Thứ Năm, 10 tháng 12, 2020

Tâm Sự


 
Kính dâng Cậu, Mợ.

Quê ngoại tôi ở Ninh Bình,một tỉnh nhỏ phía nam Hà Nội.Ông ngoại tôi mất sớm lúc bà tôi trên dưới 30,cụ ở vậy,tần tảo nuôi ba người con.Người con gái lớn, chúng tôi gọi là bá,lập gia đình sớm,rồi theo chồng vào Nam.Bà mất trước đợt di cư 1954 nên tôi không biết mặt, chỉ thấy ảnh,bà đẹp và rất giống mẹ tôi.

Người con thứ hai là bác Sử, bạn học của cha tôi, do đó mới có mối nhân duyên 63 năm, đúng như người ta chúc”sắt cầm hoà hợp,đầu bạc răng long “.Mẹ tôi là con út.Nghe nói, ngày hai người gặp nhau lần đầu, mẹ tôi không dám nhìn cha tôi, chỉ bưng nước,bánh trái ra rồi lủi mất,mà cha tôi cũng không dám nhìn thẳng,chờ mẹ tôi quay vào rồi mới lén nhìn theo,c hỉ mê vì cái gáy trắng và mấy sợi tóc mai loà xoà...
Cha mẹ tôi thành hôn năm 1933. Sau khi sanh hai chị tôi, năm 1934 và 1936, mẹ tôi bị tắc ống dẫn trứng không mang thai được nữa. Cha tôi lo lắm, vì chưa có con trai nối dõi, tìm thầy chạy thuốc lung tung trong nhiều năm, may sao gặp được một bác sĩ già người Pháp là ông Paterson chữa khỏi nên mới có tôi.Khi ra đời, tôi bị “tràng hoa quấn cổ", tức là cuống rốn quấn quanh cổ một vòng, nên khi lọt lòng, kéo theo lá nhau, làm mẹ tôi bị băng huyết,gần chết. Tôi sinh ra trong mùa khói lửa, năm 1942, lúc đệ nhị thế chiến đang mãnh liệt, vì vậy cha tôi mới đặt tên là Thanh Bình và ra đền Quan Thánh cho làm nghĩa tử của Quan Vân Trường để nhờ ông bảo vệ...Lúc đó, người Pháp tuy vẫn giữ các cơ quan hành chánh nhưng bị Nhật cai quản, chỉ huy kinh tế suýt sụp dân chúng bắt đầu kiệt quệ.

Cha tôi, nhờ làm công chức, lại có ít ruộng ở quê cho thuê, nên còn phong lưu, có khả năng giúp đỡ họ hàng,người nghèo,nuôi nấng chúng tôi đầy đủ và thoát khỏi nạn đói năm Ất Dậu 1945. Qua năm 1946,hoà bình trở lại, mẹ tôi sanh thêm một em trai, nhưng tôi lại bị bệnh nặng, viêm màng óc. Theo lời cha mẹ tôi, trong vòng mấy ngày tôi sốt liên miên,rồi mê man tay bắt chuồn chuồn, cả nhà đều tuyệt vọng. Tôi nằm ở bệnh viện tư do bác sĩ Quát làm giám đốc, sau này ông làm đến Thủ Tướng VNCH.Y sĩ điều trị của tôi là bác sĩ Chất.Lúc đó Penicilline mới có trên thị trường,tôi nhờ thứ trụ sinh mới này mà thoát chết.
Khoảng cuối năm 1946, phong trào kháng chiến chống Pháp giành độc lập đang lên mạnh, cha tôi,cũng như bao người cùng lứa tuổi, vì lòng yêu nước,hăng hái tham gia: ông bỏ sở, vào chiến khu,theo đơn vị di chuyển lung tung, Nghĩa Lộ, Nho Quan, Hoà Bình...

Mẹ tôi dẫn chúng tôi về quê nội, một làng nhỏ,cách tỉnh lỵ Bắc Giang khoảng 2 cây số.(làng Phúc Tằng,bên cạnh là làng Phúc Long,huyện Việt Yên,mà dân cư đại đa số đều thuộc họ nội).Nhà tôi tọa lạc trên một khu đất rộng,có tường bao quanh.Từ cổng vào, bên trái là giếng nước, bên phải là nhà bếp. Căn nhà 3 gian 2 chái nằm ở phía trái, cuối sân là vườn mà mẹ tôi để một phần trồng dâu nuôi tằm, một phần,nuôi gà,vịt. Góc sân, xế cửa nhà là một cây soan cổ thụ.Cây soan ở trong Nam không có, miền Trung gọi là sầu đông. Khoảng tháng giêng,tháng hai, hoa soan nở đầy, những cánh hoa mầu tím nhạt theo gió bay tơi tả, rồi phủ kín cả một góc sân.Tôi chưa tới tuổi đi học, cả ngày chỉ lò mò đi bắt mấy con sâu dâu, hoặc mê mải ngồi cạnh mấy nong tằm,nhìn chúng ăn lá,nghe rào rào như tiếng mưa.
Lũ tằm mau lớn lắm,mới đầu nhỏ xíu,mầu xanh,chỉ ít lâu sau là lớn bằng đầu đũa, đổi mầu vàng rồi kéo kén.Khi kén đã chín,mẹ tôi kéo tơ đem bán,còn lại mấy con nhộng, bà biến chế thành những món ăn rất hấp dẫn.Những con nhộng vừa thơm vừa bùi này,đã gần 50 năm nay,tôi chưa có dịp thưởng thức lại.Trong thời gian này,cô Tổng ở chung với chúng tôi.Cô là chị ruột của cha tôi (ở ngoài Bắc, chị hay em gái của cha đều được gọi là cô), hoá chồng sớm, không có con, nên rất thân với gia đình chúng tôi cô chiều tôi còn hơn mẹ tôi nữa. Chúng tôi sống an lành được khoảng một năm thì tang tóc xẩy ra:em trai tôi bất hạnh bị đậu mùa và qua đời.(Nếu không tản cư, ở Hà Nội, được chủng ngừa, thì đâu ra cớ sự).Mẹ tôi buồn bã,mất ăn,mất ngủ,người gầy xọm. 
Tôi còn quá nhỏ để hiểu thấm thía nỗi buồn tử biệt, nhưng sau này,mỗi khi hồi tưởng lại chuyện xưa,l òng tôi lại dâng lên một niềm xót đau khó tả. 

 
Chiến tranh mỗi ngày một mãnh liệt,quân Pháp mở rộng phạm vi hoạt động, làng tôi đã nhiều lần trở thành bãi chiến trường.Khi giặc càn quét,mẹ và hai chị tôi chạy bộ,cô tôi quang gánh chạy theo,một bên tôi ngồi,một bên là bao gạo, phía sau, đạn bắn tơi bời. Mấy anh du kích,thấy bóng Tây thịt chạy có cờ, nhưng Tây rút đi là về hoạnh hoẹ dân làng: tuần lễ vàng,tuần lễ bạc, vét hết của thiên hạ, tiêu thổ kháng chiến diệt chó. Ai không tuân lệnh thì bị gán là Việt gian! Người nào giầu có nhà lớn là bị đốt,chó bị đập chết hết..con chó nhà tôi cũng không thoát, dù đã được giấu kỹ trong kho lúa. Thấy tình hình bất ổn, gia đình tôi dắt díu nhau lên Sơn Tây, gần chỗ cơ quan cha tôi làm việc. Sơn Tây đất cằn cỗi, toàn đá ong, có những giếng nông,nước trong, nhìn thấy đáy có những đồi sim hoa tím bạt ngàn. (Ngày đó tôi chưa biết Đôi Mắt Người Sơn Tây của Quang Dũng và Những Đồi Hoa Sim của Hữu Loan).

Nhưng ở đây cũng không yên,vì Pháp tấn công liên miên,thả bom,hoặc nhảy dù càn quét,chúng tôi quay về Nhã Nam, tá túc ở nhà cụ Chánh Cán,thân phụ một người bạn của cha tôi.Lúc đó,tôi học gần nhà,hai chị tôi học trường Ngô Sĩ Liên,bên Luộc Hạ. Ngày ngày,hai chị đi bộ 8,9 cây số đến trường,chiều về lo cơm nước. Mẹ tôi buôn hàng sáo, nghĩa là đi chợ mua vải và đủ thứ đồ lặt vặt, rồi gánh đi bán rong ở các làng lân cận. Ngày nào bà cũng đi từ sớm,đến khuya mới về. Đôi khi,bà về trễ, chị em chúng tôi lo sợ cuống cuồng, ra tận cổng lành đứng ngóng, đến khi thấy bóng dáng gầy gò, quen thuộc của bà từ xa,chúng tôi ùa ra đón. Các chị gánh hàng,tôi níu tay mẹ đòi quà.! Lúc nào tôi cũng có vài cái kẹo lạc, kẹo vừng, hay bánh đa.Đến nhà, mẹ tôi lấy cơm nguội ra ăn, thường chỉ toàn là rau muống luộc ,cà chua xanh, chấm nước muối. Mẹ tôi vẫn tươi cười hỏi về sinh hoạt của các con trong ngày, hỏi về sự học hành, về giao tình với thầy, với bạn.Nhưng một đôi khi, bên ánh đèn dầu vàng vọt, tôi thoáng nghe tiếng mẹ thở dài, bóng bà cô đơn, chập chờn trên vách.
Nước mắt tôi trào ra, tôi thương mẹ, nhớ cha, chỉ mong cha tôi bỏ kháng chiến, bỏ cơ quan để về xum họp với gia đình.Ước vọng của tôi chỉ là ảo vọng: Mẹ tôi vẫn âm thầm tần tảo nuôi con,cha tôi vẫn miệt mài theo kháng chiến. Ông leo lên tới chức Chủ tịch huyện Quốc Oai! Đó là thời tiểu tư sản trí thức còn được cộng sản o bế để lợi dụng. Chúng theo đúng chiến thuật vắt chanh bỏ vỏ nên những người đầy công trạng này dần dần bị thanh trừng,khai trừ hoặc hạ tầng công tác.

Đến năm 1952, cha tôi hiểu được bộ mặt gian manh của cộng sản,viện cớ mẹ tôi bị bệnh nặng để xin nghỉ phép nhiều lần, rồi sau cùng,xin từ nhiệm.Khi cha tôi trở về với gia đình thì cũng là lúc tôi bị sốt rét nặng,phải nằm nhà thương, hai mông chích đầy quinine nên bị thọt, đi cà nhắc, phải chống gậy.
Phi cơ Pháp oanh tạc hàng ngày, chúng tôi phải học đêm .Con nít 9,10 tuổi,đi học xa 2,3 cây số, đêm chỉ có cây đèn ló đốt bằng dầu hỏa, ánh sáng leo lét, mà phải qua vùng cây cối rậm rạp hoặc bãi tha ma thì đứa nào chẳng sợ. Tôi có mấy đưa bạn đi cùng đường, nhưng chúng ác lắm, thấy tôi chân yếu không đi nhanh được, nên khi qua chỗ nguy hiểm là chúng hè nhau bỏ chạy, để tôi khóc sướt mướt vì sợ, nhưng vẫn cố gắng lết về tới nhà. Khi cha tôi biết chuyện do tụi bạn nói lộ, đêm nào ông cũng chống ba-toong đến đón tận trường. Đó là chưa kể những đêm phải đi đánh trống cà rùng, hô khẩu hiệu để cổ động quần chúng.

Đến cuối năm 1952,gia đình tôi dọn về Trị Cụ, xây một căn nhà nhỏ vách đất, mái rơm, để khỏi phải ở nhờ.Thời gian đó, tôi sống rất hạnh phúc vì có nhà riêng, được gần cả cha lẫn mẹ,lại có đứa em trai mới sinh đầu năm 1953 để bồng bế, nâng niu.Hai chị tôi vẫn học ở trường Ngô Sĩ Liên, tôi thì học gần nhà mới.
Sau khi chị cả tôi lập gia đình, em tôi được 6 tháng, đang bụ sữa thì mẹ,và em của tôi “dinh tê”tức là về vùng tề,d o Pháp kiểm soát. Mẹ tôi mở cửa hàng bán gạo và tạp hoá ở tỉnh lỵ Bắc Giang,hai chị tôi vẫn học ở Luộc Hạ, cha con tôi ở lại Trị Cụ,cha tôi dậy học làm kế sinh nhai, được trả lương bằng gạo. Ông cũng trồng rau đậu, nuôi gà vịt để có thức ăn.Thời gian khổ sở nhất trong tuổi ấu thơ của tôi bắt đầu, vì tôi xa cha đã nhiều lần, đây là lần đầu tiên tôi xa mẹ.Đối với cha, tôi vừa yêu vừa sợ, vì cha tôi vốn nghiêm khắc.Đối với mẹ, tôi chỉ yêu mà không sợ, bà là người che chở và bênh vực cho tôi mỗi khi cha tôi nổi trận lôi đình.Cha tôi vẫn đi dậy học, buổi tối lại phải họp hành,học tập,do đó lúc nào tôi
cũng lủi thủi một mình, cơm nước nhiều khi phải tự lực.Tôi thèm bàn tay dịu dàng,vuốt ve của mẹ, nhớ những món ăn hấp dẫn mẹ làm, áo ước những món quà nho nhỏ mỗi khi mẹ về chợ. Đêm đêm tôi thường gặp mẹ trong mơ.Một lần tôi mơ thấy mẹ bồng em đi trên con đường làng,tôi vừa chạy theo,vừa gọi, muốn hụt hơi mà mẹ không thưa,đến khi tôi mệt xỉu thì mẹ mới quay lại,ôm tôi và đưa tay vuốt má.Tôi giật mình tỉnh dậy, thấy cha đương vuốt má tôi, đôi mắt ông long lạnh ngấn lệ. Ông dò tôi:”Thôi, nín đi con, ít lâu nữa, mình sẽ về với mợ và em.”

Có hôm nắng ráo, đẹp trời,cha tôi đem phơi quần áo cũ.Khi đi học về,tôi thấy chiếc áo bông của mẹ để lại.Lúc đó, trời đã hoàng hôn, chim chóc xào xạc về tổ, gà mái cục cục gọi con...lòng tôi buồn tê tái.Tôi ôm chiếc áo bông của mẹ vào mặt, nghe mùi hơi quen thuộc mà đầm đìa nước mắt....
Lúc đó tôi học lớp 4 theo chương trình cộng sản ,tương đương với lớp nhất của quốc gia. Sau khi thi đậu vào lớp 5 trường Ngô Sĩ Liên, tôi lên Luộc Hạ, ở cùng hai chị và anh rể để theo học, anh rể tôi là Vũ Văn Tiên,giáo sư của trường này. (Anh Tiên sau là giáo sư dạy vật lý tại trường Chu Văn An, các cựu học sinh chắc nhiều người biết).Được mấy tháng thì xẩy ra trận Điện Biên Phủ, rồi hiệp định Geneve chia đôi đất nước. Phe cộng sản lúc đó say men chiến thắng, dương dương tự đắc, việc kiểm soát lơ là ,chúng tôi mới có cơ hội trốn thoát về quê.
Mới thấy thấp thoáng cây đa đầu làng là lòng tôi đã rộn lên một cảm giác xao xuyến khó tả.Làng cũ, nhà xưa không có gì thay đổi. Em tôi lớn hơn nhiều, đã bập bẹ biết nói, nó nhìn chúng tôi rồi khóc oà lên vì lạ.Mẹ tôi có vẻ gầy, tóc điểm vài sợi bạc.Bà ôm tôi vuốt ve, nước mắt rưng rưng..
Gia đình chúng tôi quyết định di cư vào Nam, dù các bác và cô tôi ngăn cản. Cha tôi và tôi đi trước để lo nơi ăn, chốn ở, mẹ,chị và em tôi sẽ đi sau.Thế là tô lại phải xa mẹ. Chúng tôi ra Hà Nội để chạy giấy tờ, ở nhờ một người bạn của cha tôi là bác Hưng, có căn nhà rất lớn, 2 từng,cạnh hồ Trúc Bạch.(Bác Hưng là anh em đồng hao với thầy Nguyễn Văn Ái, dậy vi trùng học, YKDH Sàigon, bác lấy người chị là cô Thi,thầy Ái lấy cô em út là Tuyết Lan)

Ngoài hậu phương không có gì đọc,ở Hà Nội,báo chí, sách, truyện tràn đầy..tôi đọc say mê, quên ăn,quên ngủ, đến nỗi trong mấy tuần lễ, tôi không bước ra khỏi cửa nên chẳng biết mặt mũi Hà Nội nó ra sao.Ngày lên đường,chiếc Dakota chở chúng tôi cất cánh từ phi trường Gia Lâm.Nhìn qua cửa kính, tôi thấy Hà Nội nhỏ dần và xa dần, dòng sông Hồng như một sợi chỉ đỏ, uốn khúc giữa những thửa ruộng xanh bát ngát...Tôi hớn hở, chạy lăng xăng, nào đã biết buồn viễn xứ, nhưng khi quay lại phía cha tôi,thấy ông ngồi bất động, mắt nhìn vào khoảng không,buồn vời vợi...tôi sợ hãi ngồi yên.Sau này,tôi mới hiểu tâm trạng của ông lúc đó, chắc cũng giống như tâm trạng của tôi, 21 năm sau, đêm 30/04/1975, khi tôi ngồi trên chiếc tầu há mồm, suôi dòng Tiền Giang di tản.
 Đến Sàigon, chúng tôi đi tìm nhà bác rể, chồng của bá.Vì mất liên lạc từ lâu, không có địa chỉ, chỉ nhớ mang máng là bác ở Tân Định.Tôi ngồi giữ hành lý ở cạnh nhà thờ, đường Hai Bà Trưng, khi đó còn có tên Tây là Paul Blanchi, cha tôi lò mò đi hỏi thăm khắp hang cùng, ngõ hẻm,vậy mà cũng tìm ra nhà bác.( Nhờ dân trong Nam dễ thương).Chúng tôi ở tạm đây ít lâu, thì thuê được nhà ở Gia Định, gần chợ Bà Chiểu. Đây là một xóm nghèo, nhưng dân cư thật hiền lành, khả ái, họ đối với chúng tôi bằng một tấm lòng bao dung, chân thành. Cha tôi làm đơn xin hồi ngạch, nhưng vì theo kháng chiến lâu năm, bị điều tra hơi kỹ, nên cả năm sau, ông mới được thu dụng.Trong khi chờ đợi, mẹ tôi may thuê, vá mướn kiếm ăn.
Đêm đêm, bà thức tới 2,3 giờ sáng, lịch kịch bên bàn máy may, dưới ánh điện câu vàng vọt. Cha tôi đi làm công nhân ở sở Ba Xoong, lúc đó còn Tây. Bọn họ ăn uống sang trọng lắm,thịt cá ê hề,cha tôi lúc nào cũng dở món trường kỳ là cơm nắm,muối vừng ra ăn, nhưng với nét mặt hãnh diện, ngạo nghễ.Tụi Tây thích cha tôi lắm, vì tiếng Pháp trường Bưởi của ông rất ngọt,nên họ thường mời cha tôi ăn cùng, nhưng bao giờ ông cũng từ chối, nói rằng muốn ăn những thứ do chính tay mẹ tôi làm..Có lần, họ mời ông một trái táo, ông nhận nhưng không ăn,gói ghém cẩn thận, mang về cho con. Ôi trái táo thủa hàn vi của cha, tôi vẫn nhớ suốt đời.. 

Khi được hồi ngạch, cha tôi bị đổi đi làm mấy năm ở Long Xuyên,Long An ,rồi về làm Đầu phòng Biện lý toà án Sàigon. Mẹ tôi đỡ vất vả,để hết thì giờ lo cho con cái,và sanh thêm được một bé trai,là đứa em út của tôi bây giờ.Thời gian qua mau, chị em chúng tôi lần lượt trường thành.Các chị tôi xong Đại Học Sư Phạm, dậy học ít năm rồi chuyển qua Luật,làm Luật Sư,tôi học Y khoa,ra trường năm 1967. Trong 2 năm theo đơn vị tác chiến, cha mẹ tôi vô cùng lo lắng, chỉ sợ rủi ro xẩy đến cho tôi. Biết bao nhiêu đồng nghiệp đàn anh của tôi như Đỗ Vinh,Trần Ngọc Minh, Nghiêm Sĩ Tuấn, Nguyễn Văn Nhứt....đã gục ngã nơi chiến trường.
Khoảng đầu thập niên 70, phong trào du học lên đến cực điểm, nên cha mẹ tôi, dù nghèo, cũng giồng mình cho 2 đứa em của tôi xuất ngoại. 

Tôi vốn tính hoang đàng, ham chơi, nên tiền lương, tiền phòng mạch còm cứ theo nhau mà vào bàn bài, quán nhậu và xóm yên hoa, không giúp gia đình được một xu nhỏ. Mỗi khi về phép, tôi thường báo trước ,nên lúc nào đến nhà cũng thấy cơm gà, cá gỏi. Ăn cơm nhà được một, hai bữa là tôi lại biến đi du hí. Khi nào thấy tôi nằm nhà, là mẹ biết quý tử yếu địa ,lại dúi cho mấy trăm...Tôi ngây thơ, cứ tưởng cha mẹ tôi còn phong lưu! Một lần đi công tác, về bất chợt, gặp bữa cơm, tôi thấy trên mâm chỉ có cá khô và rau muống luộc. Tôi hối hận lắm, tự hứa với lòng là sẽ để dành tiền, giúp đỡ cha mẹ, nhưng rồi, chứng nào tật nấy,tiền giúp gia đình chẳng được bao nhiêu, khi có, khi không. Cha mẹ cũng muốn tôi lập gia để có người cột chân, để ông bà sớm có cháu bế ,nhưng tôi như còn ngựa chứng, đám nào cũng lắc nên cha mẹ tôi rất buồn lòng.

Rồi tháng Tư đen năm 1975 ập tới,tôi chạy thoát một mình từ Cần Thơ. Cha tôi xuống hỏi thăm, người thì nói tôi đã di tản, người thì nói tôi đã chết,vì chiếc xe Jeep tôi thường đi bị bắn cháy nát trên đường Trà Nóc- Cần Thơ. Lúc đó, cha tôi ngất xỉu. Khi tỉnh lại, ông thất thểu trở về, yên trí đã mất đứa con..Mãi 8 tháng sau, cha mẹ tôi mới biết là tôi còn sống.(Chuyện chạy loạn của tôi, đã được kể trong bài Phú San, cũng đăng trên Tập San Y Sĩ).Sau mấy lần vượt biên thất bại,vốn liếng đã cạn, cha mẹ tôi đành cam phận sống dưới gông cùm. Ở Canada, tôi cũng trần ai để trở lại nghề. Khi có bằng năm 1978, tôi lập gia đình và hai vợ chồng tôi làm giấy bảo lãnh nhưng vì biết tôi học thêm 4 năm chuyên môn, sợ tôi không đủ sức, nên mãi đến tháng 5 năm 1982, khi tôi học xong, cha mẹ và chị tôi mới qua đoàn tụ.

Nhờ ơn Trời,cha mẹ tôi còn khỏe mạnh và tôi đã sống với ông bà, tới giờ này, được 14 năm.(1982-1996). Bây giờ, tôi đã lớn tuổi, tình thương của ông bà dồn xuống các cháu .Nhìn ông bà săn sóc mấy đứa con tôi, dĩ vãng lại hiện về, những hình ảnh của hơn 40 năm xưa còn đậm nét. Nước mắt vốn chảy xuôi...và đứa con hư, cho đến bây giờ, có lẽ vẫn chưa làm được điều gì để báo đáp lại lòng cha mẹ.

Mùa hè,năm 1996.
Nguyễn Thanh Bình( Bút Hiệu Bát Sách)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét