Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2022

Thất Phủ Miếu - Chùa Ông Vĩnh Long

(Lễ cúng cuối năm vào ngày 16 tháng chạp  L theo thông lệ)

Mời các bạn xem sơ qua gốc tích tỉnh Vĩnh long cùng danh xưa Nam kỳ lục tỉnh và những phủ trực thuộc, trong đó có ngôi chùa Bảy phủ, thuộc chùa người Hoa tạo dựng trên đất miền nam, thiển nghĩ bảy phủ là của miền nam, không lẽ bên Tàu. Do vậy phải tìm mọi tư liệu liên quan cho minh bạch gốc ngọn từ Bảy phủ.

Tương truyền vật liệu toàn bộ từ bên Tàu chở sang, kỷ thuật thiết kế, công trình.
Sư và nhóm thợ kỹ thuật cũng là người Hoa. Cũng nghe truyền lại có một số vật liệu trong nước cùng với nhóm thợ chạm khắc, nhân công có sẵn ở địa phương.

Một chút lịch sử giữa thế kỷ 18 về sau:
-Vào năm Minh Mạng thứ tư triều Nguyễn ( 1823 ), đổi trấn Vĩnh Thanh thành tinh Vĩnh Long

Năm 1832 thời Minh Mạng, đến năm Tự Đức thứ 4 ( 1851 ) lập thành nam Kỳ Lục Tỉnh gồm:

Tỉnh Biên Hòa có 2 phủ - Phước Long
- Phước Tuy

Tỉnh Gia Định có 3 phủ - Tân bình
- Tân An
- Tây Ninh

Tỉnh Định Tường 2 phủ - Kiến An
- Kiến Tường

Tỉnh Vĩnh Long 3 phủ - Định Viễn ( Sóc Trăng, Hậu Giang)
- Hoằng Trí ( Vĩnh Long, Bến Tre, đảo Côn Lôn )
- Lạc Hóa ( Trà Vinh )

Tỉnh An Giang 3 phủ - Tuy Biên
- Tân Thành
- Ba Xuyên

Tỉnh Hà Tiên 2 phủ - An Biên
- Quảng Biên

Tên gọi Nam Kỳ lục tỉnh ổn định từ năm 1841 – 1862

(Bản đồ lục tỉnh nam kỳ thời 1836 địa bộ cũng được lập thời kỳ này, mãi đến thời Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, để người dân quên danh Lục tỉnh, pháp lập lại địa giới và tách tỉnh)

Nhà Nguyễn thời Minh Mạng vào khoảng thập niên 1850- 1860, người Minh Hương, tức hoa kiều được phép lập bang, hội. Những hội quán- miếu, được người Hoa lập sau thập niên trên. Hội quán Minh Hương ( chùa bà Minh Hương ) và Thất Phủ miếu ( chùa Ông ) ở Phường 5 Vĩnh long được tạo lập trong những thời gian sau đó.

Thông thường, mình vẫn nghĩ, chùa Hoa thì người Hoa lập là đúng rồi, nhưng tạo ra vào thời kỳ chúa Nguyễn cho phép, trong giai đoạn miền Nam Việt Nam có 6 tỉnh, 15 phủ. Thiển nghĩ người Hoa trong bảy phủ thuộc nam kỳ này lập nên, phải là bảy phủ nào của 6 tỉnh miền tây đây. Tôi lục tìm mà mãi vẫn không tìm ra, chỉ những phủ bên Tàu. Rốt sau tôi tìm và được biết, ở TP HCM, quận 5 có chùa ông, tên Nghĩa An hội quán, do người Hoa gốc Triều Châu lập, để nhớ nơi xuất sanh là Nghĩa An bên Tàu. Nhân đây gợi nhớ người Việt mình định cư ở Hoa Kỳ, sinh cơ lập nghiệp xa quê, lập chùa tên tiếng Việt ngon lành, vậy thì Thất Phủ Miếu là bảy phủ trực thuộc 3 tỉnh Trúc lệ, Phước kiến, Quảng đông, bên Tàu tôi nghĩ chắc không sai.

Ngày nay từ phường 5 sang phường 1 đã có sẵn hai cầu cách nhau khoảng 500 thước, ngày xưa vào thế kỷ 18 không có cầu sang sông, ghe xuồng là phương tiện sang sông duy nhất. Bởi vậy chùa ông và chùa bà xây dựng mặt hướng về sông Long hồ, tiện việc xây dựng và hội họp về sau..

Con đường trước mặt tiền chùa Ông, ngày xưa là đường trải đá xanh như hầu hết những con đường từ tỉnh về quận huyện vào những năm 1950. bên kia đường là khoảng đất trống dài xuống bờ sông Long Hồ, cận bờ sông là ngôi miếu nhỏ thờ thổ thần, mặt về hướng nam, miếu lập đồng thời gian khi xây xong chùa Ông. Khoảng đất này bề ngang bằng bề ngang chùa Ông, hai cây còng lớn có lẽ trồng sau đó, vì khoảng thời gian 1970 thân còng độ hai người ôm , tàn che mát toàn bộ đường cùng miếng đất, nên vào năm 1953-1954 người dân địa phương họp chợ dài theo đường trước cửa chùa từ hơn 5 giờ sáng đền khoảng 9 giờ tan chợ, có lẽ không buôn bán được nên chợ teo tóp dần rồi biến mất hồi nào không hay. Hai cây còng lớn cũng bị hạ xuống sau năm 1975.

Những người xưa còn sót lại vào khoảng 1960, họ thường kể rất nhiều chuyện hiển linh của chùa Ông. Khi xưa đêm khuya vào ngày, giờ linh, hai ông dẫn ngựa xuống sông tắm, mà nhà dân gần đó nghe tiếng lội nước, rồi tiếng chân ngựa lên bờ vào chùa, mà không ai dám hé cửa nhìn. Tương truyền ai nhìn thấy hộc máu chết.Một nhúm họp chợ trước chùa cũng được người dân xầm xì- Ô uế nên ông không cho họp chợ trước mặt chùa v..v.


Hàng rào chùa và khoảng sân được xây và lát bằng gạch đại, loại gạch thông dụng cho xây dựng thời xưa, thời dùng vôi bột pha nhựa cây ô dước và đường hủ làm chất kết dính. Gạch lát nền trong chùa ngày xưa là gạch miếng lục giác, sau thời gian dài thay gạch tàu loại 5 tấc, do người viếng chùa nhiều gạch mòn, lót mới lại cũng bằng đất nung loại tốt khoảng 4 tấc, được thoa bóng bằng xác dừa nạo nên gạch đỏ thẫm rất đẹp. như vậy cho đến nay gạch lát nền được thay 3 lần, còn giữ phong cách gạch đất nung cổ kính.

Dựa theo tư liệu còn lưu lại, Thất phủ miếu do nhánh Triều châu, Quảng đông, Phước kiến, Hẹ, Hải nàm ( hải nam ) lập nên, thời gian trước năm 1872, sau đó người Triều châu và Quảng đông tách ra lập hội riêng cho bang mình, người Phước kiến tái thiết đổi tên thành Vĩnh an cung làm nơi hội họp riêng của bang Phước kiến. Đến năm 1892 tổng tái thiết với nhiều hạng mục, họ thành lập nhóm thợ có cả công trình sư tên Hà Tạo và nhiều nhóm nghệ nhân cùng nhân công địa phương ở làng Tân Giai, Tân nhơn là các nghệ nhân chạm. khắc dát vàng v..v..

(Mặt tiền, cửa vào là ba khuôn cửa lớn, hai bên vuông góc là hai khuôn cửa hẹp hơn)

Đến thời hiện tại ( 2014 ) Thất phủ miếu đã hoàn chỉnh từ trong ra ngoài và kỳ tái thiết cuối (1892 – 1909 ) đến nay đã rất tôn nghiêm, tính thẩm mỹ cao với rất nhiều hạng mục tinh tế, các kiến trúc xây dựng xưa, gồm chạm, khắc, lộng, cẩn, đấp, vẽ trong ngoài được bảo trì thường xuyên, theo định kỳ.

Cũng nghe truyền lại, những miểng chén, sành, sứ, tất cả được mang từ bên Tàu sang và là chén nguyên được bẻ, cưa, lộng cho vừa với hình nổi trong truyện tranh, sinh hoạt các giới trong xã hội người Hoa xưa

Hình ảnh trang trí đấp nổi bằng sành, sứ, các mảnh chén kiểu bên ngoài, nằm hai bên, phía ngoài cửa chánh.từ ngoài cổng nhìn vào đã thấy thẩm mỹ hài hòa và cân đối


Bên trong rất nhiều bao lam ốp vào hai hàng cột to từ ngoài vào sâu bên trong. Phía trên rất nhiều bức hoành, thiết kế giáp chân hai bức một đâu lưng nhau. Tất cả được sơn son thếp vàng, chạm khắc tỉ mỉ.

 

Tương truyền nét chữ trên các tấm hoành được viết trực tiếp bằng một cây bút lông to, không chỉnh sửa, hoặc đồ lại ( để viết được có lẽ ông mài mực, hì hục cả buổi mài ) . Đây là bức hoành tôi thích xem nhất, mỗi khi viếng chùa.

 

Huy chương đồng đấu xảo tấm hoành ở Mạc xây bên Pháp năm 1922 được treo bên vách trái, gần cuối gian thờ.

 


Qua khuôn cửa chính, hai bên vách ngang và dọc là những bức thủy mặc sắc sảo, kể lại những tình tiết quan trọng trong truyện Tam quốc, Phong thần, là hai truyện trong thất tài tử thư của Trung hoa ngày xưa.

.

 

Bàn thờ Ông với Châu xương bên trái, Quan bình bên phải, mặt tiền phần bên ngoài. Bên trong phía sau cũng bày trí như bên ngoài, song to và uy nghi mang sắc thái tâm linh huyền bí.

Tượng hai vị giữ ngựa danh xưng mã đầu tướng quân
Bàn thờ bên trái - Phước đức chánh thần, bên trong cũng vậy, phía dưới thớ ông hổ.

Bàn thờ bên phải thờ Thiên hậu thánh mẫu và Phật. bồ tát. Phía sau bên trong cũng thờ Thiên hậu với trang thờ khắc chạm công phu, sơn son thếp vàng lộng lẫy.

Phía bên trong cũng bàn thờ tương tự bên ngoài nhưng đăc biệt ảnh tượng của Ông cùng hai ông Châu xương, Quan bình rất to lớn. Thể theo dẫn giải, phước thần còn gọi ông Bổn hay thổ địa. Bà Thiên Hậu thì bảo trợ và phù hộ cho người Hoa di dân trên biển cũng như nơi đất đai đang sinh sống.

Nơi thờ Phước đức chánh thần, phần cuối của gian thờ bên trái
Ảnh tương bộ ba rất bề thế. Quan công- Châu xương- Quan bình. Chính vị
(Trang thờ bên phải phía trong cùng)

Những vị tạm gọi là ông từ cư trú tại chùa trông coi hương khói cho chùa theo thời gian gần đây
Khoảng năm 1950 Quách Xuất và vợ trông coi chùa, ông mất còn vợ tiếp tục trông nom hương khói, mãi đến năm 1975 bà vợ ông Quách Xuất về Cần Thơ
Ông Quách ngọc Đông ( Ô Hiến ) trông coi tiếp theo, đến khi ông mất.
Đệ tử ông tên là Tèo tiếp theo được hơn năm
Kế tục là rể ông ba Bê, tên Cường thời gian ngắn

Hiện nay một người trông giữ chùa khá lớn tuổi cùng hai vị người Hoa cao tuổi hương khói và lễ lộc mỗi ngày.

Viết xong 25-10- 2014
Trương Văn Phú 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét