Đó là bài thơ vô đề trong Thần Đồng Thi của Uông Thù đời Bắc Tống ở Trung Quốc.
Cửu hạn phùng cam vũ
Tha hương ngộ cố tri
Động phòng hoa chúc dạ
Kim bảng quải danh thì
Dịch nghĩa:
Cửu hạn phùng cam vũ Nắng lâu gặp mưa rào
Tha hương ngộ cố tri Quê hương khác gặp người quen cũ
Động phòng hoa chúc dạ Đuốc hoa trong đêm động phòng
Kim bảng quải danh thì Khi bảng vàng mang danh
Kim bảng quải danh thì Khi bảng vàng mang danh
Đây là một bài thơ Hán ngữ ý tứ đơn giản và rời rạc nhưng mỗi câu thơ được Thi nhân đời Hồng Đức trong Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú (gồm vua Lê Thánh Tông và quần thần) dịch ra Việt ngữ (Hán Việt ngữ) và mượn ý để làm thành một bài thơ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú (đôi khi có Hàn Luật) để tả thêm chi tiết.
(Hán ngữ) (Hán Việt ngữ)
Cửu hạn phùng cam vũ Đại hạn gặp mưa rào
Tha hương ngộ cố tri Đất khách gặp bạn cũ
Động phòng hoa chúc dạ Đuốc hoa đêm động phòng
Kim bảng quải danh thì Khi bảng vàng đề tên
Bốn bài thơ Việt ngữ nầy đăng trong Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập:
1. Cửu Hạn Phùng Cam Vũ
Đại Hạn Gặp Mmưa Rào
Đã dư mấy tháng ngày khô khao
Mừng thấy trời cho một trận rào
Hoa đượm màu tươi cười hớn hở
Cá mừng nước ngọt nhảy lao xao
Trong triều mọi sĩ đều ca vịnh (*)
Ngoài nội tam nông kẻo ước ao (*)
Nhuần khắp bốn phương tạo hóa
Mây tuôn năm thức chín trùng cao.
(Thi nhân Hồng Đức)
(*) Chú thích: Sĩ = nho sĩ. Nông = Nông dân. Kẻo = khỏi. Câu 7 có 6 chữ theo thể Hàn Luật.
2. Tha Hương Ngộ Cố Tri
Đất Khách Gặp Bạn Cũ
Non nước quê người chỉn lạ lùng
Rầy mừng gặp bạn phỉ lòng trông
Duyên này đã thấy kim lan họp
Thư kẻo còn truyền nhạn cá thông
Mừng mặt bình yên thơ ngợi trúc
Quen lòng khế khoát chén khuyên thông
Dặm thanh vân bẵng giao tình cũ
Thẳng trỏ Trường Yên hẹn lại cùng.
(Thi nhân Hồng Đức)
(*) Chú thích:
Chỉn = thật
Kim lan: ý chỉ Bạn đồng tâm (Bạn thân). Theo Kinh Chu Dịch.
Khế khoát = xa cách
Chén khuyên thông: ý nói chén rượu "tùng diệp tửu" (rượu làm bằng lá cây thông)
Thanh vân = mây xanh. Dặm thanh vân: ý chỉ bước đường đỗ đạt
Trường Yên = Trường An, kinh đô cũ của Trung Hoa (đời Đường)
Kinh Chu Dịch có những câu:
Nhị nhân đồng tâm, kỳ lợi đoạn kim (Hai người đồng tâm, ích lợi lạ kỳ có thể chặt được vàng)
Đồng tâm chi ngôn, xú như lan (Lời nói đồng tâm mùi như hoa lan)
3. Động Phòng Hoa Chúc Dạ
Đuốc Hoa Đêm Động Phòng
Hơi dương đầy cửa, ngọc đầy thềm
Nến đốt buồng lan đã rạng đêm
Thoáng thấy mặt hoa mày liễu tốt
Rỡ phong trướng vóc đệm hương êm
Song song loan phượng cùng chen bóng
Lớp lớp hùng bi đã báo điềm (*)
Mừng ấy lại mừng kim bảng nữa (*)
Dường bằng gấm lại có hoa thêm
(Thi nhân Hồng Đức)
(*) Chú thích:
Nằm mộng thấy hùng bi là điềm sanh con trai. Hùng bi: 1 loại gấu (?)
Kim bảng = bảng vàng (có tên người thi đậu)
4. Kim Bảng Quải Danh Thì
Khi BảngVàng Đề Tên
Thưa sách đan trì ai bén chiêu,
Bảng vàng mừng đã thấy tên treo.
Thấp cao vòi vọi chen hàng nhạn,
Trên dưới làu làu hiện vẻ beo.
Thoáng đến mấy tầng Bồng đảo lạ,
Kẻ âu ba đợt Vũ môn nghèo.
Bảng này chẳng phụ danh đồn dậy,
Thấy hậu sinh còn nhiều kẻ theo.
(Thi nhân Hồng Đức)
(*) Chú thích:
Câu 1 có nghĩa: Ai làm sách (=thưa sách) ở thềm son (=đan trì) được lọt vào (=bén) chiếu chiêu hiền của vua.
Câu 3 có nghĩa: Ý chỉ thứ tự đậu cao đậu thấp như hàng nhạn bay trên trời
Bồng đảo: chỗ Tiên ở. Thi đậu như thành Tiên
Vũ môn: Cá vượt vũ môn thành Rồng
Không những bài thơ 4 câu có ý tứ rời rạc nhưng từng mỗi câu ý tứ cũng quá đơn giản.
Ông Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa thời vua Tự Đức của nhà Nguyễn ở Bình Thủy, Cần Thơ có thêm 2 chữ (Hán) vào mỗi câu (theo nhiều kiểu với thêm ý nghĩa khác nhau).
- Thêm 2 chữ vào mỗi câu cho có nghĩa sung sướng và thích thú hơn nữa:
Thập niên cửu hạn phùng cam vũ
Thiên lý tha hương ngộ cố tri
Hòa thượng động phòng hoa chúc dạ
Nột nho kim bảng quải danh thì
(Mười năm nắng hạn gặp mưa rào
Ngàn dặm quê người gặp người quen cũ
Hòa thượng động phòng đêm hoa chúc
Học trò dốt được bảng vàng đề tên)
- Thêm 2 chữ vào mỗi câu cho nghĩa "đau khổ", không sung sướng thích thú:
Diêm điền cửu hạn phùng cam vũ
Đào trái tha hương ngộ cố tri
Yểm hoạn động phòng hoa chúc dạ (*)
Cừu nhân kim bảng quải danh thì
(Ruộng muối nắng hạn gặp mưa rào
Trốn nợ quê người gặp người quen cũ
Thái giám động phòng đêm hoa chúc (*)
Kẻ thù được bảng vàng đề tên)
(*) Chú thích: Yểm = che dấu. Hoạn = thái giám.
Ca dao của người Việt mượn 2 câu đầu nhưng kết thúc tình duyên một cách dễ dàng:
Cửu hạn phùng cam vũ
Tha hương ngộ cố tri
Động phòng hoa chúc dạ
Kim bảng quải danh thì
Đây là bài thơ tình của Ca dao nước Việt:
Cửu hạn phùng cam võ
Tha hương ngộ cố tri
Tình cờ mà gặp mấy khi
Hỏi thăm thục nữ giai kỳ định chưa?
Phan Thượng Hải biên soạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét