Thứ Tư, 25 tháng 6, 2025

Thi Sĩ Và Nàng Thơ


Thơ và nhạc là hai nghệ thuật riêng biệt nhưng rất khắng khít nhau làm say đắm lòng người. Thơ là nghệ thuật của «lời», nhạc là nghệ thuật của «âm thanh».Trong cấu trúc để hình thành bài thơ, ngoài những chất liệu như ngôn từ, hình tượng, vần điệu, niêm luật, ẩn dụ, hoán dụ, trong thơ còn chứa: tư tưởng, triết lý, tôn giáo, hội họa, âm nhạc …, riêng thơ Việt Nam và thơ Trung Hoa còn có thêm chất họa và nhạc. Âm nhạc là một môn nghệ thuật dùng âm thanh làm ngôn ngữ để diễn đạt tư tưởng và tình cảm con người. Ngày nay người ta còn dùng âm nhạc trị bệnh tâm thần (musicothérapie).

Người nghệ sĩ ước mơ lớn nhất của họ là để lại cho đời dăm ba tác phẩm văn chương, vài ca khúc, ít bài thơ đắc ý, cho dù mai sau tác giả có đi vào quên lãng thì những đóa hoa muôn sắc đó vẫn còn hương xưa.

Cõi Thơ:

Hành trình vào cõi thơ là làm một cuộc phiêu lưu vô tận vì thơ bắt nguồn từ cảm xúc tâm hồn nơi ẩn chứa những mối tình thiêng liêng sâu kín nhất. Phải chăng làm thơ là đi giữa cõi mộng và thực để đời trổ nhánh đâm hoa, đưa thực vào mộng cho hồn vơi đi những nỗi đau trần thế? Hồn thơ tựa làn khói, mùi hương ; mà hương thì vô ảnh người đời chỉ cảm nhận chứ không thấy được hình tướng, nhưng ngay cả lúc hữu hình hồn thơ hóa thể thành sợi khói vầng mây chúng ta đều nhìn thấy nhưng nào ai nắm bắt được ? Phải đợi đến lúc con tim rung cảm thúc đẩy hồn thơ nhập vào thi nhân thơ mới bật. Thơ vốn sẵn trong thiên nhiên hàm chứa nhiều tính chất trong trời đất, ngôn ngữ của thơ đôi khi ẩn trong văn, nhạc và hội họa nhưng hình ảnh và nhạc điệu của ngôn ngữ thơ lại rất khác với văn xuôi mà chỉ có những tâm hồn thơ mới cảm nhận được. Nhà thơ không làm công việc của nhà lý luận, nhà khoa học, nhà thần học hay triết gia…để tìm cái mới lạ trong thế giới hiện hữu, cái huyền bí của vũ trụ..vv..nhưng thi nhân có thể sống với tôn giáo, luân lý qua tâm linh để phát hiện thêm lẽ đạo của cuộc đời, và sống triết qua thơ. Thi sĩ Bùi Giáng đã thở bằng thơ trong bài đi vào cõi thơ, thi sĩ minh họa: «Cõi thơ là cõi bồng phiêu ». Nhập vào thơ là thả hồn phiêu bồng rong chơi trong cõi không gian vô tận không có ý niệm thời gian. Tâm hồn thi nhân hòa với ngoại cảnh để nghe tiếng buồn của hoa lá, thi sĩ muốn diễn tả những rung cảm đó cần phải có thi hứng, nhưng từ thi hứng đến nghệ thuật là bước khá dài. Chưa có một định nghĩa nào là mẫu mực về Thơ, «người ta chỉ cảm thơ là một môn nghệ thuật của nghệ thuật, phát xuất từ cảm xúc tâm hồn.

Tập Thơ Tình:


Cuối thế kỷ trước có một thi sĩ tặng tôi tập thơ tình, và muốn tôi có đôi dòng cảm nhận. Tập thơ in đẹp lời thơ lãng mạn nhẹ nhàng, ý thơ sâu sắc. Ngôn ngữ trong thơ là những hình tượng đầy màu sắc của hội họa ẩn vào con chữ vọng lên từ đáy tim. Nhà thơ đã nói lên tiếng lòng nên không dùng sáo ngữ thường thấy trong những lời cường điệu tán tụng tình yêu lứa đôi. Thi sĩ đã đắm hồn vào mộng tưởng dệt nên những vần điệu, những con chữ mang đầy hình ảnh màu sắc quyến rũ của tình yêu lứa đôi trong thơ. Đây là những bài thơ tình chứa nhiều ẩn dụ nên nửa hư nửa thật, tạo cho không gian trong thơ bồng bềnh mờ ảo, dẫn người đọc bước vào một thế giới mộng mị nơi đó có hai mảnh hồn yêu nhau say đắm. Từ ngàn xưa Thơ là ngôn ngữ thật thà của con tim nên tác giả không thể che dấu được khi viết lên con chữ diễn tả nỗi lòng của mình, và trong những trang thơ này những con chữ đã bộc bạch lời của kẻ đang yêu lỡ vướng vào lưới tình tình ngang trái nên trăn trở viết thành những vần thơ. Thi nhân và người yêu thơ tâm hồn đầy lãng mạn, họ yêu nhau qua thơ nên lạc vào mê lộ, vướng cảnh oan trái vì hai người đều đã có gia đình! Tôi chưa hề quen biết người thơ trong thi tập, nhưng lại thương cảm cho nàng qua cách diễn đạt tài tình của thi sĩ. Phải chăng nàng cũng biết làm thơ nên đã hòa điệu với thi nhân? Đọc những bài thơ tình nồng thắm trong thi tập lòng tôi xao xuyến thương cảm cho cuộc tình lãng mạn của hai kẻ yêu nhau thuần khiết bằng tâm tưởng, đó là tình yêu Platonic giữa hai tâm hồn đồng điệu đã ngưỡng mộ nhau, mà không nói vì sự gặp nhau quá muộn màng! Tôi bỗng cảm hứng, tâm hồn trở lại thời còn đi học nên đã làm một bài thơ, và đặt cho cái tên: “Tình Chỉ Là Mơ” để chia sẻ hồn thơ của thi sĩ với tâm tình người đọc để trả lời tác giả: Tình trong thơ chỉ là mơ thì có gì đâu mà ái ngại! Bài thơ của tôi không phổ biến nên tác giả không hề hay biết. Sau đó tôi lại phóng hồn làm thêm bài thơ tình khác đặt tựa là Cõi Tình. Bài thơ này tôi viết cho tha nhân nên tình tiết trong thơ đều hư cấu để cho tình thơ tha thiết, lãng mạn mạ vàng ý sầu, nhưng vô tình ý thơ bàng bạc chút tình của thi sĩ và nàng thơ!

Vì cảm những bài thơ tình hay và độc đáo trong thi tập nên tôi đã trân trọng giới thiệu thi tập với các bạn văn nghệ sĩ ở Paris, và cũng nhờ vài nhạc sĩ phổ nhạc giúp. Nhưng thuở ấy, vào thập niên 90 của thế kỷ trước đã xảy ra những trận bút chiến hãi hùng giữa hai nhóm Văn Bút trên các tạp chí, văn đàn ở hải ngoại, mà tác giả thi tập đó đang hăng say tham dự trận bút chiến! Do đó những người bạn nhạc sĩ của tôi đã ngần ngại không muốn dính vào cuộc bút chiến!

Thơ Phổ Nhạc:


Một bài thơ hay tự nó đã có giá trị lâu dài., còn Thơ được phổ Nhạc là muốn đem thêm chút nghệ thuật âm thanh vào trong thơ theo giai điệu trầm bổng riêng, làm nổi bật hình ảnh ngôn ngữ đầy sắc màu của ý thơ. Bài thơ được phổ thành nhạc dễ phổ biến rộng rãi đến công chúng, nhưng một bài thơ tuyệt vời nếu đem phổ nhạc hoặc đem chuyển ngữ chắc hẳn sẽ làm nhạt đi ít nhiều « chất kỳ bí » chứa trong thơ. Một bài thơ có thể được nhiều người phổ nhạc nhưng sẽ chỉ có duy nhất một bài «hay», nếu nhạc sĩ bắt được cái «tính nhạc» trong thơ. Một bài thơ phổ nhạc được gọi là « xuất sắc » đòi hỏi người phổ phải am tường cả hai nghệ thuật thơ Nhạc, nếu không, âm thanh của nhạc sẽ lấn át âm thanh của thơ làm biến thể chất thơ, biến bài thơ (poème) thành bài ca (chant, chanson). Do đó trước tiên người phổ phải yêu bài thơ và thuộc để có thể thả hồn theo ý thơ để bắt được cái tính nhạc trong bài thơ, sau đó người phổ phải nắm vững quy luật và mỹ thuật của âm nhạc để có thể ghi lại và diễn tả những tình cảm luyến láy, dìu dặt, nức nở, buồn vui qua nét nhạc, giúp hồn thơ thăng hoa nhập vào nốt nhạc chắp cánh.

Mang thi tập của người bạn thi sĩ về nhà lòng tôi cứ bâng khuâng, chẳng biết làm sao để những vần thơ hay đó được nương cánh hạc bay xa lan tỏa đến công chúng. Tôi vẫn nghĩ: “Một bài thơ phổ thành ca khúc hoàn hảo rất khó, vì bài thơ phổ phải được giữ nguyên lời, không bị cắt những chữ, thay lời làm mất hình tượng ngôn ngữ ẩn dụ trong câu, sai lệch ý nghĩa của tứ thơ ”. Nhưng đâu phải bài thơ nào câu chữ, vần điệu cũng chuẩn luật, cũng có tính nhạc! Có những bài thơ câu chữ thiếu, cũng có những bài thơ câu chữ thừa, hoặc những câu chữ trùng ý, trùng nghĩa ở những đoạn trên. Do đó nhạc sĩ cần phải cắt xén câu chữ, sắp xếp lại cấu trúc giai điệu để hình nốt vút theo từng cung bậc của ngữ nghĩa cho nghệ thuật thành tác phẩm. Những ca khúc VN được giới am tường âm nhạc nhận định gọi là hay, thường có giai điệu đẹp, lời hay, “ý của ca từ ” sâu sắc và dịu dàng êm như thơ. Tuy nhiên, trong số đó cũng có những bài thơ ngôn ngữ thơ mộc mạc, tứ thơ bình thường, nhưng được người nhạc sĩ có tài phổ sẽ làm tăng giá trị bài thơ trở thành ca khúc hay vì nhạc sĩ đã cắt xén, ráp nối câu chữ lời thơ thành ca từ nương theo tính nhạc của bài thơ để phổ. Nhưng cũng không ít những bài thơ rất hay “bị phổ” cho lấy có, hoặc để đạt số lượng nhiều nên tác giả chẳng để ý đến lời thơ, ẩn ý trong thơ mà phổ quá nhanh, vội vã để thành bản nên thiếu chất nghệ thuật làm giảm giá trị bài thơ! Những nhạc sĩ đã từng học sáng tác, tốt nghiệp nhạc viện thì việc viết một ca khúc rất dễ, nhuưg chưa chắc đã có được một ca khúc hay. Sáng tác một ca khúc, nhạc sĩ không cần vận dụng những lý thuyết hàn lâm quá phức tạp trong âm nhạc, trời đã cho họ những ưu điểm từ trong vô thức đã có một giác quan rất bén nhạy chứa sẵn lý thuyết âm nhạc trong cảm hứng khi sáng tác.

Trong kho tàng văn học nghệ thuật Việt Nam có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng chỉ nhờ sáng tác một vài bài thơ, hay ít ca khúc, nhưng những sáng tác đó đã để cho đời những áng thơ hay những giai điệu tuyệt vời: Thi sĩ Vũ Đình Liên, Thi sĩ T.T.KH, thi sĩ Hữu Loan, Thi sĩ Linh Phương… Phía âm nhạc: Nhạc sĩ Đặng Thế Phong, Lê Trạch Lựu, Đoàn Chuẩn & Từ Linh, Nguyễn Văn Khánh, Lê Hoàng Long, Hiếu Nghĩa, Dzũng Chinh, Nguyễn Mỹ Ca, La Hối, Nguyễn Ánh 9....vv….Họ là những nhạc sĩ sáng tác thực tài mà trời đã ban cho một năng khiếu âm nhạc đặc biệt để thẩm thấu những nét độc đáo của âm thanh kết thành giai điệu đẹp. Đối với những nhạc sĩ đã sáng tác chỉ cần một vài ca khúc để đời là mãn nguyện. Nhưng nếu nhạc sĩ nào sáng tác được hàng trăm ca khúc, trong đó có nhiều bài hay thì đó là những người có tài. Tâm hồn nhạc sĩ phải thật phong phú mới làm nổi nhiều nhạc phẩm hay, nếu không chỉ là số lượng dù viết hàng trăm ca khúc! Có những thi sĩ làm hàng trăm bài thơ mà người đời cũng chẳng biết đến, hoặc nhớ một câu! Nhưng nếu người đời chỉ nhớ vài bài, hoặc vài đoạn thơ thì cũng làm cho tâm hồn thi sĩ ấm áp. Cũng có những ca khúc nghe qua chẳng gợi lại trong lòng người thưởng thức một chút ấn tượng thì ca khúc đó sẽ bị chóng quên! Phải chăng giá trị đích thực của nghệ thuật vẫn là hướng về chân thiện mỹ để ca ngợi Tình Con Người? Thời gian dần trôi đi, người nghệ sĩ dù có bị người đời vô tình quên tên tác giả, hay “cố tình quên” thì họ vẫn cống hiến cho đời những tác phẩm. Những tâm hồn phụng sự cho những giá trị cao đẹp đều tuyệt vời! Trong cuộc sống đầy bon chen vội vã của thế giới vật chất hôm nay, có lẽ chỉ có Tình Yêu là đáng qúy vì trong đó có cả “tình lứa đôi, tình vợ chồng, tình Cha Mẹ. ”

Sinh Hoạt Văn Học:


Nhân dịp có người bạn là Nhà báo, Nhà Biên khảo GS Đặng Văn Nhâm ở Đan Mạch qua thăm Paris đúng vào dịp Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ chức sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật. Vài nét về Ký giả Đặng Văn Nhâm: Ông là khuôn mặt kỳ cựu trong làng Báo Sài gòn trước năm 1975. Sau năm 1975 ông là một trong những khuôn mặt nổi tiếng nhất ở hải ngoại vì những bài báo viết mạnh tay của mình. Ông là tác giả nhiều bộ sách biên khảo như Đại Từ Điển Đan Việt,Tự Điển Báo Chí, Nhận định Chính Trị, và Văn Học..vv…Ông còn là một họa sĩ vẽ tranh biếm họa trên các tạp chí Sài Gòn năm xưa vào cuối thập niên 50 đầu 60. GS Đặng Văn Nhâm kiến thức rất uyên bác, ông có khả năng viết trong ngày cho nhiều tờ báo, với nhiều đề tài khác nhau mà vẫn giữ được chất lượng.

Ngày đó, chúng tôi tổ chức họp bạn văn nghệ quy tụ nhiều khuôn mặt trong giới trí thức văn nghệ sĩ ở Paris. Mở đầu, một số văn nghệ sĩ đã giới thiệu những sáng tác mới của mình, hoặc trình bày một đề tài văn học. Để tham gia trong chương trình tôi đem tập thơ của người bạn phương xa gởi tặng ra giới thiệu, trích đọc vài bài thơ tiêu biểu trong thi tập. Để tránh sự ngộ nhận cho tác giả thi tập, tôi đã không trích dẫn những bài thơ hay đó vào đây. Trong lúc đọc thơ khán phòng im lặng, mọi người đều lắng nghe từng câu chữ và khen thơ hay, nhưng có lẽ ít ai hiểu những ẩn tình ngang trái trong những bài thơ! Để kết thúc phần giới thiệu về thi tập, tôi đã đọc bài thơ “Tình Chỉ Là Mơ” của tôi viết tặng tác giả như sự đồng cảm giữa những người làm thơ sống trong cõi thơ. Phải chăng ở cõi mộng và thực đó mọi sự vật cũng chỉ là mơ ? Trong văn học người ta thường xem đóa hoa là phái đẹp, và hoa hồng tượng trưng cho tình yêu. Thi sĩ Tản Đà đã diễn tả qua câu thơ:

“cái giống yêu hoa giống lạ đời,
Mắt xanh chưa lọt đã mê tơi.
Tản Đà

Trong bài thơ “ Tình Chỉ Là Mơ,”tôi ví hoa là nàng thơ của thi sĩ mà tình yêu đã làm tâm hồn người thiếu nữ trở nên sầu úa như đóa hoa thiếu nắng! Trong thiên nhiên, một cành hoa dù hương thơm, sắc màu rực rỡ nhưng thiếu nắng lá sẽ kém tươi tốt, cánh hoa sẽ nhợt nhạt màu. Câu thơ: “ Như mất nửa hồn theo áng mây”. Trong thi ca áng mây là hình tượng mang sắc màu hội họa. Mây là những hạt nước li ti kết tinh bồng bềnh bay trên trời như giải lụa muôn sắc trong tia nắng trời. Hình dáng mây thay đổi theo gió nhìn rất đẹp nhưng luôn cao xa không chạm tới! Ở đây mây tượng trưng cho thi sĩ kẻ đã bước vào vườn tình đầy trái cấm!

TÌNH CHỈ LÀ MƠ

Thơ thẩn vì đóa hoa thiếu nắng,
Khép mi cho lòng đỡ ngất ngây.
Bỗng dưng ta thấy đời im lặng,
Như mất nửa hồn theo áng mây!

Em đến từ vầng trăng diễm ảo,
Nhập vào thơ lưu luyến duyên tơ.
Tình cõi mộng, đường đời huyên náo,
Một thoáng phù du, sao hững hờ!

Chẳng lẽ buồn vui đều ngoảnh mặt,
Đêm về con chữ sẽ cô liêu!
Nhớ em hiu hắt sầu giăng mắt,
Em mãi là thơ trong nắng chiều.

Dù lỡ say thơ, mà quên lối,
Thì đành cho gió cuốn xa khơi.
Tình, chỉ là mơ, sao bối rối?
Quay đi …hồn nhớ mãi nụ cười!
(Đỗ Bình)

Tan buổi sinh hoạt, khi ra về, giáo sư Nhâm mới cho tôi biết chuyện tình trong thơ của tác giả mà tôi làm thơ tặng đó là chuyện tình thật, tác giả không vết hư cấu! Tôi nghĩ: “Có lẽ họ đang chống nhau trên lãnh vực văn bút nên khắt khe chăng?”

Tôi tự nhủ: “Ở trên đời có nhiều điều nhìn thấy cũng chưa chắc đúng, huống chi chỉ nghe đồn. Làm sao có thể hiểu hết sự bí ẩn trong tâm hồn con người, nhất là tâm hồn đa sầu đa cảm của thi sĩ!”. Dù được nghe kể về sự nguồn của cuộc tình trong thơ nhưng tôi chẳng lưu tâm đến chuyện tình thực hư của tác giả, mà vẫn thả hồn theo áng thơ hay của thi tập, rồi bồi hồi chợt nhớ cái thuở học trò tâm hồn trong suốt với những bài thơ tình ngây ngô, nhưng đầy hương thơm mộng mị còn vương mãi theo dòng đời. Tôi bỗng cảm xúc nên làm thêm bài Cõi Tình cho tha nhân, và cũng thể hiện sự đồng cảm với tác giả qua thơ. Thi sĩ và nàng thơ gắn kết nhau bằng một thứ tình mộng mị trên trang giấy, đó chỉ là tiếng Thơ trong thi ca của một tâm hồn thi nhân đa cảm.

CÕI TÌNH

“….
Em chợt đến như cuồng phong bão nổi,
Trời bao la ta mắc cạn nhánh sông!
Dựa vai nhau hai mảnh hồn buộc vội
Ðời phù du xin giữ chút tình nồng.
Dẫu ngàn sau hồn hút bóng xa xôi,
Ta vẫn nhớ …màu môi em đắm đuối.“
(Đỗ Bình)

Rabindranath Tagore người Ấn Độ, là nhà thơ của tình yêu, ông cũng là nhà văn, triết gia, họa sĩ, đạo diễn, nhạc sĩ, nhà giáo dục. Nhà đại nghệ sĩ đã được giải thưởng Nobel 1913. Ông quan niệm về tình yêu:

“Tình yêu là sự toàn thiện của tâm thức, ta không yêu vì ta không hiểu, hay nói đúng hơn, ta không hiểu vì ta không yêu ”

Trong thơ văn cũng như ngoài đời cũng có những mối tình Nghệ sĩ rất lãng mạn và đẹp. Thi sĩ Xuân Diệu người được mệnh danh là con chim đầu đàn trong dòng thơ Tình lãng mạn của thế kỷ trước. Bài thơ Xa cách viết về tình yêu lứa đôi vẫn còn lưu truyền trong văn học mãi hôm nay:

XA CÁCH

“Có một bận em ngồi xa anh quá
Anh bảo em ngồi xích lại gần hơn
Em xích gần thêm một chút: anh hờn.
Em ngoan ngoãn xích gần thêm chút nữa.
Anh sắp giận. Em mỉm cười, vội vã
Đến kề anh, và mơn trớn: "em đây!"
Anh vui liền, nhưng bỗng lại buồn ngay.
Vì anh nghĩ: thế vẫn còn xa lắm.
Đôi mắt của người yêu, ôi vực thẳm!
Ôi trời xa, vừng trán của người yêu!
Ta thấy gì đâu sau sắc yêu kiều
Mà ta riết giữa đôi tay thất vọng.
Dầu tin tưởng: chung một đời, một mộng.
Em là em, anh vẫn cứ là anh.
…."
(Xuân Diệu)

Thi sĩ Lưu Trọng Lư thuộc thế hệ mở đầu của phong trào Thơ Mới. Thơ của ông rất trữ tình lãng mạn, ý thơ phóng khoáng mang chút tư tưởng Tây Phương nhưng vẫn giữ nét truyền thống luân lý Đông Phương. Bài thơ Một Mùa Đông là một bài thơ đặc sắc, thanh thoát, giàu nhạc điệu được lưu truyền trong văn học mãi đến hôm nay. Bài thơ viết về một câu chuyện tình dang dở có thật của đời ông. Chuyện tình đẹp và trong sáng đó là nguyên do thúc đẩy nguồn cảm hứng trong thi sĩ dạt dào để hoàn thành một tác phẩm trữ tình để đời. Chuyện tình như một bài thơ về cuộc tình của chàng thi sĩ với một nữ sinh xinh đẹp của đất Hà Nội thuở ấy. Nàng thơ sau này trở thành một danh nhân của Việt Nam, và Thế giới. Bà là điêu khắc gia nổi tiếng trên thế giới và là thành viên của Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm khoa học, văn học và nghệ thuật châu Âu. Bà được đưa vào danh sách những tài năng lớn của nghệ thuật thế kỷ XX trong từ điển Larousse.


MỘT MÙA ĐÔNG

“Em là gái trong khung cửa,
Anh là mây bốn phương trời;
Anh theo cánh gió chơi vơi,
Em vẫn nằm trong nhung lụa.

Em chỉ là người em gái thôi,
Người em sầu mộng của muôn đời,
Tình em như tuyết giăng đầu núi,
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.

Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân
Ngày một ngày hai cách biệt nhau
Chẳng được cùng em kê gối sầu,
Khóc chuyện thế gian cười ngặt nghẽo,
Cùng cười những chuyện thế gian đau.

Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm
Em vẫn đùa nô uống rượu say.
Em có biết đâu đời vắng lạnh,
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.

Môi em đượm sặc mùi nho tươi,
Đôi má em hồng chúm nụ cười,
Đôi mắt em say màu sáng lạn,
Trán em để lỏng làn tóc rơi.

Tuy môi em uống, lòng anh say,
Lời em càng nói càng chua cay
Anh muốn van em đừng nói nữa,
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay. ”
(Lưu Trọng Lư)

Bốn câu thơ cuối nhà thơ đã diễn tả sự tan vỡ tình yêu đến tột cùng! Nhưng đó chỉ là tưởng tượng vì quá nhớ nàng :

“ Tuy môi em uống, lòng anh say,
Lời em càng nói càng chua cay..”

Câu thơ tình tuyệt vời!

Dù được nghe anh Nhâm kể về cuộc tình, nhưng tôi vẫn nghĩ có lẽ cái nhìn của anh đứng trên quan niệm đạo đức, quy tắc chuẩn mực của xã hội nên rất nghiêm khắc, mà không mang tâm hồn của thi sĩ đầy mơ mộng, nhưng trong đó có chứa sự bao dung tôn trọng sự khác biệt đối với tha nhân! Chẳng thế mà ngòi bút của anh sắc hơn gươm đao nên dễ làm người bật máu. Có lẽ vì bản tính khó khăn đó, nên anh rất ít bạn thân! Cho dù anh thích giao du bằng hữu bốn phương. Những người bạn của tôi ở Paris đều quý trọng kiến thức uyên bác và tài năng sáng tác của anh, nhưng chẳng ai dám lại gần vì vẫn cảm thấy ngần ngại cây bút lành lạnh của anh ! Giáo sư Nhâm rất qúy tôi, xem tôi như một người em nên tặng cho tôi cây bút Mont Blanc, anh nói:

“Cây bút này như tấm lòng của tôi để viết những điều tử tế.”

Nhưng từ những năm sau này anh vì bận rộn viết sách nên ít liên lạc với tôi! GS Đặng Văn Nhâm qua đời năm 2017.

Năm 1997 tôi chuẩn bị in tập thơ “Bóng Quê.” Ngày đó Văn Bút VN Hải Ngoại vẫn còn bị tách làm hai, giáo sư Đặng Văn Nhâm đang làm chủ tịch. Anh Nhâm muốn giúp tôi mang tập thơ qua Mỹ in, nhưng tôi đã được vợ chồng người bạn thân cũ là thi họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật và Nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh, người nữ sĩ cuối cùng trong Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, ở Na Uy lại muốn tự tay chăm sóc trình bày và in ấn tập thơ của tôi tại Na Uy. Đây là điều tế nhị vì nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật & Nguyễn Thị Vinh đang sinh hoạt cùng nhóm Văn Bút VN Hải Ngoại với người thi sĩ tặng tôi tập thơ, họ đều chống anh Nhâm. Nguyễn Hữu Nhật và tác giả tặng thơ cho tôi cả hai đều là chủ bút một tờ báo và làm thơ rất hay.

Bài thơ “Tình Chỉ Là Mơ”và bài thơ “Cõi Tình” tôi chọn đưa vào in trong thi tập với lòng yêu thơ. Tôi thường làm thơ về quê hương, về thân phận con người, nay làm được những bài thơ về tình yêu lứa đôi lãng mạn của tha nhân tôi cảm thấy vui, tập thơ sẽ có thêm màu sắc. Tôi cho in vì chỉ muốn ghi lại trên sách vài bài thơ tôi thích ở một giai đoạn mà khá nhiều bằng hữu tôi đang bút chiến. Thuở ấy tôi đứng bên ngoài những cuộc bút chiến nên tôn trọng những suy tư, và quan niệm riêng của mỗi người. Tôi chọn lựa một thái độ đứng giữa không nghiêng ngả bên nào quả thật rất khó khăn! Để tránh bị lôi kéo, tôi đã “tự ý ngưng gởi bài”cộng tác với các báo nhiều năm, vì không muốn bị lôi cuốn vào phe phái, nhất là không thể gởi bài cho các tờ báo mà trong đó có các bạn của tôi đang chống nhau ! Cũng kể từ ngày đó tôi không còn thiết tha gởi bài cho báo!

Chỉ vì quan niệm muốn bảo vệ giá trị đích thực của một nhà văn ! họ tiến ra tuyến đầu xung khắc nhau kịch liệt! Đã có biết bao bạn văn của tôi ở hai phía phải tạm gác bút vì ngại bị vướng mực do ngộ nhận. Thuở đó, bên nào cũng mạnh cũng tài giỏi và sắc bén như nhau, tôi ở giữa hai làn đạn nên chỉ biết thở dài sau đó lánh xa chốn tranh chấp! Tôi đến với các bạn bằng một trái tim chân tình, có lẽ thế sau bao năm dù đời có nhiều thay đổi, bằng hữu cũ có người mất người còn nhưng tình bạn xưa vẫn khắn khít còn mãi đến hôm nay. Khi tập thơ được in xong, các bạn văn vì cảm mến tôi nên đã cùng nhau tổ chức một buổi ra mắt sách rất trang trọng vào ngày 4 tháng 10 năm 1998 tại Hội Trường Quốc Tế Paris, quy tụ tất cả các văn nghệ sĩ ở Paris và khắp nơi đến. Đặc biệt những danh ca chỉ dành hát độc quyền cho các trung tâm Nhạc cũng về Paris trình diễn cho buổi ra mắt sách. Ngày ra mắt sách tôi có gởi thơ mời GS Đặng Văn Nhâm nhưng vì ở Đan Mạch xa xôi nên anh không qua dự được. Tôi gởi sách tặng, nhận được anh gọi phôn chúc mừng.

Gần hai mươi năm sau vào một lần sinh hoạt văn nghệ ở Paris, trong một khán phòng đẹp trang trí ấm cúng, khách tham dự chọn lọc. Có người bạn văn yêu cầu tôi đọc bài thơ cũ Tình Chỉ Là Mơ. Để đẹp lòng người bạn tôi đã đọc, ngoại trừ anh và tôi, còn những người khác trong khán phòng đều không hề biết những điều ẩn trong câu chuyện thơ, vì người đàn bà trong tập thơ đó có một thời là chị dâu của anh! Kế tiếp, nhà biên khảo, nhà thơ nổi tiếng khác trình bày tác phẩm. Với một giọng trầm buồn anh chậm rãi kể lại một câu chuyện tình trong văn học rất hay.

Tôi chợt hồi tưởng lại một số bài thơ trong thi tập mà ngày trước được người bạn văn gởi tặng, bỗng cảm xót xa cho một người đàn bà trong thơ đã có gia đình nhưng rất yêu thơ văn nên thích sống bằng mộng. Tình cờ nàng gặp được người thi sĩ tác giả những bài thơ mà mình yêu thích,nên hai người trân trọng nhau, và từ đó họ trở thành đôi bạn ngưỡng mộ nhau qua thơ văn. Người thi sĩ có tài làm thơ nên đã viết những vần thơ rất trữ tình nửa hư nửa thật để tặng đời. Phải chăng vì thi sĩ đẩy cảm xúc lên tột cùng để cho vần thơ thật lãng mạn, mượn hình ảnh nàng thơ để sáng tác nên ngôn ngữ thơ trở thành mời gọi quyến rũ tâm hồn nàng, để rồi thi sĩ và nàng thơ đã thật sự bị đắm đuối?!

Ở Tây phương mấy thế kỷ trước Thi Văn hào Victor Hugo người Pháp đã nói câu để đời:“Chết vì thiếu tình yêu thì ghê gớm quá. Đó là sự chết ngạt của tâm hồn.”

Trên đời có cái gì tồn tại được mãi mà chẳng tàn phai theo thời gian? Kỷ niệm tình nào rồi cũng phôi phai, nhưng tình thơ vẫn còn đọng lại trang sách. Tình yêu vẫn là nguồn cảm hứng bất tận của người làm thơ, đó còn là nơi chỗ trú ngụ để tâm hồn thi nhân bay bổng vào cõi diễm tuyệt trước khi về thiên thu. Dù tác phẩm hư cấu hay chuyện thật thì sáng tác của thi nhân vẫn góp cho đời những những vần thơ hay, áng thơ đẹp làm xao xuyến lòng.

Mai sau những người yêu thơ nếu tình cờ đọc lại trang thơ cũ chắc sẽ bồi hồi cảm xúc vần thơ, nhưng có ai thương cảm nỗi lòng thi nhân? Người thi sĩ ngày đó nay tóc đã bạc phơ, cuộc tình trong thơ năm xưa đã bay theo gió. Nhưng những vần thơ say đắm tình vẫn cô đơn nằm trên trang sách, cho dù nhà thơ có muốn quên nàng thơ nhưng hồn thi nhân vẫn nhớ mãi nụ cười của người tình năm đó? Những mối tình lứa đôi dù dang dở hay trọn vẹn thì vẫn giúp cho thi nhân có thêm nguồn cảm hứng dệt cho đời những áng thơ tình muôn sắc.

Đỗ Bình

Ghi Chú
*Thi, Họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật qua đời 2014
*Nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh người cuối cùng của Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, qua đời 8.1.2020
GS Đăng Văn Nhâm qua đời 2017.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét