhìn thấy số tranh trưng bày anh Nguyễn Hữu Nhật đã ngả nón và nghiêng mình tỏ thái độ ngưỡng mộ trước tác phẩm làm tôi và nhà văn Nguyễn Thùy cảm thấy hân hoan vì những tâm hồn đồng điệu họ đã gặp nhau.
Họa sĩ Michiko Ktago: Người Nhật là hai danh họa quốc tế.
Họa sĩ Henri Moinard người Pháp, tranh được giải quốc gia.


Nữ sĩ Minh Châu GS Thái Hạc Oanh là một bậc thày về tranh Lụa. còn họa sĩ Vĩnh Ấn qua Pháp từ thập niên 50 đã từng đoạt nhiều gaỉi thưởng quốc tế.
Nữ Họa sĩ Edna Hibe và Họa sĩ René Loesh

Ông Bà  Họa sĩ Michiko Ktago

Họa sĩ Vĩnh  Ấn Kẻ Lãng Du Trong Tranh

Tôi rất mê hội họa nên hay đi xem triển lãm tranh ở Paris. Nhiều lần đứng trầm ngâm trước một bức tranh rất thích nhưng không thể lý giải được tại sao thích! 

Montparnasse là một khu phố thuộc Quận 14 của Paris. Từ cuối thế kỷ 19, thành phố Paris trở thành trung tâm nghệ thuật của toàn thế giới. Ở hữu ngạn sông Seine, khu phố Montmartre thu hút rất nhiều những họa sĩ. vào đầu thế kỷ 20, nơi đây tập trung rất nhiều nghệ sĩ, nhà văn nổi tiếng. Pablo Picasso trong số những nghệ sĩ danh tiếng đầu tiên tới đây. ở đây có những xưởng vẽ và giá thuê phòng không cao, cùng các quán cà phê bình dân giúp các nghệ sĩ nhanh chóng tìm thấy một không khí cởi mở và tương trợ. Tsuguharu Foujita không biết ai khi từ Nhật Bản tới Paris vào năm 1913, nhưng chỉ một buổi tối đã làm quen với Chaïm Soutine, Amedeo Modigliani, Julius Mordecai Pincas và Fernand Léger. Sau đó vài tuần thì Tsuguharu Foujita trở thành bạn của Juan Gris, Pablo Picasso và Henri Matisse. Trong thập niên 1920 "Những năm tháng điên loạn".Montparnasse đạt tới thời kỳ hoàng kim, tập trung rất nhiều họa sĩ lớn. 

Có thể kể tới: Pablo Picasso, Guillaume Apollinaire, Douanier Rousseau, Ossip Zadkine, Moïse Kisling, Marc Chagall, Nina Hamnett, Fernand Léger, Jacques Lipchitz, Max Jacob, Blaise Cendrars, Chaïm Soutine, Michel Kikoine, Pinchus Kremegne, Amedeo Modigli Ford Madox Ford, Ezra Pound,Marcel Duchamp, Suzanne Duchamp-Crotti, Constantin Brancusi, Paul Fort, Man Ray, Juan Gris, Diego Rivera, Tsuguharu Fujita, Marie Vassilieff, Grégoire Krug, Léonide Ouspensky, Léon-Paul Fargue, René Iché, Alberto Giacometti, André Breton, Pascin, Salvador Dali, Jean-Paul Sartre, Henry Miller, Django Reinhardt, Joan Miróvà Edgar Degas trong những năm cuối đời.Như đã thu hút những họa sĩ nước ngoài, Montparnasse cũng được rất nhiều nhà văn tìm đến. James Joyce từ Ireland, Morley Callagha từ Canada... Và đặc biệt từ Mỹ với Gertrude Stein, Peggy Guggenheim, Edith Wharton, Ernest Hemingway, F. Scott Fitzgerald... Các quán cà phê Dôme, Closerie des Lilas, Rotonde, Sélect, Coupole, Le Boeuf sur le Toit là nơi các nghệ sĩ tụ tập để gặp gỡ và tranh luận. Không chỉ là khu phố nghệ sĩ,Montparnasse cũng là nơi trú ngụ của một số chính trị gia lưu vọng, như Vladimir Ilyich Lenin, Porfirio Díaz, Lev Davidovich Trotsky, Simon Petlioura. Sau thập niên 1930 thì Montparnasse vắng vẻ dần. Thế chiến thứ hai nổi ra kết thúc thời kỳ hoàng kim của khu phố nghệ sĩ Montparnasse. 

Theo Cuốn từ điển của nhà xuất bản Roussard đã thống kê tới 4285 nghệ sĩ, từ danh tiếng đến ít tên tuổi, từng sống tại Montmartre trong hai thế kỷ 19 và 20. Từ khoảng năm 1820, các nghệ sĩ bắt đầu tập trung về đây. Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khu phố này từng là điểm đến của những họa sĩ nổi tiếng bậc nhất với các trường phái Ấn tượng, Lập thể, Dã thú..Cùng với Montparnasse ở bên tả ngạn, Montmartre trởthành trung tâm nghệ thuật của Paris. Tòa nhà Bateau-Lavoir từng đón tiếp Henri Matisse, Georges Braque, Pablo Picasso, Maurice Utrillo, Guillaume Apollinaire... Vincent van Gogh sống tại số 54, phố Lepic. Camille Pissarr vẽ đại lộ Montmartre. Moulin de la Galette từng là đề tài của Pierre-Auguste Renoir, Pablo Picasso, Vincent van Gogh, Henri de Toulouse-Lautrec, Maurice Utrillo... Các quán cabaret Le Chat noir, Lapin Agile có khách hàng là những nghệ sĩ, nhà thơ tên tuổi. (trích Nguồn) 

Họa Sĩ Nguyễn Đức Tăng

Có lần chúng tôi cùng họa sĩ Nguyễn Đức Tăng được họa sĩ Vĩnh Ấn mời đến nhà dùng cơm, mục đích ông muốn cho tôi xem những họa phẩm đắc ý của ông và một số sách qúy hiếm của nhiều tác giả nổi danh trên giới mà ông dày công sưu tầm, có những cuốn đã có mặt trên cõi đời này hằng trăm năm. Hẹn với họa sĩ Nguyễn Đức Tăng ở quán cà phê gần nhà họa sĩ Vĩnh Ấn để cùng đến. Nói đến họa sĩ Nguyễn Đức Tăng vài dòng chỉ là những nốt dạo nhạc về con người tài năng đức độ đó, người được mệnh danh là của “công chúng“ đã được những đồng hương Paris yêu mến nhất vì bản tính nhân hậu và sự nhiệt thành hay gúp đỡ người khác dù tuổi đời đã cao. Hầu hết những biểu ngữ, phông cảnh sân khấu văn nghệ và trang trí những ngày lễ tết của các hội đoàn Paris đều do anh vẽ suốt mấy chục năm nay. Anh qúy tôi nên đã vẽ hình bìa cho một tập thơ của tôi, và cũng vẽ tặng tôi vài bức chân dung mà tôi đã in vào những cuốn sách. Khi gặp Nguyễn Đức Tăng tôi thấy anh mặc veste nhưng không đeo cà vạt, tôi hơi ngạc nhiên vì thói quen của người họa sĩ có một thời làm ngoại giao này lúc nào quần áo cũng tươm tất. Tôi hỏi họa sĩ Nguyễn Đức Tăng: 

"Sao hôm nay anh không thắt cà vạt ?" 
Nguyễn Đức Tăng trả lời:
"Anh Vĩnh Ấn không thích cà vạt!"

Nghe vậy, tôi liền liên tưởng đến những lần gặp anh Vĩnh Ấn trong những buổi sinh hoạt văn học nghệ thuật, hay ở những quán cà phê Paris để nghe anh đọc thơ của Paul Valéry(1871-1945), Jacques Prévert(1900-1977) Appollinaire Guillaum e (1880-1918, hoặc nói chuyện văn chương Pháp ; tôi vẫn thấy anh mang cà vạt. Tuy nghĩ thế tôi vẫn gỡ chiếc cà vạt, anh Nguyễn Đức Tăng thấy vậy ngăn, nhưng tôi vẫn tháo ra,và nói:
«Lần đầu tiên anh Vĩnh Ấn mời đến nhà, tôi muốn như anh được tự nhiên, có lẽ anh ấy vui hơn khi tiếp mình»
Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng cười không nói thêm. Tôi kể cho anh nghe hôm dự buổi lễ tưởng niệm nhà biên khảo Phạm Trọng Nhân, lúc về chung với Gs Tôn Thất Thảo, anh Thảo kể cho tôi nghe về anh Vĩnh Ấn, anh nói: 

- Anh Vĩnh Ấn qua Pháp 1951 lúc còn trẻ. Đến Pháp anh vừa đi học vừa đi làm, những năm sau đó anh gặp chúng tôi ở Paris tuy thời gian có khác nhau, nhưng anh nhận chúng tôi là anh em, trong đó có: họa sĩ Võ Đình, nhà văn Phạm Công Thiện, nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, và tôi Tôn Thất Thảo ít tuổi nhất. Các anh kia đều là văn nghệ sĩ trừ tôi đi dạy học, thỉnh thoảng có làm thơ, viết biên khảo.
Tôi ồ lên và nói:
- Toàn là những cây văn nghệ độc đáo!

Đây là lần đầu tôi đến nhà anh chị Vĩnh Ấn, cảm giác làm tôi rất ngạc nhiên về cách sống của anh chị,một lối sống thanh bạch thật giản dị dù qua Pháp đã quá lâu nhưng vẫn giữ được nếp sống rất Việt Nam. Tôi cứ ngỡ dưới con mắt họa sĩ cách trang hoàng nhà của anh phải lộng lẫy kiểu tây phương như những câu chuyện về văn chương Pháp mỗi khi gặp anh. Nhưng không ! Căn phòng với ngọn đèn trần không chụp tỏa, ánh sáng vừa đủ rọi vào một tủ kính lớn, mặt tủ được dán kín một lớp giấy báo tôi không biết trong tủ đựng gì ! Cách bày biện rất đơn sơ, giấy dán tường màu nhạt làm tăng sự mộc mạc của chiếc bàn gỗ loại nhỏ đặt giữa phòng, cách đó là chiếc kệ trên có chiếc Radio thời thập niên 50. Tôi không thấy TV, có lẽ TV được để trong phòng ngủ. Trên tường không một bức tranh, nhưng nếu nhìn tổng thể căn phòng, bố cục như một bức tranh ấn tượng mà họa sĩ Vĩnh Ấn cố tình sắp xếp. Anh ChịVĩnh Ấn rất vui đón chúng tôi, anh nói: 
- Để chuẩn bị đón các bạn văn nghệ, chúng tôi sẽ mời các bạn dùng món quê hương, món Huế do chính chúng tôi làm.

Sau khi dùng cơm xong họa sĩ Vĩnh Ấn mới mở tủ lấy những sách qúy ra giới thiệu, lúc đó tôi mới biết anh sưu tầm sách qúy của Việt Nam và thế giới. Tủ sách của anh là một thư viện nhỏ, cuốn nào cũng đóng hộp cứng. Anh cho tôi xem những tập thơ cổ của Pháp, Ý…vv ...sách không đóng bìa, rời từng trang được viết tay hoặc in trên giấy đẹp, khổ lớn. Anh say sưa đọc những bài thơ Pháp. Anh hứa sẽ vẽ bìa cho tập thơ tôi. Anh nói:

Muốn thực hiện hình bìa thì họa sĩ phải đọc tất cả bài thơ nhiều lần để cảm hồn thơ, tìm xem tác giả muốn gởi gấm gì qua thi tập, sau đó mới hòa cảm xúc mình với thi tập để thực hiện chủ đề. Về tranh phụ bản nếu không do họa sĩ minh họa từ bài thơ trong thi tập thì thà để trống, chứ đừng đem một bức tranh có sẵn của một tác giả nào rồi nhét bừa vào tập thơ, bảo là phụ bản, ép duyên thơ và tranh thật là tội nghiệp!

Sau khi đọc thơ xong, họa sĩ Vĩnh Ấn mời chúng tôi vào một phòng bên cạnh, phòng này chứa toàn tranh, những bức tranh khổ lớn 1m20 không treo, nhiều bức chưa khung. Anh đem từng bức ra cho chúng tôi xem. Khi xem đến bức tranh hình thể không rõ nét, màu sắc ảo, nủa phần trên dùng những gamme màu buồn ánh sáng nhạt hắt vào mảng màu xanh đen tạo một khoảng không gian xoáy ốc sâu thẳm và tĩnh lặng. Bỗng họa sĩ Nguyễn Đức Tăng hỏi:
- Bức tranh này khó hiểu, anh muốn nói gì?.

Họa sĩ Vĩnh Ấn không ngước mặt về phía anh Nguyễn Đức Tăng, mắt vẫn chăm chú vào tấm tranh tiếp tụcđưa bức tranh khác cho chúng tôi xem, và trả lời :
- Xem tranh thì xem bằng mắt và cảm nhận bằng tâm hồn, đừng nghe bằng tai.

Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng chỉ đua mắt nhìn tôi chẳng tỏ ý phiền về câu trả lời đó. Tôi biết họa sĩ Nguyễn Đức Tăng nhà văn hóa xã hội nổi tiếng ở Paris rất cảm phục họa sĩ Vĩnh Ấn, họ hiểu nhau. Riêng tôi, quả thật tôi cũng chẳng hiểu bức tranh đó họa sĩ muốn nói gì, dù thời trẻ có thời cầm cọ chơi sơn dầu! Tôi chợt liên tưởng đến câu chuyện trong tác phẩm La Seconde Chance của Virgil Gheorghiu viết năm 1952:
"Một ngươì khách đến thăm một xưởng vẽ của một họa sĩ nhìn bức tranh vẽ một con chim bay, người khách thấy lạ lùng hỏi họa sĩ:
Thưa họa sĩ, ông vẽ một con chim đương bay sao tôi nhận không ra?! Họa sĩ vẫn cắm cúi vào vẽ, không ngẩng đầu lên trả lời: 
"Tôi không vẽ con chim đương bay, mà vẽ cái bay của con chim".

Họa sĩ Vĩnh Ấn từng đoạt những giải thưởng quốc tế :Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha ..vv. Giải thưởng Lá CọVàng Hội phê bình nghệ thuật Paris(1980, 1982). Giải thưởng Huy chương Vàng Viện Hàn lâm nghệ thuật văn hóa Âu châu và Mỹ châu(1982). Huy chương Vàng Viện Hàn lâm Quốc tế Lutèce(1982). Giải thưởng cuộc thi quốc tế Mỹ thuật lần thứ 17, năm 1985(ngày trao giải 22.3.1986).
Họa sĩ Vĩnh Ấn con người và tác phẩm như nhau, tâm hồn luôn say mê văn học nghệ thuật nên không nặng phần hình thức, sống đơn giản, thầm lặng nhưng rất tha thiết cuộc đời. Vì kín đáo, tranh lại khó hiểu nên tác phẩm của anh ít được công chúng VN hải ngoại biết đến. Nhưng may thay những nhà làm nghệ thuật quốc tế có con mắt chuyên nghiệp đã trân trọng anh qua những giải thưởng cao qúy. Cả đời anh Vĩnh Ấn say mê văn học Pháp, làm thơ rất nhiều nhưng không là thi sĩ, anh để hồn thơ gởi trọn vào sắc màu hội họa tìm con đường riêng lãng du mà người đời không sao hiểu hết ! Người họa sĩ đó đã vĩnh viễn ra đi ngày 5.5.2008 tìm cõi khác phiêu du. 

Họa Sĩ Lê Tài Điển

Không đề, sơn dầu trên bố 100cm x 100cm 

Họa sĩ Lê Tài Điển sinh ngày 31 tháng 8 năm 1937 ở Mỹ Tho, gia đình có quốc tịch Pháp. Tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế năm 1962. Học điêu khắc với điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ 1963, học trang trí với hoạ sĩ Mai Lan Phương. Cuối năm 1963 đi Pháp. Năm 1968 tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Paris. Làm việc tại xưởng vẽ của họa sĩ Raymond Legueult. Cuối năm 1971 về Việt Nam làm việc tại nhà in Sài Gòn Ấn Quán của Trương Vĩnh Lễ. Thành viên Hội Họa Sĩ Trẻ.
Sau biến cố năm 1975 qua Pháp Dạy trường Mỹ thuật ở Sartrouville cho đến ngày về hưu năm 2005.
Các giải thưởng hội họa :
Giải nhất trong "4ème Rencontre Internationale de peinture " tại Turin, Italia 1967.
* Giải ba Grand Prix de New york 1968.
Triển lãm 
1968 Phòng tranh Reflets
Cư Xá Quốc Tế Sinh Viên Paris
Salon Des Artistes Française ( Alliance Française Pháp Văn Đồng Minh Hội) Sài Gòn. 

Phòng La Dolce Vita Khách sạn Continemtal Sài Gòn. 
1979 Tại Espace Cardin với Nguyễn Cầm và Nguyễn Mộch.
1950-1983 Triển lãm hàng năm tại FIAP.
1981 Đức triển lãm Vietnamesische Kunst
1984 Salon du Printemps ( Espinay sur Seine)
1985 Salon Artistiue (Deueil La Barre)
1986 Phòng tranh Portai à Roulettes ở Salse ( Perpignan)
1991 Maison Des Associations 
1996 Phòng tranh Bellint Forum Des Halles
1988 Phòng tranh La Sensitive Paris 
1989 Salon National des Beaux Arts Paris.

Lê Tài Điển là một người đặc biệt dù ở chỗ đông người vẫn thấy cô độc ! Những lúc anh trầm ngâm suy tư bên ly rượu đỏ thấp thoáng trong anh hình ảnh của một triết gia. Anh rất ít nói nhưng khi có hứng anh nói rất hăng say. Ngoài những lúc dạy học anh thường thích ra ngồi quán bên đường giữa phố trầm ngâm nhâm nhi ly rượu đỏ nhìn khách bộ hành qua lại, chẳng biết anh đang suy nghĩ gì ? Nghệ sĩ tạo hình chẳng cần phải giải bày những ẩn tình qua lời nói vì ngôn ngữ đó đã được thể hiện trong những tác phẩm hội hội và điêu khắc. Thế giới nghệ thuật tạo hình muôn màu và vô tận mà các họa sĩ trẻ vào thập niên 60, 70 của thế kỷ trước tự tìm cho mình một con đường riêng, thử nghiệm các trường phái nghệ thuật khác nhau : từ lập thể, dã thú, biểu tượng, ấn tượng, trừu tượng đến siêu thực, tân hiện thực..
Ngay từ thuở còn trẻ khi mới bước chân vào thế giới tạo hình Lê Tài Điển đã chọn cho mình một phong cách mới là vẽ trừu tượng chối bỏ những mô thức cũ hiện thực dựa trên nguyên lý căn bản. Hầu hết các nghệ sĩ tạo hình trước khi chuyển sang vẽ các trường phái khác đều trải qua thời vẽ phong cảnh thiên nhiên, vì đó là thứ căn bản mà mọi người phải học và thực hành. Thuở ấy trường phái trừu tượng còn quá mới ở Việt Nam nên các họa sĩ ít có kinh nghiệm thể loại tranh này. Có lẽ Lê Tài Điển cũng thế, lúc đầu theo học hội họa anh chưa có khái niệm rõ ràng gì về tranh trừu tượng nhưng nguyên nhân nào đã thúc đẩy khiến anh theo đuổi đam mê suốt đời ? Có phải Lúc anh còn choàng khăn đỏ ở quê đã thần tượng những người dấn thân vì sự độc lập tự do cho quê hương, nhưng khi lớn thêm một chút anh đã hìn thấy sự tàn ác của những người lãnh đạo nhân danh phong trào chống thực dân ừa dối nên vỡ mộng ? Do đó anh đã chọn trường phái hội họa có tính phá cách để phản khán. Trừu tượng là những đường thẳng tự do không hình thể rõ ràng để biểu cảm nội tâm, một chân trời mở rộng chứa muôn sắc màu, trong khi cái hiện thực của Cộng Sản là duy nhất chỉ một màu được qquy định sãn và dóng khung ! Thế giới tạo hình vô tận, họa sĩ Lê Tài Điển vẫn trong sắc màu, tiếp tục theo học hội họa và tốt nghiệp ở Paris nên đã mở rộng kiến thức. Nghệ thuật tạo hình hôm nay rất đa dạng, ngoại cảnh ở thiên nhiên đã thay đổi và tâm thức nghệ sĩ cũng theo thời đại thay đổi, nhưng thẩm mỹ tạo hình vẫn là con đường riêng của mỗi nghệ sĩ.

Trong khoảng thời gian hơn hai năm gần đây, nhiều lần họa sĩ Lê Tài Điển đến với chúng tôi tâm sự tại tư gia của dịch giả, nhà báo Kim Long, trong đó có nhà biên khảo Mỹ Phước Nguyễn Thanh, nhà thơ Nguyễn Mây Thu và cựu giáo chức Vũ Thúy Hằng. Họa sĩ Lê Tài Điển và nhà báo Kim Long uống rượu, còn chúng tôi uống cà phê nước trà. Trong không khí thân tình họa sĩ đã nói về quê hương về những người tình trong đời, trong tác phẩm cũng như rượu hương vị đỏ uống hoài vẫn thèm! Ở Paris có vài lần tôi đi xem anh triển lãm tranh và điêu khắc. Tranh của anh khó hiểu, dùng nhiều màu sắc đậm: Màu đen như bóng đêm, màu đỏ như lá phong đỏ giữa mùa thu Paris, màu vàng xậm như màu lá úa cuối thu. Màu trắng nguyên chất như áng mây, mảng tuyết, và màu trắng đục như sương mù. Nhìn màu sắc thì thật đẹp nhưng tôi chẳng hiểu anh muốn vẽ gì ! Chiều nay trong căn phòng thơm nồng mùi rượu, Lê Tài Điển có hứng nên anh thao thao kể chuyện tình, tôi bỗng hỏi: 
"Tranh của Toi, moi chẳng hiểu gì ! Toi muốn nói gì trong tranh ? "
Lê Tài Điển đặt ly rượu xuống cười lớn nói: 
"Moi vẽ cho moi, Toi chẳng cần hiểu !"
Tôi liên tưởng đến câu nói của họa sĩ Vĩnh Ấn trả lời với họa sĩ nguyễn Đức Tăng , và câu nói của họa sĩ Đinh Cường: 
"Nghệ thuật là đời sống riêng biệt, hiếm hoi. Tôi đã vẽ trong mọi hoàn cảnh, nơi chốn Không biết để làm gì ? Có lúc gần như tuyệt vọng, đôi khi thấy mình được cứu rỗi. Và tôi lại tiếp tục vẽ, tiếp tục suy nghiệm...Xin đừng bắt tôi giải nghĩa tranh…"

Có một lần CLB Văn Hóa Paris tổ chức một buổi đón tiếp nhà văn nữ Trùng Dương cựu chủ báo Sóng Thần năm xưa ở Sài Gòn từ Cali sang. Hôm đó quy tụ nhiều khuôn mặt văn nghệ Paris. Nhà văn Kiệt Tấn và họa sĩ Lê Tài Điển uống rượu khá nhiều nhưng vẫn đọc thơ tặng các bạn. Họa sĩ Lê Tài Điển bỗng nổi hứng chấm rượu đỏ vẽ trên tấm trải bàn trắng vẽ chân dung của tôi. Họa sĩ Minh Châu ngồi gần đó nhìn tranh không nói gì, nhà văn Hồ Trường An mang tấm vẽ trao cho tôi và nói: 
" Rượu vẽ nên chẳng giống ông !" 
Họa sĩ Lê Tài Điển nghe được liền nói: 
"Tôi vẽ Đỗ Bình đang làm thơ, đang thiền!". Tôi đồng tình với tác giả. Bức tranh này được họa sĩ Nguyễn Hũu Nhật khen và đưa vào tập san Hương Xa số 2&3 bên cạnh bản vẽ khác của họa sĩ Nguyễn Đức Tăng. 
Môt lần khác tôi cùng vợ chồng nhạc sĩ Trần Quang Hải Bạch Yến có hẹn với nhạc sĩ Cung Tiến ở quán Đào Viên của chị Vũ Lan Phương. Trong thời gian ngồi chờ, có một bà khách người Pháp nhìn bức tranh sơn dầu trừu tượng của Lê Tài Điển khổ 2 m treo trên tường, bà liền hỏi tôi có biết tác giả của bức tranh này ? Bà khen là tuyệt vời và tự giới thiệu bà là một giáo sư hội họa ở Ý. Tôi đã cho bà địa chỉ của họa sĩ Lê Tài Điển để bà liên lạc.
Có lẽ không gì hơn nghe chính tác giả trả lời cuộc phóntg vấn. Xin trích một đoạn họa sĩ Lê Tài Điển Trả lời Báo Hành Động:
"…Thiết tưởng nghệ thuật là sự hằng cữu và phổ quát tức nhiên không bị đóng hẹp ở một biên cương, giới tuyến hay phục vụ cho một giai cấp xã hội. Nó là của nhân gian. Người nghệ sĩ làm việc cho sự sáng tạo, thái độ chúng ta là đòi hỏi quyền làm người. trong dó có quyền tự do được sáng tạo."
Báo Hành Động: 
Xin anh cho biết về những phê bình của báo chí Pháp về tác phẩm của anh và cho biết những dự định tương lai của anh? 

Lê Tài Điển: 
"Thật sự có nhiều phê bình trên báo chí Pháp và Việt, tôi nghĩ không quan trọng và tôi cũng không quan tâm đến lắm. Việc mình vẫn làm, đường của mình đi cứ đi và những dự định trong tương lai cũng không có gì lớn lao vaà đáng nêu ra trước, sự làm việc, học hỏi và tìm tòi là cần thiết với tôi hiện nay."

Trong Quán Café Paris

Vào một chiều thu năm 2004, chúng tôi gồm: Họa sĩ Thái Tuấn, họa sĩ Lê Tài Điển, họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật từ Na Uy, nhà văn Nguyễn Thùy từ Thụy Sĩ, nhạc sĩ Trịnh Hưng, và Đỗ Bình, kéo nhau vào quán cà phê ngồi nói chuyện văn nghệ. Mở đầu câu chuyện nhạc sĩ Trịnh Hưng, tác giả những nhạc phẩm vang bóng một thời:Tôi Yêu, Lối Về Xóm Nhỏ, Tình Thắm Duyên Quê…kể chuyện vừa về VN thăm lại những bạn cũ: như nhà thơ Hữu Loan, nhà thơ Hoàng Cầm, gia đình nhà thơ Quang Dũng và một số nhạc sĩ trong đó có Hoàng Giác…vv... Nhạc sĩ Trịnh Hưng nói: 
“Tôi về Hà Nội hỏi thăm Hữu Loan chẳng ai biết cả! Tôi vào cả viện âm nhạc Hà Nội hỏi cũng chẳng ai biết! Mãi về sau hỏi trong giới xe ôm mới có người biết và chỉ đường xuống Thanh Hóa.” 
Nguyễn Hữu Nhật hỏi: 
“Sao anh không tìm những người bạn nhạc sĩ của anh ngày trước mà hỏi?” Trịnh Hưng:
« Hơn 50 năm chưa về Hà Nội bạn bè cũ tan tác cả; biết các ông ấy ở đâu mà tìm! Tôi có thăm chị Văn Cao và nhờ chị hỏi thăm những nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, Tô Vũ, may ra gặp các anh ấy thì sẽ rõ ». 
Trịnh Hưng lại nói tiếp: 
«Lúc ở Sài Gòn tôi có đến thăm anh Ưng Lang, Y Vũ, Tô Hải, nghe anh Ưng Lang nói cũng sắp sửa sang định cư bên Mỹ. Còn Y Vũ vẫn sáng tác và sống bằng nghề chơi nhạc như xưa, dạo này đời sống nghệ sĩ bên ấy có khá hơn lúc sau năm 75. Y Vũ biết tôi ngày xưa là bạn của Y Vân nên chú ấy rất qúy tôi». 
Chuyển đề tài sang hội họa, tôi hỏi họa sĩ Lê tài Điển đang là giáo sư hội họa ở Paris:
«Tại sao anh chọn phái trừu tượng?» 
Lê Tài Điển đặt tách cà phê xuống bàn, chậm rãi nói: 
«Ngay từ đầu thập niên 60 khi còn theo học ngành hội họa ở Huế, sau đó sang Paris tiếp tục học; Moi đã chọn trường phái tranh trừu tượng, đó là một cách đối kháng ngầm với lối Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa ở ngoài Bắc. »
hi họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật:
«Cho đến bây giờ ở VIệt Nam vẫn chưa dám phát triển trường phái trừu tượng!»
Họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật quay sang hỏi họa sĩ lão thànhThái Tuấn: 
«Anh nghĩ sao về lối vẽ tranh trên vi tính hiện nay?»
Họa sĩ Thái Tuấn:
- Thật là tuyệt! Vẽ trên vi tính vừa mới về kỹ thuật vừa diễn tả được ý tưởng qua hình sắc để đạt tới cái tuyệt vời của nghệ thuật trong hội họa. 
Tôi góp ý: 
- Thế giới của nghệ thuật là vô tận, mỗi nghệ sĩ tạo ra một thế giới của riêng mình. Thế giới của anh Thái Tuấn là thế giới phụ nữ. 
Họa sĩ Thái Tuấn cười và nói: 
- Trong hội họa có trường phái Ấn Tượng, Hậu Ấn Ttượng, tôi đố các cậu sau Siêu Thực là cái gì ? Có Hậu Siêu Thực không? 
Bị một câu hỏi bất ngờ mọi người cứ ngẩn ra! Nhà tư tưởng Nguyễn Thùy:
- Tôi xin phép các anh để trả lời câu hỏi của anh Thái Tuấn: “Nếu có “Hậu Hiện Thực” thì chắc phải là "Siêu Siêu" Hiện Thực! Đã là “Siêu” rồi thì chắc không thể có cái “Siêu Siêu”. Tôn giáo quan niệm Thượng Đế là đấng Siêu Thực, đấng hoàn toàn tượng trưng', không thể có môt đấng nào “Hậu Thượng Đế”, “Siêu Thượng Đế”. Không một họa sĩ nào vẽ được hình Thượng Đế, không một Điêu khắc gia nào tạc được tượng Thượng Đế. Tôi cũng không gặp những từ “Tân Siêu Thực” (néosuréalisme) hay “Tân Tượng Trưng” (néosymbolisme). Vậy, nếu có “Hậu Siêu Thực, Hậu Tượng Trưng” thì chỉ là một cái “Không” (le Vide, le Néant, le Rien) thôi, lý trí không thể hình dung ra sao.

Vì trời đã xế chiều họa sĩ Thái Tuấn phải gĩa từ chúng tôi ra về. Đó là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Tôi thích tranh Thái Tuấn từ trước năm 1975, người họa sĩ sử dụng rất ít đường nét về chi tiết chân dung, họa sĩ có biệt tài về cách dùng màu sắc, giản lược tài tình những gam màu tạo những khoảng trống xanh vàng tím, để thành một thế giới riêng Thái Tuấn. Thời gian sau ông về Sài Gòn sống với người con trai cả đến năm 2008, họa sĩ Thái Tuấn đã giã từ màu sắc cõi đời để về miền vô tận tạo một không gian sắc màu mới, và cùng thời gian đó, nhạc sĩ Trịnh Hưng cũng giã từ cõi đời để về miền vĩnh cửu. Và naăm 2014 Nguyễn Hữu Nhật cũng trở về hư vô, 5000 câu Lục bát của anh trong tập bản thảo Động Đình Hồ cũng theo anh mất dấu!.

Họa sĩ Vũ Hối TTừ Hội Họa Đến Thư Họa. 

Nhà Biên khảo Nguyễn Thanh, Nhà văn Nguyễn Thùy, Vũ Hối, Đỗ Bình 

thi họa sĩ Vũ Hối: Ông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1932 tại Tam Kỳ, Quảng Nam, do thiên phú Vũ Hối đã biết làm thơ và hoa tay vẽ đẹp ngay từ thuở nhỏ. Là một tên tuổi lớn của nền văn học nghệ thuật nước nhà và quốc tế, ông được mời vẽ chân dung tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy, vẽ chân dung Đại tướng Creighton W. Abrams. Đã nhận Giải Khôi Nguyên Hội Họa Quốc Tế năm 1963 tại Hoa Kỳ. Sáng lập trường phái Luân Vũ Họa (Paintings In Motion) và Thư Họa (Handwriting Painting). Là nghệ sĩ Á Châu duy nhất được vinh danh về Sáng Tạo Nghệ Thuật cho thế giới, tại Atlanta - Hoa Kỳ ngày 5-11-1994. 
Có Tên Trong: 
- Văn Học Tự Điển thời Việt Nam Cộng Hòa
- Bách Khoa Tự Điển Larousse, bộ tự điển nổi danh nhất của Pháp và thế giới.
Tự Điển Danh Nhân Thế Giới, ấn hành tại Anh Quốc năm 1998 (Dictionary of International Biography 1998 – Cambridge – England).
- Được ghi trong “5000 Personalities of The World”, do American Biographical Institute ấn hành năm 2000. Là nhà Thư Họa Việt Nam duy nhất được ghi tên trong “Tuyển Tập Thư Họa Bậc Thầy Đông Phương”, ấn hành tại Tokyo – Nhật Bản năm 2006 (Volume 6International Editonal – Tokyo – Japan).
Ngoài danh tài về họa, Vũ Hối còn là một nhà thơ, nhà nhiếp ảnh, đã xuất bản nhiều thi tập. 

Trời phú choVũ Hối một bàn tay tài hoa để vẽ và một trái tim đa cảm để làm thơ. Nhờ năng khiếu bẩm sinh đó đã mở cánh cửa nghệ thuật cho người nghệ sĩ bước vào con đường hội họa để thành danh. Ông vẽ từ tranh Sơn Dầu qua tranh Lụa, từ hiện thực đến siêu thực nên khi chuyển sang Thư Pháp không khó khăn mà còn đầy chất sang tạo. Thư Pháp là nghệ thuật viết chữ đẹp đã có từ hàng ngàn năm trước đối với văn tự của nhiều nước trên thế giới. Ngày xưa ở Trung Hoa đời Đường có những nhà thư pháp nổi tiếng như Vương Hi Chi, Vương Hi Hiến, Nhan Tài Khanh, Liễu Công Quyền. Ở những nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn Việt Nam Thư Họa là nghệ thuật dùng bút lông mực tàu để viết chữ như vẽ những câu thơ, câu đối, câu ca dao, hay ngạn ngữ, danh ngôn bằng chữ Hán, chữ Nôm, thuở xưa nước ta có hững nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến. Kể từ khi có chữ quốc ngữ có vài người như các nhà thơ Đông Hồ, Trụ Vũ, Vũ Hoàng Chương cũng đem thư pháp vào chữ Quốc Ngữ trước Vũ Hối. Mặc dù bước vào con đường thư pháp sau nhưng Vũ Hối đã sáng tạo ra lối vẽ riêng để thành trường phái Luân Vũ Họa hay Hội Họa Sinh Động (Paintings In Motion để lột tả hết sắc thái độc đáo của con chữ. Để diễn tả thần khí của thư họa nét vẽ mang sắc thái con chữ có lúc chứa ý chí rực lửa theo lối ‘hỏa tự’, có lúc trầm mặc tĩnh lặng chứa tư tưởng hiền triết theo lối ‘thủy tự’ diễn tả qua nhũng đường nét nghệ thuật viết chữ Việt tạo thành bức tranh rồng bay phượng múa. 

Vũ Hối Và Những Sinh Hoạt Nghệ Thuật Bên Trời Âu.

Năm 1997, họa sĩ Vũ Hối sang Paris ra mắt thi phẩm: Chiêm Bao Trở Giấc, xuất bản năm 1997.
Tháng 9 năm 2002, họa sĩ Vũ Hối sang Paris ra mắt thi phẩm Mây Ngàn viết chung với thi sĩ Hoài Việt TS Nguyễn Văn Hướng, thi phẩm, khổ lớn, giấy màu, láng, rất đẹp do nhà xuất bản Anh Em ở Nauy in năm 2002. Dịp này họa sĩ Vũ Hối mang tặng tôi bức tranh lụa: Đôi Chim Trên Cành Trúc, màu sắc, phong cảnh thật đẹp.
Trong cuốn tuyển tập đặc biệt:«Vũ Hối Nghệ Thuật Thư Họa», khổ lớn, giấy láng, hình màu rất đẹp do nhà xuất bản EM T.MO S.J Magazine in năm 2007, người viết được thi họa sĩ chọn một tấm hình sinh hoạt ngày ra mắt sách và Thư Họa của Vũ Hối năm 1997 tại Paris, do CLB VH VN Paris tổ chức, để đưa vào tuyển tập cùng với nhiều tấm hình của sinh hoạt khác. Vào năm 2009 họa sĩ Vũ Hối cùng một số anh chị em văn nghệ sĩ từ Mỹ, Canada, Âu Châu sang Paris sinh hoạt văn học nghệ thuật chủ đề : Thu Tao Ngộ. Sau buổi sinh hoạt, đêm đó trở về nhà tôi hai người bạn thời thơ ấu Vũ Hối và Nguyễn Thùy cùng nhau tâm sự. Sáng hôm sau trong lúc dùng điểm tâm, Vũ Hối nói:
- Mình với Nguyễn Thùy nói chuyện đến gần sáng.
Nguyễn Thùy tiếp:
- Hai đứa chỉ nói về số bạn bè tan tác sau 1975. 
Rồi vừa cười vừa hỏi:
- Nhớ lại chiều qua nơi phòng khánh tiết một số đông các ông các bà, cả những cô trẻ vây quanh Vũ Hối xin 'thư họa', nhiều bà, nhiều cô xin như thế, Hối có 'thư sướng' không? 
Vũ Hối cười trả lời:
- Mệt thấy mồ, sướng con mẹ gì. Dĩ nhiên, được mến mộ thì cũng vui lắm. Mà sao Thùy hỏi lạ vậy?  
Nguyễn Thùy trả lời:
- Tôi bảo có 'thư sướng' không chứ có bảo ông 'sướng' đâu?'. Ông có biết 'thư sướng là từ Hán Việt, theo Tự Điển Nguyễn Văn Khôn là 'khoan khoái, thoải mái, dễ chịu' chứ có phải 'sướng theo nghĩa thông thường đâu.
Rồi Nguyễn Thùy hỏi tiếp:
- Có người nói 'thư họa là vẽ chữ', có như vậy không?
Vũ Hối :
- Thì phần nào cũng có thể nói thế. Còn Thùy nghĩ sao?. 
Nguyễn Thùy trả lời:
- Rất phục Hối vì Hối là người đầu tiên đã đem chữ viết VN vào Hội họa. Thêm nữa, theo mình' Thư Họa là đem thơ vào họa'. Hối đã thư họa nhiều câu danh ngôn, nhiều câu thơ trong một số tác phẩm nổi tiếng và số thơ của nhiều người. Nhưng mình nhắc Hối chỉ thư họa những câu thơ nào sáng giá, hay đẹp chứ đừng vì cảm tình thư họa những câu thơ không hay đẹp gì khiến nhiều ngườit có thể nghĩ 'Hối đã khiến ngón thư họa của Hối trở nên tầm thường.
Nguyễn Thùy quay sang tôi hỏi :
- Anh quan niệm thế nào là hội họa? 
Tôi vội xua tay trả lời :
- Anh phải hỏi anh Vũ Hối chứ sao lại hỏi tôi?! 
Nguyễn Thùy tiếp:
- Thấy anh thích tranh lắm sao không có ý kiến? 
Vì muốn chấm dứt câu chuyện để còn thời gian chuẩn bị cho cuộc du ngoạn, tôi nói:
- Theo tôi hội họa là những cảm xúc mạnh pha chút tưởng tượng của họa sĩ: đã kết hợp màu sắc, ánh sáng, bóng tối thể hiện qua những đường nét đậm nhạt để thành tác phẩm. Nhưng bức vẽ không phải là sự sao chép cho giống với hình mẫu ; mà phải sáng tạo để tác phẩm có nét riêng, nghĩa là phải độc đáo cả nội dung lẫn hình thức.
Vũ Hối:
- Một quan niệm rất hội họa. 

Hai người cứ mải mê nói chuyện nên tôi thúc dục các anh dung điểm tâm nhanh để các bạn đến đón đi chơi, nhưng Nguyễn Thùy vẫn gân cổ lên nói:
- Mình chẳng biết gì về Hội Họa nhưng lại ưa nói quan điểm của mình về Hội Họa. Theo mình, hội họa là thứ nghệ thuật tĩnh, nó sôi nổi trong trầm mặc, nó động trong bất động, nó càng đón nhận khinh bạc càng trở nên cao trọng, lâu dài. Mình đã viết như thế trong truyện 'Mây Rồng', có tặng Hối, Hối thấy sao?  
Vũ Hối đáp:
- Có đọc. Truyện hay nhưng quan điểm Hội Họa nơi quyển đó, cao kỳ quá, khó ai thực hiện được. Mình chưa đủ khả năng để kết hợp cả hai lối 'công họa và tâm họa' như Thùy nói. Mà chắc cũng khó có người làm nổi. Mình già rồi, sức yếu nữa nên khó lòng nghiên cứu, học hỏi thêm để có thể có được nhiều tác phẩm sáng giá hơn »
Nguyễn Thùy :
- Nếu có thêm càng tốt. Nhưng với bao tác phẩm đã nổi tiếng, chừng ấy, mình thấy Hối đã đem lại cho Việt Nam một tiếng vang khá lớn cho nền Hôi Họa VN rồi. Mình mừng và vui hơn nữa là Hối là nguời Quãng Nam, đồng hương với mình, xứ Quãng được thêm một 'nhân tài' về Hội Họa thì cũng hãnh diện lắm chứ. 

Tôi đành phải cắt ngang câu chuyện của các anh, và hẹn tối về sẽ để các anh tha hồ nói. Dùng điểm tâm vừa xong thì các bạn cũng vừa đến. Chúng tôi : Nhà báo Nguyễn Bảo Hưng, nhà biên khảo Mỹ Phước Nguyễn Thanh, nhà văn Nguyễn Thùy, họa sĩ Vũ Hối và tôi cùng đi Giverny thăm viện bảo tàng của danh họa Claude Monet cha đẻ trường phái ấn tượng.
Con đường từ Cergy đến làng Giverny chạy xuyên qua vùng Vexin français, bình nguyên phía Tây Bắc Paris, vùng đất phì nhiêu phủ màu xanh của đồng cỏ, ruộng lúa mì, cụm rừng... Sông ngòi chảy uốn khúc, xoáy mòn lớp đất vôi tạo nên một địa hình mấp mô gồm đầm lầy, thung lũng và đồi gò nối tiếp nhau. Kỳ vĩ hơn tất cả chính là dòng sông Seine, cửa ngõ thông thương từ Paris ra biển cả. Dòng sông chảy ngoằn ngoèo soi bóng hàng cây dương liểu, sườn dốc cheo leo, những tòa dinh thự lâu đài...Từ xa xưa nơi đây đã in dấu chân từng đoàn quân La Mã. Những phế tích do tàn phá của chiến tranh suốt nhiều thế kỷ, chứng tỏ từ lâu dân cư đã sống gắn bó với mảnh đất và dòng sông.- Do cảnh sắc độc đáo cùng với môi trường sinh vật phong phú, một khu bảo tồn thiên nhiên được thành lập tại vùng này vào năm 1995 (Parc naturel régional du Vexin français). Thỉnh thoảng dọc bên vệ đường hay giữa cánh đồng ta còn gặp những cây thập giá bằng đá vôi chạm trổ, bốn nhánh hình tam giác, người xưa dùng làm cột mốc ranh giới giữa các xứ đạo, các đất đai sở hữu. Ngày nay di sản nông thôn này trở thành biểu tượng cho vùng Vexin français. Làng Giverny nằm dọc theo sườn phía nam dãy đồi, bên cạnh hợp lưu nơi sông Epte đổ vào sông Seine.

Trong lúc anh Nguyễn Thanh mải mê lái xe tìm đường, anh Nguyễn Bảo Hưng vui vẻ cất tiếng:
- Anh Vũ Hối từ Mỹ sang, lại là họa sĩ, hôm nay được bọn mình dẫn đi thăm Giverny là trúng tủ rồi đấy 
Tuy không phải là họa sĩ, nhưng thích tìm hiểu về hội họa, đặc biệt là trường phái ấn tượng, anh Nguyễn Bảo Hưng giải thích:
- Anh phải biết, với người Mỹ, Giverny được coi là cái nôi của hội họa ấn tượng và là chốn hành hương của hầu hết các đoàn du khách Mỹ viếng thăm Pháp.Thực ra Claude Monet không phải là người sáng lập ra trường phái ấn tượng. Sở dĩ tên tuổi ông được gắn liền với hội họa ấn tượng, ấy là nhờ nhà phê bình Loui Leroy, trong một bài báo, đã dùng từ impressionniste để nói lên cảm nhận của mình trước bức họa Rạng Đông(Soleil levant,1972) được Claude Monet đem ra trình làng tại cuộc triển lãm do ông cùng một nhóm họa sĩ đứng ra tổ chức riêng vào năm 1974 tại Paris. Thế là từ Impressionnisme được ghi vào sổ bộ đời hội họa từ đấy để nói về Trường phái Ấn Tượng(*). Còn nói rằng Giverny là cái nôi của hội họa ấn tượng cũng không hẳn đúng. Bởi vì tất cả những bức tranh mang đường nét ấn tượng hầu hết đều được các họa sĩ theo trường phái này như Manet, Sisley, Pissarro, Renoir v.v… thực hiện trong các thập niên 1860, 1870 và tại nhiều địa điểm không gian khác nhau.Chỉ từ sau 1883 Monet mới tới trú ngụ tại Giverny thuộc hạt Eure không cách thành phố Rouen bao xa. Nhưng vì ngôi nhà xinh xắn với khu vườn phô bày đủ mọi sắc hoa, và đặc biệt cái đầm hoa súng (l’étang des nénuphars) với cây cầu kiểu nhật (le pont japonais) duyên dáng được dùng làm đề tài cho nhiều bức tranh ngoạn mục đã khiến địa danh này trở thành đối tượng viếng thăm của khách yêu chuộng hội họa trên toàn thế giới. 

Câu chuyện tới đây thì cũng là lúc anh Nguyễn Thanh bắt đầu lái xe đi vào thành phố Auvers Sur Oise. Lần theo dấu vết xưa qua những phiến đá tường đã phủ màu thời gian, chiều xuống ánh nắng dần phai nhìn con phố cổ bên dòng sông Oise trầm mặc hơn. Nguyễn Thanh bỗng dừng xe trên con đường chính, ngay trước quán trọ Ravoux, trạm dừng chân chót của Van Gogh. Chúng tôi ngẩn ngơ trước ngôi nhà trọ nay đã được chỉnh trang lại bộ mặt trông sáng sủa hơn, nhưng trong lòng không khỏi bồi hồi nghĩ tới tới hai tháng cuối đời của nhà danh họa này trên căn gác xép chạm mái. Còn đang trầm ngâm suy tưởng bỗng nghe tiếng Nguyễn Thanh kêu gọi qua công viên bên cạnh nơi có bức tượng đồng Van Gogh do Zadkine sáng tác. Sau khi chụp một tấm chung lưu niệm, đứng cạnh tượng Vũ Hối thở dài than: 
- Trông Van Gogh khốn khổ quá, như kẻ đi lang thang, bụi đời!
Nguyễn Thanh mở ống kính ngắm chụp, sau khi bấm máy liền góp ý:
- Van Gogh đã từng thố lộ: "Khi tôi càng xấu xí, già, ác độc và nghèo, tôi càng tìm cách chuộc lại những thất bại ấy bằng cách làm cho màu của tôi rực rỡ, cân đối, tỏa sáng. 

Từ khu nhà ga cũ đến ngôi giáo đường cổ tất cả chúng tôi theo đường lên dốc khá quanh co, tìm đến ngôi nhà thờ nơi bìa làng. Van Gogh đã dừng chân nơi đây và họa bức tranh mặt ngoài hậu cung nhà thờ, diễn tả một kiến trúc không theo phép phối cảnh nhưng bằng những đường cong quẹo. Anh Vũ Hối đi tới đi lui trên dốc đá góc nhà thhờ ngắm từng chi tiết như tìm cách đứng đúng chỗ Van Gogh đặt giá vẽ, rồi mới nâng máy lên thu hết hình ảnh vào ống kính. Từ ngôi nhà thờ theo con đường làng ra khỏi vòm cây phong là cánh đồng mênh mông hiu quạnh, nơi an nghỉ của danh họa Van Gogh và ngôi mộ bên cạnh là người em trai Théodore. Trong hoang vắng, đứng trước hai ngôi mộ quá đơn sơ của họa sĩ nghèo mộ chỉ lấp mà không xây, bia được cuốn bằng thừng! 

Đất Trời cũng cảm động xót xa cho người họa sĩ tài hoa nên kết những loài hoa cỏ đầy màu sắc rực rỡ thành tấm thảm phủ lên ngôi mộ. Anh Vũ Hối và Nguyễn Thùy lần đầu đến thăm nên xúc động mạnh rướm lệ. Vũ Hối từ từ thu mình ngồi cạnh mộ Van Gogh, anh im lặng nhưng chắc hẳn lòng đang thổn thức? Trên khuôn mặt buồn bã ấy có chút gì thương tiếc và ngưỡng mộ một danh tài hội họa thế giới bạc mệnh nằm trên cánh đồng hoang vu! Sau khi thăm mộ Van Gogh và người em trai Théodore, chúng tôi đi thẳng ra cánh đồng trước mặt đến nơi đã ghi dấu kỷ niệm họa phẩm "Đồng Lúa Mì và Đàn Quạ".
Đứng trước thiên nhiên, mường tượng lại bức tranh, chắc hẳn trong mỗi người chúng tôi đều có cảm nhận riêng về hình ảnh đầy bí ẩn: "Đàn quạ đen bay sà trên đồng lúa chín vàng dưới bầu trời màu xanh sẫm như báo hiệu cơn dông sắp đổ xuống?"
Chúng tôi định đi tiếp vào thăm làng nhưng con đường đến đây chia làm ba ngã, biết chọn ngã nào? Anh Vũ Hối bảo: 
- Van Gogh vẽ đường cho chúng ta nhưng không chỉ dẫn rõ ràng, vậy thì đi đâu cũng được". 
Nguyễn Thanh bảo đường quẹo tay trái trở về nhà thờ. Anh Bảo Hưng khuyên nên đi thẳng, tất cả chúng tôi theo hướng đó.
Tối hôm đó về nhà, chúng tôi thức khuya nói chuyện. Nguyễn Thùy bảo Vũ Hối:
- Hai họa sĩ đều nổi tiếng nhưng một 'vừa nổi tiếng vừa nổi miếng' (ý nói có tiền, giàu) còn một thì 'vừa nổi tiếng vừa nổi điên', còn Vũ Hối thì nổi gì?  
Vũ Hối trả lời:
- Chẳng nổi gì cả, đời quá nhiều bầm dập chỉ 'nổi chìm' thôi ! 

Họa sĩ Vũ Hối là một nghệ sĩ tài hoa nhưng nhìều thăng trầm. Sự nổi tiếng về hội họa đã làm lu mờ phần nào mặt văn thơ cho dù nhà thơ vẫn sáng tác đều, vẫn cho đời những vần thơ hay nhưng công chúng tìm đến anh qua hội họa.Tôi hỏi Vũ Hối :
- Giữa Thơ và Hội họa nếu phải chọn một anh chọn cái nào ? 
Vũ Hối:
- Mình xin chọn cả hai, nếu tách ra là chết (!)Vì Thư Trung Hữu Họa. 

Trước năm 1975 và đến bây giờ, họa sĩ Vũ Hối luôn luôn chân thành với tình bạn, ở trong hoàn cảnh nào dù lúc thăng hay trầm con người đó vẫn thế, vẫn không xa cách với bạn. Bản tính hiền hòa đôn hậu và trung nghĩa đã được các bằng hữu rất qúy trọng. Họa sĩ Vũ Hối chọn một lối sống hòa nhã, an lạc, ông mê say văn học nghệ thuật, xem nhẹ vật chất mà chỉ trợng tình tngười. Ngoài những tác phẩm sơn dầu vẽ chân dung các yếu nhân, Vũ Hối còn vẽ những bức tranh sơn dầu khác ở các thể loại phong cảnh, ấn tượng, những tác phẩm đó đều thể hiện tấm lòng tha thiết của ông đối với quê hương, đất nước. Những tác phẩm: Cảnh Làng Quê, Con Trâu, Cầu Tre, Lũy Tre, Phố Cổ, Ven Sông, Quê Hương với dòng sông Thu Bồn, Tình Mẫu Tử …vv dù xa xăm nhưng vẫn ẩn trong tâm khảm. Tác phẩm Chim Bồ Câu đã nói lên sự khát khao tự do, sự yên bình, ước mơ của nhân loại.

Con đường văn nghệ của Vũ Hối mang hương thơm tình tự dân tộc nơi xứ người. Đã có biết bao người tiếp nối ông đi trên con đườngThư Họa. Điều làm cho ông hãnh diện và sung sướng là người con trai của ông là họa sĩ Vũ Quốc, một họa sĩ tài hoa chuyên về sơn dầu đã từng làm những cuộc triển lãm thành công. Rồi đây họa sĩ Vũ Quốc theo con đường văn nghệ của cha, thi họa sĩ Vũ Hối và của bác ruột là cố giáo sư, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học Vũ Ký gieo những bông hoa đẹp cho đời.
Văn Học Nghệ Thuật quả có một sức cuốn hút lạ lung hễ ai đã vướng vào nó thì cả đời khó dứt, muốn bỏ nó để đỡ gánh tâm sức nhưng nó lại chẳng phụ mình nên đành phải theo đến cùng! Con đường nghệ thuật mênh mông bất tận, ý tưởng đa chiều và muôn lối. Chỉ có những kẻ đam mê nghệ thuật một cách say đắm mới đi trọn con đường đến cùng dù là gian nan, trắc trở thiếu thốn… Đó là nghệ sĩ."

GS Họa sĩ Thái Hạc Oanh

Họa sĩ Minh Châu Tranh Lụa 

Paris vào thu Paris trời trong vắt, những sợi nắng vàng lóng lánh làm những hàng cây bên đường rực rỡ. Mấy hôm nay thời tiết bỗng thay đổi, những cơn mưa tầm tã ngày đêm như trút nước khiến trời đất xám ngắt! Trên đồi Montmartre trong khu họa sĩ, những bức tranh đẹp treo bán cũng được các họa sĩ bọc kỹ lại vì sợ mưa ướt. Paris dù mưa hay nắng sinh hoạt vẫn bình thường, vẫn đông người qua lại, khách du lịch yêu nghệ thuật vẫn đến viện bảo tàng hay lên đồi Montmartre ngắm tranh. Trong cơn mưa ấy, ở một khu phố Paris có một người nghệ sĩ già rất tài danh, có một thời vang bóng vừa qua đời bỏ lại Paris khoảng sắc màu và những sáng tạo để tan biến vào cõi hư vô! Nói đến nữ sĩ Minh Châu là nói đến một sự đam mê văn học nghệ thuật, một hành trình không mỏi dù tuổi đời và sức khỏe của bà không thể chống chỏi với thời gian.Tôi phải bắt đầu như thế nào khi viết về một người mà tôi quá thân và qúy trọng về nhân cách lẫn tài năng, tôi định sau này dành thời gian sẽ viết về những khuôn mặt làm văn hóa mà tôi đã may mắn được quen biết. Hôm nay sau khi đi thăm bà, nhìn hình dáng cong như vầng trăng khuyết sắp tàn ngồi trên xe lăn do bệnh bại liệt.Thấy bà đang cặm cụi trên những bản tranh, những trang bản thảo thơ mà lòng tôi trào dâng xúc động! Có lẽ bà đang cố chống chỏi với thời gian để hoàn thành tác phẩm cuối đời. Do đó tôi quyết định viết về người nữ sĩ này mà chẳng đợi về sau, như một món quà mang chút ân tình tri ngộ. 

Tôi may mắn thường được nghe bà kể chuyện đời và những câu chuyện văn chương nghệ thuật. Bà giải thích:"Thường nhật mỗi khi nói đến tranh lụa người ta hay lẫn lộn loại vẽ batik (vẽ lụa theo phương pháp Javanaise) hay vẽ lụa theo lối trang trí (décoration) trên áo, trên khăn quàng, cà vạt khăn bàn.vv...khi vẽ xong phần trang trí, lụa được đem hấp để giữ cho khỏi phai. Lối vễ này thường thấy trong mỗi quận Paris, ở đó có những lớp dạy vẽ ngắn hạn, mỗi khóa chừng ba tháng"
Tôi hỏi:
- Theo cô vẽ lụa trong ngành hội họa Việt Nam có gì đặc biệt? 
Nữ sĩ Minh Châu cười tỏ vẻ hài lòng về câu hỏi. Bà nhấp tách nước trà thấm giọng và nói tiếp:"Ðó là môn học chính trong chương trình trường Quốc Gia Cao Ðẳng Mỹ Thuật, mà giá trị ngang với các môn học chính khác như: Môn Sơn Dầu, Ðiêu Khắc, Sơn Mài, vì tại nơi đây đã phát xuất lối vẽ lụa và được công nhận như một môn học chính thức". 

Ðược biết trường Mỹ Thuật có từ thời Pháp thuộc và được tiếp nối đến sau này. Các sinh viên muốn theo học đều phải có bằng tú tài, và qua kỳ thi tuyển về năng khiếu vẽ. Chương trình học tương tự như những trường Mỹ Thuật tại Pháp, và có thêm vài môn thích hợp với tâm hồn bản xứ là môn vẽ lụa và vẽ sơn mài.
Tôi hỏi:
- Vẽ lụa và vẽ sơn dầu cái nào khó hơn? 
Bà trả lời: 
- Vẽ lụa có phần khó khăn hơn vẽ sơn dầu bởi vẽ lụa cần nhiều chi tiết khi thực hiện như tránh xóa bỏ, sửa đổi đường nét, tránh đổi màu. Trong khi đó vẽ sơn dầu chúng ta có đổi màu thêm hay bớt theo sở thích gam màu của họa sĩ. Theo tài liệu cô đã được đọc khi còn ở VN và khi còn dạy ở trường thì môn vẽ lụa gia nhập chương trình có thể vào năm 1923, 1924 thuở sơ khai của trường Mỹ Thuật Ðông Dương (Hà Nội). Giáo sư J. TARDIEU là vị giám đốc đầu tiên của trường mỹ thuật. Cô được nghe họa sư Tôn Thất Ðào một trong những người tốt nghiệp các khóa đầu của trường, ông là tác giả nhiều họa phẩm lụa giá trị cũng như các vị giáo sư tiền bối Lê Văn Ðệ, Nguyễn Văn Long .vv… ông kể lại: Nguồn gốc tranh lụa là do tình cờ của một sinh viên thời đó( xin thuật lại với mọi dè dặt) Khi ông ta thực hiện một tác phẩm theo lối thủy mạc, vẽ xong ông không vừa ý liền đem đi rửa, mong sửa đổi đôi chút. Trong lúc rửa một phần màu thấm vào lụa, một phần trôi bớt, hình nét tự dưng trở thành mờ mờ, ảo ảo, nhẹ nhàng, khiến cho tác phẩm trở nên đặc biệt có một giá trị mới lạ xưa nay chưa từng thấy. Hồi đó ông ta chưa ý thức được sự việc này nên đem tranh thu vào một góc. Ðến lúc thày bảo góp bài, ông đưa bức vẽ ra nhưng trong lòng rất băn khuăn, e dè ! Nhưng khi giáo sư J. Tardieu nhìn thấy tác phẩm không những đã không rầy la, mà còn ôm choàng lấy học trò tỏ lời khen ngợi đã có được sáng kiến mới mẻ, rồi khuyến khích tiếp tục dựa trên cách thức vẽ thường ngày mà bổ túc cho hoàn hảo thành một lối vẽ riêng chỉ có ở Việt Nam. Tranh lụa ra đời từ đó và xem như môn học chính tại trường,và được phổ biến khắp nơi. 

Giọng Huế của bà rất êm và nhẹ nhàng như lời ca dẫn tôi vào thế giới đầy sắc màu. Bà thấy tôi im lặng tưởng tôi không muốn nghe nên nói:
- Ðỗ Bình đọc thơ cho cô nghe. 
Tôi vội vàng nói: 
- Thôi! Cô cứ nói tiếp đi, em đang lạc vào thế giới sắc màu! Theo cô bức tranh lụa nào tuyệt hảo nhất thời ấy?. 
Bà trả lời liền mà không suy nghĩ: 
- Bức tranh lụa tuyệt hảo nhất là bức: Người Ðàn Bà Nằm Võng của họa sĩ Lê Văn Ðệ 
Ðôi mắt già mờ mờ ngước ra khung cửa như nuối tiếc một quãng trời xa xăm đã trôi mất. Bà ngậm ngùi than:
- Chiến tranh và thời gian… bao nhiêu đổi dời tại quê nhà, không biết bức tranh đó còn hay mất ?! 
Tôi hỏi :
- Sự khác biệt giữa tranh thủy mạc và tranh lụa? 

Nữ sĩ Minh Châu:
- Tranh thủy mạc là những bức tranh vẽ bằng mực tàu như tranh thủy mạc Trung Hoa, Nhật Bản, Ðại Hàn, nói chung tranh Á Ðông. Màu thường nằm trên mặt lụa, và màu do những chất đá làm ra...Có nhiều đề tài vẽ theo lối học thuộc lòng cho nên chúng ta được chứng kiến ngay trước mắt khi họa sĩ muốn biểu diễn cho xem. Nét phóng nhanh, bay bướm, cũng thật đẹp. Riêng tranh lụa Việt Nam màu thấm vào sớ lụa, vì trong khi vẽ lụa được rửa nhiều lần nên trông trong suốt. Ðó là những điểm đặc biệt không vẽ theo lối thuộc lòng. Khi sáng tác thì tuần tự theo từng giai đoạn như đã thực hiện cho một bức tranh sơn dầu. Kết luận tranh lụa Việt Nam chịu ảnh hưởng của hai lối vẽ Á Ðông và Tây Phương, nhưng vẫn giữ được một sắc thái hoàn toàn Việt Nam.

Tôi thấy câu chuyện kéo dài sợ bà mệt định ngưng, nhưng bà hiểu ý tôi liền nói:
- Ta trối cho em đó! Gắng nhớ sau mà viết! 

Nghe những lời của bà lòng tôi chùng lại, hồn rưng rưng lệ, thương bà và nhớ mẹ nơi quê nhà.Tôi cố ngăn dòng cảm xúc để hỏi tiếp:
- Cách thức thực hiện một tác phẩm lụa? 
Bà nhoẻn miệng cười rất tươi nói:
- Thực hiện một tác phẩm lụa cũng giống như thực hiện một bức tranh sơn dầu phải qua những phần chính sau đây: Trình bày- Bố cục -Ðường nét,-Màu sắc- Sự sống động toàn diện. Vẽ tranh lụa đòi hỏi người sáng tạo một tâm tình kiên nhẫn, rất công phu, nhiều tỉ mỉ hơn là thực hiện một bức sơn dầu. Vấn đề chọn màu linh động, nhất là lối hòa hợp giữa các màu đạt đến mức độ màu theo ý muốn. Hình ảnh và đường nét trong bức tranh phải tuyệt đối hoàn hảo, bởi lẽ khi thực hiện không thể sửa được. Có thể nói: "Hạ tịch bất hồi" cho lối vẽ lụa thuần túy. Lối vẽ lụa ở các trường Mỹ thuật Sài Gòn, Huế lụa được căng lên khung gỗ, cho một lớp hồ thật mỏng, nếu không khéo "pha hồ" thì lụa khó ăn màu, khi vẽ đường nét nhoè ra, đôi khi màu loang không thấm vào được lụa thay vì hồ đúng mức, màu chấm đến đâu sẽ thấm nhẹ nhàng vào lụa. Họa sĩ bao giờ cũng vẽ trên lụa ướt, đôi khi đợi lụa tiu tiu. Lụa phải chọn thứ dệt đều sợi, tránh những phần có gút vì khi thực hiện màu sẽ đọng lại mất phần giá trị tác phẩm. Có thể nói một tác phẩm lụa hình nét phải thật đúng, không sửa, không tẩy.Tranh vẽ hoàn tất chỉ còn những mảng màu hòa hợp với nhau một cách thần tình, kỹ thuật thật điêu luyện làm cho khi nhìn bức tranh thêm xúc cảm, thêm hồn (âme), không phân biệt được mặt trái, mặt phải của bức tranh. 

Tôi chợt thấy bài thơ trong tập bản thảo, bài: “ Thơ cho Huế”. Tôi cầm lên rồi ngâm cho nữ sĩ nghe. Tôi thấy khuôn mặt bà lộ những nét hân hoan. Tôi hỏi:
- Cô xa Huế lâu rồi chắc nhớ Huế lắm phải không? 
Bà còn đang xúc động vì bài thơ của mình, mỉm cười nói:
- Huế là máu thịt của cô, là tiếng nói luôn theo bên mình,...Nhưng chao ôi.. thế mà vẫn nhớ Huế da diết chi lạ! 

Bà quên sao được kinh thành Huế năm xưa; thời hoàng kim còn thấp thoáng trong nỗi nhớ được thể hiện qua thơ, trong họa của bà về một ký ức tuổi thơ với biết bao kỷ niệm đẹp của gia đình. Thân phụ của nữ sĩ là một trong những quan nhất phẩm đại triều. Trong số những tấm hình được trưng bày trên bàn, tôi thấy hình của vua Bảo Ðại và Nam Phi hoàng hậu, bên cạnh là tấm hình thân phụ của bà đưa vua Bảo Ðại lúc còn trẻ sang Pháp. 
Tôi may mắn thường được nghe bà kể chuyện đời và những câu chuyện văn chương nghệ thuật. Bà giải thích:
- Thường nhật mỗi khi nói đến tranh lụa người ta hay lẫn lộn loại vẽ batik (vẽ lụa theo phương pháp Javanaise) hay vẽ lụa theo lối trang trí (décoration) trên áo, trên khăn quàng, cà vạt khăn bàn.vv...khi vẽ xong phần trang trí, lụa được đem hấp để giữ cho khỏi phai. Lối vễ này thường thấy trong mỗi quận Paris, ở đó có những lớp dạy vẽ ngắn hạn, mỗi khóa chừng ba tháng 
Tôi hỏi:
- Theo cô vẽ lụa trong ngành hội họa Việt Nam có gì đặc biệt? 
Nữ sĩ Minh Châu cười tỏ vẻ hài lòng về câu hỏi. Bà nhấp tách nước trà thấm giọng và nói tiếp: 
- Ðó là môn học chính trong chương trình trường Quốc Gia Cao Ðẳng Mỹ Thuật, mà giá trị ngang với các môn học chính khác như: Môn Sơn Dầu, Ðiêu Khắc, Sơn Mài, vì tại nơi đây đã phát xuất lối vẽ lụa và được công nhận như một môn học chính thức. 

Ðược biết trường Mỹ Thuật có từ thời Pháp thuộc và được tiếp nối đến sau này. Các sinh viên muốn theo học đều phải có bằng tú tài, và qua kỳ thi tuyển về năng khiếu vẽ. Chương trình học tương tự như những trường Mỹ Thuật tại Pháp, và có thêm vài môn thích hợp với tâm hồn bản xứ là môn vẽ lụa và vẽ sơn mài.
Tôi hỏi:
- Vẽ lụa và vẽ sơn dầu cái nào khó hơn? 
-Bà trả lời:
- Vẽ lụa có phần khó khăn hơn vẽ sơn dầu bởi vẽ lụa cần nhiều chi tiết khi thực hiện như tránh xóa bỏ, sửa đổi đường nét, tránh đổi màu. Trong khi đó vẽ sơn dầu chúng ta có đổi màu thêm hay bớt theo sở thích gam màu của họa sĩ. Theo tài liệu cô đã được đọc khi còn ở VN và khi còn dạy ở trường thì môn vẽ lụa gia nhập chương trình có thể vào năm 1923, 1924 thuở sơ khai của trường Mỹ Thuật Ðông Dương (Hà Nội). Giáo sư J. TARDIEU là vị giám đốc đầu tiên của trường mỹ thuật. Cô được nghe họa sư Tôn Thất Ðào một trong những người tốt nghiệp các khóa đầu của trường, ông là tác giả nhiều họa phẩm lụa giá trị cũng như các vị giáo sư tiền bối Lê Văn Ðệ, Nguyễn Văn Long .vv… ông kể lại: Nguồn gốc tranh lụa là do tình cờ của một sinh viên thời đó( xin thuật lại với mọi dè dặt) Khi ông ta thực hiện một tác phẩm theo lối thủy mạc, vẽ xong ông không vừa ý liền đem đi rửa, mong sửa đổi đôi chút. Trong lúc rửa một phần màu thấm vào lụa, một phần trôi bớt, hình nét tự dưng trở thành mờ mờ, ảo ảo, nhẹ nhàng, khiến cho tác phẩm trở nên đặc biệt có một giá trị mới lạ xưa nay chưa từng thấy. Hồi đó ông ta chưa ý thức được sự việc này nên đem tranh thu vào một góc. Ðến lúc thày bảo góp bài, ông đưa bức vẽ ra nhưng trong lòng rất băn khuăn, e dè! Nhưng khi giáo sư J. Tardieu nhìn thấy tác phẩm không những đã không rầy la, mà còn ôm choàng lấy học trò tỏ lời khen ngợi đã có được sáng kiến mới mẻ, rồi khuyến khích tiếp tục dựa trên cách thức vẽ thường ngày mà bổ túc cho hoàn hảo thành một lối vẽ riêng chỉ có ở Việt Nam. Tranh lụa ra đời từ đó và xem như môn học chính tại trường,và được phổ biến khắp nơi.

Giọng Huế của bà rất êm và nhẹ nhàng như lời ca dẫn tôi vào thế giới đầy sắc màu. Bà thấy tôi im lặng tưởng tôi không muốn nghe nên nói:
- Ðỗ Bình đọc thơ cho cô nghe. 

Tôi vội vàng nói:
- Thôi! Cô cứ nói tiếp đi, em đang lạc vào thế giới sắc màu! Theo cô bức tranh lụa nào tuyệt hảo nhất thời ấy?». 
Bà trả lời liền mà không suy nghĩ : «Bức tranh lụa tuyệt hảo nhất là bức : Người Ðàn Bà Nằm Võng của họa sĩ Lê Văn Ðệ» 
Ðôi mắt già mờ mờ ngước ra khung cửa như nuối tiếc một quãng trời xa xăm đã trôi mất. Bà ngậm ngùi than:
«Chiến tranh và thời gian… bao nhiêu đổi dời tại quê nhà, không biết bức tranh đó còn hay mất ?!»
Tôi hỏi :«Sự khác biệt giữa tranh thủy mạc và tranh lụa?»
Nữ sĩ Minh Châu: «Tranh thủy mạc là những bức tranh vẽ bằng mực tàu như tranh thủy mạc Trung Hoa, Nhật Bản, Ðại Hàn, nói chung tranh Á Ðông. Màu thường nằm trên mặt lụa, và màu do những chất đá làm ra...Có nhiều đề tài vẽ theo lối học thuộc lòng cho nên chúng ta được chứng kiến ngay trước mắt khi họa sĩ muốn biểu diễn cho xem. Nét phóng nhanh, bay bướm, cũng thật đẹp. Riêng tranh lụa Việt Nam màu thấm vào sớ lụa, vì trong khi vẽ lụa được rửa nhiều lần nên trông trong suốt. Ðó là những điểm đặc biệt không vẽ theo lối thuộc lòng. Khi sáng tác thì tuần tự theo từng giai đoạn như đã thực hiện cho một bức tranh sơn dầu. Kết luận tranh lụa Việt Nam chịu ảnh hưởng của hai lối vẽ Á Ðông và Tây Phương, nhưng vẫn giữ được một sắc thái hoàn toàn Việt Nam.» 

Tôi thấy câu chuyện kéo dài sợ bà mệt định ngưng, nhưng bà hiểu ý tôi liền nói:«Ta trối cho em đó ! Gắng nhớ sau mà viết!»
Nghe những lời của bà lòng tôi trùng lại, hồn rưng rưng lệ, thương bà và nhớ mẹ nơi quê nhà.Tôi cố ngăn dòng cảm xúc để hỏi tiếp: 
«Cách thức thực hiện một tác phẩm lụa?»
Bà nhỏen miệng cười rất tươi nói : «Thực hiện một tác phẩm lụa cũng giống như thực hiện một bức tranh sơn dầu phải qua những phần chính sau đây: Trình bày- Bố cục -Ðường nét,-Màu sắc- Sự sống động toàn diện. Vẽ tranh lụa đòi hỏi người sáng tạo một tâm tình kiên nhẫn, rất công phu, nhiều tỉ mỉ hơn là thực hiện một bức sơn dầu. Vấn đề chọn màu linh động, nhất là lối hòa hợp giữa các màu đạt đến mức độ màu theo ý muốn. Hình ảnh và đường nét trong bức tranh phải tuyệt đối hoàn hảo, bởi lẽ khi thực hiện không thể sửa được. Có thể nói: «Hạ tịch bất hồi»cho lối vẽ lụa thuần túy. Lối vẽ lụa ở các trường Mỹ thuật Sài Gòn, Huế lụa được căng lên khung gỗ, cho một lớp hồ thật mỏng, nếu không khéo «pha hồ » thì lụa khó ăn màu, khi vẽ đường nét nhoè ra, đôi khi màu loang không thấm vào được lụa thay vì hồ đúng mức, màu chấm đến đâu sẽ thấm nhẹ nhàng vào lụa. Họa sĩ bao giờ cũng vẽ trên lụa ướt, đôi khi đợi lụa tiu tiu. Lụa phải chọn thứ dệt đều sợi, tránh những phần có gút vì khi thực hiện màu sẽ đọng lại mất phần giá trị tác phẩm. Có thể nói một tác phẩm lụa hình nét phải thật đúng, không sửa, không tẩy.Tranh vẽ hoàn tất chỉ còn những mảng màu hòa hợp với nhau một cách thần tình, kỹ thuật thật điêu luyện làm cho khi nhìn bức tranh thêm xúc cảm, thêm hồn (âme), không phân biệt được mặt trái, mặt phải của bức
tranh. 

Họa sĩ Vũ Thái Hòa 

Họa sĩ Vũ Thái Hòa 

Những Nét Sinh Hoạt của Nhạc sĩ & Họa sĩ Vũ Thái Hòa.
 
VũTháiHòa tên thật và cũng là bút danh ký trên các sáng tác: Thơ, Văn, Họa, Nhạc và Hòa âm. 
- Sinh năm 1947 tại Trung Lao, Nam Định 
- 1965 bắt đầu sinh hoạt nghệ thuật viết và làm báo tại Sàigòn 
-1970 tự học Hội họa, Nhạc và Hòa âm 
- Định cư tại Pháp 1984 

Âm Nhạc: 
1970 bắt đầu sáng tác Tình Ca và Thánh Ca - Nhiều bài Tình Ca của Vũ Thái Hòa đã thâu băng và xuất bản tại Sàigòn trước 1975. 

Hội Họa
-1986 Giải thưởng hội họa Libé nhật báo Libération Champagne (France) 
- 1987 Họa phẩm : Longue a été la nuit (đêm dài) của Vũ Thái Hòa được UNESCO giới thiệu đưa vào Viện bảo tàng Loukine d’ Arsonval (France) và VTH được UNESCO tặng huy chương hội họa : Picasso - Miró 
-1999,2000,2001 Trong Hội đồng Giám khảo thi hội họa quốc tế do UNESCO tổ chức hàng năm tại Troyes (Pháp) 
-2/2003 Triển lãm tranh tại Salon des Artisans d’Art (Hội Chợ Mùa Xuân)(Troyes)(Pháp) 
- 10/2003 Triển lãm tranh tại : (Trung Tâm Văn Hóa) Centre Culturel de la Chapelle Saint Luc (Thành phố La Chapelle Saint Luc) (Pháp) 
- 2/2004 Triển lãm tranh tại : Maison pour tous thành phố Sainte Savine.(Pháp) 
- 4/2004 Triển lãm tranh tại Ngân hàng BNP Paribas (Troyes) (Pháp) do Trung tâm văn hóa Thành phố Troyes (Pháp) tổ chức 
- 13/12/2008 - 5/1/2009 Triển lãm tranh tại Galerie du Cinéma Eden thành phố Romilly Sur Seine (Pháp) do Trung tâm Văn Hóa thành phố Romilly Sur Seine tổ chức
(Tranh của Họa sĩ Vũ Thái Hòa xuất hiện trên đường phố Pháp Quốc) 

Được tin Họa sĩ Vũ Thái Hòa sắp ra đi, chúng tôi gồm nhà biên khảo Mỹ Phước Nguyễn Thanh, nhà thơ nữ Nguyễn Mây Thu đại diện tạp chí Cỏ Thơm, nhà thơ Trịnh Cơ đại diện nhóm cựu chiến hữu, và tôi về Troyes thăm anh rong cơn mưa tầm tã trắng mù cả đường! Ở nhà nhạc sĩ Anh Việt Thanh tôi gọi phône cho chị Vũ Thái Hòa, chúng tôi nói sẽ đến thẳng nhà thương, chị nói sẽ đến nhà thương và cho cháu chờ ở cổng. Chúng tôi đến cổng nhà thương cháu đã chờ sẵn dưới mưa, vào đến phòng bệnh, chị Vũ Thái Hòa đã chờ, anh Vũ Thái Hòa thiếp ngủ vì đang vào thuốc. Trong khoảng thời gian chúng tôi thăm anh Vũ Thái Hòa, một nhóm nhạc sĩ người Pháp đã mang đàn đến trước của phòng của anh Vũ Thái Hòa, và trình tấu nhạc phẩm : Tình khúc Tuyên. Mười ngón tay lã lướt trên phím dương cầm của nhạc sĩ Laurant làm xao xuyến người nghe. Bản nhạc được một nhạc sĩ Pháp trình tấu, ông không hiểu lời ca khúc nói gì nhưng những hình nốt, ký hiệu trong âm nhạc là ngôn ngữ quốc tế, nếu nhạc phẩm được viết từ một nhạc sĩ có tài nó sẽ thể hiện được cảm xúc, tình cảm của tác giả qua giai điệu và tiết tấu, bao gồm những hình ảnh màu sắc ẩn trong âm thanh. Người nhạc sĩ dương cầm thả hồn theo từng nốt nhạc trầm bổng giai điệu dìu dặt khoan thai. Tôi thấy chị Hòa mắt rướm lệ. Chị bùi ngùi cho chúng tôi biết đây là ca khúc anh Vũ Thái Hòa đã sáng tác tặng chị sau ngày cưới, ca khúc : Tình Khúc Tuyên, Tuyên là tên của chị để kỷ niệm tình nghĩa vợ chồng một đời sẽ gắn bó với nhau. Đây cũng tấm lòng thương yêu của người vợ dành trọn cho chồng. Khúc nhạc tình êm dịu ấy chắc sẽ dìu tác giả người nghệ sĩ đa tài Vũ Thái Hòa nằm thiếp trên giường bệnh âm thanh màu vĩnh cửu. 

Đỗ Bình 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét