Thứ Ba, 6 tháng 9, 2022

Đa Dạng Sinh Học Và Phật Học

Abstracts

Biological diversity, or biodiversity, refers to the variety and interdependence of living things in our environment. Biodiversity can be  in genes, in ecosystems or in species. Tropical forests in Amazon basin, in Equatorial Africa, in New Guinea provide a great biodiversity in plants and animals.  Biodiversity  is  of great economic value, since it has the potential to contribute in medicinal products,  in genetic improvement as well as in relaxation.. It contributes also to sustainable development including watersheds, soil and coastal protection, climate and water regulation, environmental stability and carbon sequestration. Some sutras in Buddhism are cited to highlight the Buddhist compassion with all living beings. The Buddhist story of first origins describes the negative impact of humans on the earth created by selfishness and greed. In the Buddhist mythological Eden, the earth flourishes naturally, but greedy desire leads to division and ownership of the land that in turn promotes violent conflict, destruction, and chaos. In short, in the Buddhist myth of first origins, human agency destroys the natural order of things. Though change is inherent in nature, Buddhists believe that natural processes are directly affected by human morality.

Within the Buddha’s enlightenment vision (Nirvana) all the major dimensions of the Buddhist worldview are found. Tradition records that during the night of this experience the Buddha first recalled his previous lives within the karmic continuum; then he perceived the fate of all sentient beings within the cosmic hierarchy; finally he fathomed the nature of suffering and the path to its cessation formulated as the four noble truths and the law of interdependent co arising. The Buddha’s enlightenment evolved in a specific sequence: from an understanding of the particular (his personal karmic history), then to the general (the karmic history of humankind), and finally to the principle underlying the cause and cessation of suffering. Subsequently, this principle is further generalized as a universal law of causality: “On the arising of this, that arises; on the cessation of this, that ceases.”

Buddhist environmentalists find in the causal principle of interdependence an ecological vision that integrates all aspects of the ecosphere—particular individuals and general species—in terms of the principle of mutual codependence. Within this cosmological model individual entities are by their very nature relational, thereby undermining the autonomous self over against the “other,” be it human, animal, or vegetable.

A true buddhist is an ecologist since buddhism with interconnection prones real compassion with all beings animal or vegetal. Despite the disparate arenas of study and practice, the principles of Spiritual Ecology are simple: In order to resolve such environmental issues as depletion of species, global warming, and over-consumption, humanity must examine and reassess our underlying attitudes and beliefs about the earth, and our spiritual responsibilities toward the planet Thus, ecological renewal and sustainability necessarily depends upon spiritual awareness and an attitude of responsibility. Spiritual Ecologists concur that this includes both the recognition of creation as sacred and behaviors that honor that sacredness.


1. Nhập đề.


Đa dạng sinh học càng ngày càng được chú trọng trong lãnh vực môi trường, nhất là từ khi có Đại Hội Toàn cầu về trái đất ở Rio (Ba Tây) năm 1992.  Đại hội này quy tụ các lãnh tụ toàn thế giới về các vấn đề đặt ra trong lãnh vực môi trường trên hành tinh chúng ta đang ở và báo động về các nguy cơ hiểm hoạ đang chờ đón nếu chúng ta lơ là về sự bảo vệ môi trường. Nhiều vấn đề như sưởi ấm toàn cầu, lỗ hổng ozôn, sự phá rừng xích đới, sự ô nhiễm không khí, mưa axít, giảm đa dạng sinh học, khu vực đánh cá bị cạn kiệt, mực nước biển dâng cao, v.v. là những vấn đề nhức nhối của nhân loại, nhất là khi áp lực dân số tăng mỗi ngày làm diện tích sống của mỗi người càng bị thu hẹp lại. Riêng năm 2010, Liên hiệp quốc chọn làm Năm quốc tế đa dạng sinh học với mục tiêu tăng cường nhận thức của cộng đồng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, chia sẻ thông tin về những thành tựu trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học do cộng đồng và Chính phủ thực hiện.


2. Thế nào là đa dạng sinh học?


Đa dng sinh hc  là toàn bộ các môi trường tự nhiên và mọi hình thức cuộc sống trong đó có động vật, thực vật, khuẩn, vi khuẩn với mọi tương quan, tương thuộc giữa chúng và các môi trường. Đời sống trên mặt đất có 3 mặt tương thuộc :

21-đa dạng các loài  (kể cả loài người) . 

Ngày nay, người ta ước tính có đến 10 triệu loài đa tế bào và chỉ chừng 1.8 triệu là được xác định

Ngoài biển thì san hô, cá biển, chim biển, thú biển, bò sát, động vật đáy, động vật phù du, rong biển, cỏ biển ..

Trên cạn, thì  động vật có vú, loài chim, loài bò sát, thực vật thì ẩn hoa, hiển hoa, rong rêu v.v.

22-đa dạng cá nhân (đa dạng gien) trong mỗi loài :

Ví dụ: 

-lúa cũng có nhiều loài :
 Vụ chiêm em cấy lúa di,
Vụ mùa lúa dé, sớm thì ba giăng
Thú quê rau cá đã từng
Gạo thơm cơm trắng chi bằng tám xoan


-Cá cũng có nhiều loài:


Nhà tôi nghề giã nghề nông
Lặng thì tôm cá đầy trong đầy ngoài
Cá trắng cho chí cá khoai
Còn như cá lẹp, cá mai cũng nhiều.


-Nói về dừa cũng có dừa uống nước thường thuộc nhóm dừa lùn cho trái sớm, năng xuất cao như dừa Xiêm xanh cho trái rất nhiều, dừa Xiêm lục, dừa Xiêm lửa, ngoài ra còn có dừa Dứa là loại dừa đặc biệt với hương thơm lá dứa tự nhiên nên có giá trị cao so với dừa Xiêm.  Cũng có giống dừa lấy dầu với hai màu chủ lực là xanh và vàng

 -Rau cải cũng rất đa dạng như trong bài ca dao sau:

Ai đâu mà chẳng biết ta
Ta ở Xóm Láng, vốn nhà trồng rau
Rau thơm, rau húng, rau mùi
Thì là, cải cúc, đủ loài hành hoa
Mồng tơi, mướp đắng, ớt cà
Bí đao đậu ván vốn nhà trồng nên 


23-đa dạng môi trường sống : đại dương, rừng cây, sa mạc, ao hồ.

 Trong ca dao:

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa

 ta để ý ngay là tại miền đồng bằng, dù địa thế bằng phẳng nhưng có nơi cạn, nơi sâu, huống hồ là miền núi thì nào thung lũng, núi thẳm, đèo cao. Đó là đa dạng về hệ sinh thái

 

Nói cách khác, đa dạng sinh học là mức độ phong phú của tạo vật và là kết quả của hơn hàng ngàn triệu năm, từ lúc Trái đất được thành hình đến nay

Trong văn thơ Việt, thực vật và động vật luôn luôn là những đề tài gửi gắm trong ca dao cũng như trong các bài thơ . 

Trong bài thơ tả cảnh đồng quê Việt :

 Gió may nổi bờ tre buồn xao xác

Trên ao bèo tàn lụi nước trong mây

Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác

chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay

Ta thấy nào là động vật (chuồn chuồn) với thực vật (mướp, tre, bèo) chan hoà man mác trong bài

Ca dao thường phảng phất nhiều thực vật:

Xăm xăm bước tới vườn trầu

Hỏi thăm lê, lựu, mãng cầu chín chưa ?


Ngó  lên đám bắp trổ  cờ,

Đám dưa trổ nụ, đám trổ bông

 

Còn những câu đồng dao quen thuộc trong các trò  chơi trẻ  em cũng phảng phất nhiều loài chim như:

Chim ri là dì sáo sậu

Sáo sậu là cậu sáo đen

Sáo đen là em tu hú

Tu hú là chú bồ các

Bồ các là bác chim ri

Chim ri ...

hay các loài bò sát:

Kỳ nhông là ông kỳ đà

Kỳ đà là cha cắc ké

Cắc ké là mẹ kỳ nhông

Kỳ nhông ...

Trong bản nhạc Nhớ mùa thu Hà Nội, có những câu:

Hà Nội mùa thu cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ nằm kề bên nhau phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu 

Hà Nội mùa thu mùa thu Hà Nội mùa hoa sữa về thơm từng cơn gió, mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ, cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua

Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi Màu sương thương nhớ

Bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời

Ta cũng thấy ngay thực vật (cây bàng, cây cơm nguội ..), động vật (sâm cầm), cùng đứng chung trong bài hát . 

Đa dạng sinh học trong văn học Việt cũng nhan nhản trong các bài hát như: hoa ngọc lan, hoa tigôn, hoa cúc, hoa mai, hoa đào v.v. Cây cũng vậy có mặt trong ca dao, thơ, nhạc, từ cây cau, cây khế, cây xoài, cây nhãn đến bằng lăng,
 

Tóm lại, đa dạng sinh học chính là chim trời, cá nước, san hô ngoài biển, cá sông, cá biển cùng động vật hoang dã, thực vật trong rừng, kể cả các khuẩn, tảo, vi cơ thể trong đất, tóm lại mọi hình thức của sự sống muôn màu muôn vẻ .


3.Đa dạng sinh học trong rừng nhiệt đới


Những loại rừng ôn đới hay rừng thông phương Bắc  không có nhiều loài thực vật trong khí đó thì các rừng nhiệt đới có rất nhiều loài, đặc biệt là các vùng sau đây: 

Vùng Amazon. Rừng Amazon, rộng đến 7 triệu km2, xuyên qua nhiều xứ như Bresil, Perou, Venezuela, Guyana, Surinam. Rừng rậm và chứa nhiều loài thực vật, động vật, côn trùng, loài bò sát, chim muông. Trong rừng vùng Amazon có trên 3000 loài cây ăn trái từ chuối, avoca, cam, chanh, bưởi, chưa kể đến cây lúa, khoai tây, bắp, riềng, gừng, khoai môn, mía, ca phê, quế còn chim muông, loài bò sát, động vật hoang dã thì cũng rất nhiều. Sông Amazon của Brazil có chứa nhiều loại cá hơn tất cả các sông ngòi Âu Châu.  

Khu vực này là quê hương của khoảng 2.5 triệu loài côn trùng, hàng chục nghìn loài thực vật, và khoảng 2 000 loài chim cùng thú. Tới nay, ít nhất khoảng 40.000 loài thực vật, 3 000 loài cá, 1294 loài chim, 427 loài thú, 428 loài động vật lưỡng cư, và 378 loài bò sát đã được phân loại khoa học trong khu vực này. Khoảng 20 % loài chim trên thế giới sống trong các khu rừng nhiệt đới Amazon. 

 

Vùng lưu vực sông Congo. Lưu vực sông Congo bao trùm các xứ như Cameroun, Cộng Hòa Trung Phi, Congo Brazzaville, Congo Kinshasa, Guinée Equatoriale, Gabon cũng chứa nhiều rừng và đa dạng sinh học rất lớn

Vùng Nam Phi . Vùng Nam Phi châu với diện tích 1,1 triệu km2(110 triệu hecta)- ứng với Botswana, Lesotho, Mozambique, Liên Bang Nam Phi, tương ứng với 1% diện tích  đất lục địa  của quả địa cầu- cũng có nhiều loài chim, cá, cây, loài bò sát, động vật có vú

-vùng New Guinea Vùng Papua New Guinea cũng còn rất nhiều thực vật chưa ai nghiên cứu . Trãi dài từ các đảo Indonesia đến hải đảo Thái Bình dương xuyên qua New Guinea.

Riêng Việt Nam cũng là nơi hội lưu của ba luồng di cư sinh vật từ nhiều khu vực Nam Hoa, Mã Lai, Ấn Độ nên thực vật  cũng kế thừa cả ba luồng:

.Luồng thực vật miền núi Tây Bắc châu thổ sông Hồng có nhiều giống cây như thảo mộc miền núi Himalaya hay Nam Hoa, rụng lá vào đông  như các cây thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Thích (Aceraceae), họ Nhài (Oleaceae)

.Luồng thực vật mang các yếu tố Mã Lai-Indonesia bao gồm các cây thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae) như chò chỉ, dầu song nàng
.luồng thực vật mang các yếu tố Ấn Độ-Miến Điện gồm những cây thuộc họ Bàng (Combretaceae) như chò xanh, chò nhai (Anogeissus tonkinensis) và một số loài thuộc chi Combretum họ Bằng Lăng (Lythraceae), họ Gạo (Bombacaceae  ) rụng lá vào mùa khô. 

Vì  vậy, Việt Nam được ghi nhận là một trong những nước có đa dạng sinh học cao của thế giới, với nhiều kiểu hệ sinh thái, với khoảng10.000 loài động vật, hơn 13.200 loài thực vật, 3.000 loài thủy sinh vật và hơn 11.000 loài sinh vật biển.  Trong hai thập kỷ gần đây, nhiều loài động, thực vật mới vẫn tiếp tục phát hiện và công bố ở Việt Nam. Đặc biệt tại miền Bắc Trường Sơn, gần biên giới Lào Việt, các nhà động vật học có phát hiện ra chỉ cách đây vài năm một loài động vật   có tên địa phương là sao la và đã đặt tên mới là Pseudoryx nghetinhensis vì giống mới này gặp đầu tiên ỏ Nghệ Tĩnh. Một loài động vật khác, Megamuntiacus vuquangensis cũng mới tìm thấy ở khu rừng Vu Quang gần biên giới Lào nên được đặt tên như vậy .

4. Ích lợi của đa dạng sinh học 
 Ða dạng sinh học có vai trò to lớn trước hết là đối với sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh học, trong đó có con người. Tiếp đến là về mặt văn hóa, xã hội và bảo vệ con người

Đa dạng sinh học có 3 vai trò quan trọng sau đây:

4.1. vai trò sinh thái. Ða dạng sinh học và biến đổi khí hậu có liên quan chặt chẽ và tương tác với nhau Với rừng rú được bảo tồn, sức khoẻ con người được tăng lên vì rừng toả ra oxy qua hiện tượng quang hợp và hút bớt các khí độc do khói nhà máy, khói xe hơi hàng vạn chiếc suốt ngày đêm di chuyển phát ra. Đó là các khí nhà kiếng (greenhouse gas) làm đảo lộn khí hậu trái đất .  Lợi ích gián tiếp của đa dạng sinh học là hỗ trợ đắc lực cho các hệ sinh thái, điều hòa khí hậu, tạo ra ô-xy, giữ nguồn nước và cung cấp nước, chống xói mòn, bảo vệ đất đai, giúp hạn chế biến đổi khí hậu vì  hấp thụ nhiều khí  nhà  kiếng như  CO2. Hơn 20% oxygen trên thế giới tiết ra từ rừng nhiệt đới Amazon. 

Đa dạng sinh học có giá trị sinh thái qua sự thụ phấn nhờ côn trùng. Sản xuất thực vật cây trồng là do côn trùng như ong, bướm, chim giúp sự thụ phấn để kết hoa, đâm trái


4.2. vai trò kinh tế như nguồn gen cho nông nghiệp, nguồn thuốc cho y tế, nguồn lương thực .. Nếu information technology làm đảo lộn thế giới với internet, facebook, twitter, điện thoại thông minh ghép hình ảnh và tiếng nói truyền đi mọi nơi trên thế giới trong một nháy mắt thì biotechnology cũng đang dần dà chiếm nhiều lãnh vực Trước kia, con người sử dụng các sản phẩm hoá học nhiều nhưng ngày nay, mới thấy hoá học đưa đến những phản ứng phụ gây nguy hại cho sức khoẻ nên càng ngày nhân loại chú trọng nhiều về sinh học (Bio): nào là biocosmetics với nhiều công ty mỹ phẩm ngày nay sử dụng các tinh dầu thực vật để làm phấn, son, nước hoa v.v, nào là bioremediation, sử dụng thực vật hoặc vi sinh vật để cải tạo môi trường bị ô nhiễm


-Nguồn gen cho cải tạo thực vật .  Dda dạng sinh học càng nhiều thì qũy gen càng phong phú và càng phong phú thì cơ hội lai tạo các giống mới kháng hạn, kháng lạnh, kháng phèn, kháng mặn .. càng dễ thành công . Ddó là lý do Liên Hiệp Quốc có Công Ước quốc tế về đa dạng sinh học , Nhiều giống cây, nhiều giống hoa màu hoang dã  nhưng lại chứa đựng một quỹ gen rất phong phú . Nhờ quỹ gen đó mà có thể thay đổi hay cải thiện các giống hiện có, bằng cách lai giống, ghép cây, để tạo ra các giống mới thích nghi với môi trường mới, kháng sâu hơn, giúp cải thiện môi trường. Sự đa dạng sinh học là điều kiện cần thiết để có một quỹ gen phong phú..

-Kho thuốc cho loài người: Rừng nhiệt đới là nhà thuốc cho thế giới . Nhờ đa dạng sinh học, nhất là thảo mộc hoang dã trên núi, nên nhiều dược phẩm mới có khả năng được phát hiện qua các khảo cứu các thảo mộc thiên nhiên trong . Trong rừng nhiệt đới có vô vàn cây cho thuốc, từ lá, rễ, trị nhiều chứng bệnh thuốc lợi tiểu, chống đau nhức, trị kiết, thổ tả, mụt nhọt.Xưa kia, ngành Đông Y chỉ dùng toàn thuốc nguồn gốc thực vật . Gừng, tỏi, artichaut, lá dâm bụt, nghệ, quế ..v.v. đều sử dụng trị các chứng đau .

Trong Kinh Thi có câu: Thu ẩm hoàng hoa tửu” - mùa thu uống rượu hoa cúc.

 Các chiết xuất từ nhiều cây trong rừng giúp trị nhiều chứng bệnh  25% toa thuốc chế biến từ dược thảo. Vào những năm 2000 thuốc tiêu thụ từ dược thảo lên đến 4.5 tỉ đô la. Ngày nay trên toàn thế giới lưu lượng dược thảo được bán ra hơn 40 tỉ đô la hàng năm chiết ra từ 90 loại cây rừng nhiệt đới. 25% các loại thuốc chống ung thư ngày nay trích ra từ dược thảo vùng nhiệt đới. Năm 1983 không một hãng hay cơ quan nào của Hoa Kỳ làm nghiên cứu về thảo dược mà ngày nay có hơn 100 hãng thuốc đã lên dự án thiết lập nhiều chương trình nghiên cứu về thảo dược như Merck, Abbott, Bristol-Myers Squibb, Eli Lilly, Monsanto và Cơ Quan chống Ung Thư Hoa Kỳ (US National Cancer Institute). Cơ quan này cho biết có hơn 3 000 loại cây dùng để chữa trị ung thư trong đó 70% là dược thảo từ rừng nhiệt đới. Chưa kể đến còn nhiều chất hóa học trong dược thảo chưa khám phá bởi con người để chữa trị những căn bệnh hiểm nghèo như lao phổi (tuberculosis), viêm gan, HIV, AIDS, v.v Ngoài cây trong rừng, nhiều sinh vật biển cũng như các rong tảo biển cũng được chiết xuất để tạo ra các sản phẩm có ích cho người dùng 

 Vào trong tiệm thuốc Tây ngày nay, ta thấy cũng có trưng bày các loại thuốc của nhiều hãng như Adrien Gagnon, Jamieson ..của Canada, Vogel của Thụy Sĩ để trị cảm, cúm, dị ứng, ho khan  v.v.bằng các thực vật khác nhau như :

 

-Lương thực. Rừng cây cũng có tài nguyên lương thực với măng tre, nấm, sim, muồng ..

 

4.3.vai trò xã hội và tâm linh .  Đa dạng sinh học với thảo nguyên, rừng dày, rừng thưa, rừng ven sông, suối, ao hồ, biển  có  giá trị thẩm mỹ, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục nâng cao tầm hiểu biết của con người. Đa dạng sinh học cũng  giúp chốn tâm linh lắng đọng, nội tâm yên ổn, giúp giảm stress vốn gây rất nhiều bệnh thời đại. Phải ở trong cảnh ‘phố phường chật hẹp người đông đúc ‘ với giật bóp, cướp của mới cảm nghiệm được sự yên lặng sâu thẳm của núi rừng, của tạo vật .. Sự yên tỉnh của rừng giúp suy tư và chiêm nghiệm  trong tình trạng tâm an, tâm bất động, tâm không phân biệt, tâm không nhị nguyên, tâm buông xả.

 Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho thư giãn, cho cảm hứng:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao.

5. Bảo tồn đa dạng sinh học


Muốn bảo tồn đa dạng sinh học, các nước thường thiết lập vườn quốc gia (national park) khu bảo tồn thiên nhiên (nature reserve), khu lâm sản nghiên cứu thí nghiệm, các vườn sưu tập cây để cho hột (arboretum). Nhiều Trung Tâm Khảo Cứu trên thế giới đã phải sưu tập rất nhiều hạt giống cuả mọi giống lúa, mọi giống đậu, khoai tây, bắp...và tồn trữ trong các kho lạnh để cho khỏi mất tỷ lệ nẩy mầm trong hàng chục năm.Thực vậy, hiện nay trên thế giới có quãng trên 10 Trung Tâm quốc tế, rải rác trên toàn thế giới, chuyên có một bộ phận lo sưu tập và bảo tồn quỹ gen các loài .Nào là CIMMYT ở Mexico ,đặc trách lúa mì và bắp, y như tên gọi Centro Internacional Mejoramiento Maiz y Trigo, nào là CIAT (Centro Internacional Agricultura Tropicale) ở Colombia  lo sưu tập các loại đậu, nào là ICRISAT ở Ấn Độ (International Crops Research Institute Semi Arid Tropics) sưu tập đậu phụng và đậu triều tức Cajanus indicus, nào là IRRI ở Phi luật tân (International Rice Research Institute) chuyên về lúa, từ lúa ruộng đến lúa rẫy, từ lúa tẻ đến lúa nếp, lúa nổi  đến lúa chịu phèn, kháng mặn ,nào là CIP (Centro Internacional de la Papa) ở Pérou lo về khoai tâỵ  Từ 1968, Viện IRRI đã du nhập và tồn trữ trong kho lạnh gần 70.000 giống lúa (trong đó 63000 ở Á Châu). Muốn cho an toàn hơn, cứ mỗi giống lúa, họ gửi một nửa sang Mỹ, hiện tồn trữ trong kho lạnh ở Colorado ( U .S. National Seed Storage Laboratory ở Fort Collins). Nền tảng của cuộc cách mạng xanh hiện nay là nhờ vào quỹ gen trên. Các nhà bác học đã xử dụng quỹ gen để tạo giống mới kháng hạn hơn, cao năng hơn, kháng sâu bệnh hơn.. Căn bản di truyền trong sự cải thiện thực vật là nằm trong các gen mà một khi các gen bị mất đi (do phá rừng, do đô thị hoá) thi` các nhà di truyền học không tìm đâu ra các gen để còn tiếp tục lai giống.

Tóm lại, bảo vệ đa dạng sinh học chính là bảo vệ con người. Vì sao ? Con người nhờ rừng vì không rừng thì không có nước. Không rừng thì đất cằn cỗi mà đất cằn thì không sản xuất được lương thực, gây nạn đói kém. Không rừng thì lụt lội, chết người, mất của. 


6. Phật giáo và đa dạng sinh học  

  

Trong ngũ giới của Phật giáo, có điều khoản cấm sát sanh . Như vậy cũng có nghĩa là không săn bắn hoang thú. Điều này cũng có nghĩa là phải bảo tồn rừng rú vì nếu không có rừng thì loài thú hoang, chim muông sẽ không nơi trú ẩn .Tục ngữ ta cũng có nói đến hai tội lớn trong môi trường : đó là Nhất phá sơn lâm, nhì đâm Hà Bá . Phá sơn lâm thì không còn rừng rú khiến đất đai bị xói mòn, chuồi đất lụt lội .  Vô hình chung, đạo Phật qua điều răn trong ngũ giới đã khuyến cáo sự đa dạng sinh học.

  Trong kinh Địa Tạng, phẩm thứ tư, Nghiệp cảm của chúng sanh, có đoạn Đức Phật khuyên như sau:

nếu gặp kẻ sát hại loài sinh vật, thời dạy rõ quả báo vì ương lụy đời trước mà phải bị chết yểu..

nếu gặp kẻ buông lung săn bắn  thời ngài dạy rõ quả báo kinh hãi điên cuồng mất mạng.. 

nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cỏ  thời ngài dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết

nếu gặp kẻ dùng lưới bắt chim non thời ngài dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa

nếu gặp kẻ dùng nước sôi hay lửa, chém chặt, giết hại sanh vật thời ngài dạy rõ quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau


Trong kinh Pháp Cú là kinh nhật tụng của Phật giáo Tiểu thừa, phẩm Phật đà, ta bắt gặp các câu: 

Trong cơn nguy khốn bàng hoàng

Con người tìm trú dưới hàng cây thiêng

Hoặc vào đền miếu, chùa chiền

Hoặc lên đồi núi, hoặc miền rừng hoang 


như vậy cũng đủ nói lên vai trò của rừng trong tâm linh. Trong cuộc sống đầy biến động, ta hãy tạo cho mình một niềm tin và một tâm bình an, buông xả 


Theo thuyết tương tức, tương nhập, trùng trùng duyên khởi thì mọi việc đều liên quan đến nhau: rừng cây tác động đến nước, nước tác động lên mực nước biển dâng, ảnh hưởng đến các vùng đất thấp duyên hải, ảnh hưởng đến lương thực v.v.nói cách khác, cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không.. Thân thể bao gồm bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa. Khi chúng kết hợp và tạo thành cơ thể, ta gọi chúng là đàn ông, đàn bà, cho chúng một cái tên để có thể dễ dàng nhận ra chúng, nhưng thực con người chỉ vay mượn các yếu tố trên để sống còn, còn mượn thì còn trả; hết mượn, thì chết . Cũng như thế, Trái Đất cũng gồm bốn Tứ Đại là đất, nước, gió, lửa. Bốn yếu tố này cũng tương quan, tương thuộc:  vấn đề rừng ngập mặn, rừng đầu nguồn, dân số đông, khí nhà kiếng, an ninh lương thực v.v. đều là một vì cái này ảnh hưởng đến cái kia .Do đó, nếu nước bị ô nhiễm, nếu không khí bị ô nhiễm, nếu phá rừng ngập mặn, phá rừng đầu nguồn v.v, thì con người đã tự huỷ hoại mình ! . Nói khác đi, hiểu rõ thiên nhiên ta sẽ hiểu rõ giáo pháp. Hiểu rõ giáo pháp ta sẽ hiểu rõ thiên nhiên. 

Như vậy, phải vứt bỏ khái niệm về ‘ngã’ vì con người nhờ không khí để thở, nhờ nước để uống, nhờ rừng mới có dòng nước.


Con người mà còn tự ngã là còn đau khổ .Căn bản của những lời dạy của Đức Phật là hiểu rõ tự ngã chỉ là trống không. Không còn dính mắc vào tự ngã, vào hạnh phúc thì sẽ có hạnh phúc thật sự. Hãy tập xả bỏ một cách tự nhiên, không cần tranh đấu gay go, chỉ đơn thuần xả bỏ, sự vật thế nào thì cứ để nó thế đó -- không nắm giữ, không dính mắc, tự do giải thoát. Khi hiểu rõ vô ngã thì gánh nặng của cuộc sống sẽ được bỏ xuống, sẽ an lạc với mọi sự:   “Cái thân ngoại vật là tiên trên đời” (cái “thân” ở ngoài cái “vật”, nghĩa là không còn dính mắc gì cả thì sướng như tiên!) 


7. Kết luận


Trong sách Hành trình về Phương Đông,  tác giả có thuật chuyện gặp một bộ lạc sống trên miền núi cao ở Colombia, sống cô lập với thế giới xung quanh . Ông già trưởng làng nói với ký giả:


Mẹ của các em là ai? Chính là trái đất này. Lòng Mẹ chính là biển cả và trái tim của Mẹ chính là những dãy núi cao có mặt khắp nơi. Này các em! đốt rừng, phá núi, đổ đồ ô uế xuống biển chính là chà đạp lên thân thể của Mẹ đó. Mẹ là nguồn sống chung và con người không thể sống mà không có Mẹ. Nếu trái đất bị hủy hoại thì chúng ta sẽ sống ở đâu? Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và cần xét đoán một cách nghiêm chỉnh. Các anh không biết trong vòng vài năm nữa thế giới sẽ biến đổi như thế nào? Chắc không lấy gì tốt đẹp lắm đâu nếu các em cứ tiếp tục phá hoại mà không biết bảo trì môi trường sinh sống. Tại sao được thừa hưởng một gia tài tốt đẹp như thế mà chúng ta lại phá hoại nó đi vậy? Tại sao các em không nghĩ rằng trải qua mấy ngàn năm nay, thế hệ trước đã giữ gìn cẩn thận, đã trân trọng từng tấc đất, từng ngọn suối, từng khóm cây, ngọn cỏ mà ngày nay các em lại phá nát không hề thương tiếc? Làm sao các em có thể tự hào rằng mình “văn minh” khi nhân loại và mọi sinh vật mỗi ngày một khổ đau nhiều hơn xưa? Làm sao có thể nói rằng nhân loại đã “tiến bộ” khi con người ngày càng gia tăng thù hận, chỉ thích gây chiến tranh khắp nơi? Các anh biết vậy nhưng phải làm sao đây? Làm sao có thể nói cho các em biết rằng vũ trụ có những định luật vô cùng lớn lao, không thể vi phạm được? Lòng các anh vô cùng đau đớn vì các anh thấy rằng trái đất đã khô kiệt rồi, mọi sự sống đang lâm nguy và thảm họa diệt vong chỉ còn trong giây lát. Do đó các anh muốn kêu gọi khẩn thiết rằng hãy thức tỉnh, ngưng ngay những việc có tính cách phá hoại đó lại, nếu không thì trễ quá mất rồi!” 


Chúng tôi dùng câu dặn dò của vị bô lão làm câu kết luận bài viết.


Thái Công Tụng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét