Theo âm lịch hôm đó là ngày 30 Tết. Sáng mai sẽ là ngày Tân Niên. Người Á Đông vào ngày cuối năm này, không ai muốn ra tòa cả. Họ còn lo dọn cửa nhà, bày bàn thờ tổ tiên để đón năm mới. Nhưng người Mỹ thì ngày nào cũng là ngày làm việc, trừ ngày lễ và ngày cuối tuần. Ngày 30 Tết của mình không phải ngày lễ lạt nào của dương lịch cả. Và phiên xử đã định ngày. Muốn hay không cả bị cáo lẫn nguyên đơn đều phải ra đôi chứng trước tòa.
Phiên tòa “Dân Sự Tố Tụng” ngoài luật sư, chánh án, còn có cả người ngoài vào tham dự. Những người Việt ở thành phố này háo hức đi xem vì bà Hằng là một khuôn mặt quen thuộc trong cộng đồng, một người ở đây từ năm 1975 và tương đối có một cuộc sống dung dị, khiêm nhường, nhất là sau khi chồng bà qua đời thì bà lại ít giao thiệp hơn. Phần đông họ biết bà là người có nhà cho thuê phòng. Bốn người ở trọ trong nhà bà thì một người, con chở tới, để làm nhân chứng thưa bà Hằng, ba người kia cũng chở nhau hoặc nhờ người khác chở đến xem phiên tòa xử bà Hằng.
Bà Nguyễn Thị Hằng bị ông Trần Văn Định, con trai của ông Trần Văn Nam
thưa về tội bà lợi dụng bố ông để làm chuyện vợ chồng và đòi số tiền bồi thường
là ba trăm ngàn. Đây là số tiền tương đương với căn nhà bà Hằng đang sở hữu.
Nếu thua kiện, bà Hằng có thể phải bán đi ngôi nhà này.
Sau đây là lời khai của bà Nguyễn Thị Hằng:
- Tôi năm nay đã ngoài năm mươi. Góa chồng mười năm, không con cháu. Chồng tôi
mất để lại cho tôi tiền hưu bổng, quỹ an sinh của anh cộng vào của riêng tôi,
cũng giúp tôi sống thoải mái tuổi già. Tôi có một ngôi nhà khá rộng, nhà bốn
phòng ngủ ba phòng tắm. Ngôi nhà này chúng tôi mua sau khi ở Mỹ được mười năm.
Bây giờ chồng mất, một mình tôi ở cũng thấy trống trải quá. Bạn bè khuyên tôi
nên bán đi mua một căn chung cư ở cho tiện, khỏi phải lo sân trước vườn sau.
Nhưng tôi cứ tiếc bao nhiêu kỷ niệm đã có với ngôi nhà này nên không bán. Hai
năm sau ngày chồng mất, tôi sửa lại nhà, thêm hai buồng nữa và một buồng tắm
rộng, xây theo kiểu cho người già có thể đẩy xe lăn vào tắm. Đã tám năm nay,
tôi cho thuê phòng. Tôi cho những người già trên 50 tuổi thuê, phải là không có
bệnh tật, tự lo cá nhân được, chỉ muốn ở riêng không phiền con cháu. Nếu ai
không thích nấu nướng, tôi cũng nấu ăn cho ngày hai bữa: bữa điểm tâm và bữa
cơm chiều. Nhà sáu phòng, cho thuê bốn. Tôi ở một phòng, một phòng làm thư
phòng, để sách vở, báo chí, máy truyền hình. Trong tám năm có kẻ ra người vào.
Có cặp vợ chồng già, giận con tưởng bỏ đi được, đến xin ở. Vài tháng nhớ cháu
lại làm lành với con xin về. Có người được con đưa đến gửi vì cả ngày con cháu
đi làm, đi học không có ai nói tiếng Việt, họ nói: gửi mẹ cháu ở đây cho có
bạn, cuối tuần đón về. Một hai tháng đầu còn đón, sau quên luôn. Có người ở tiểu
bang khác tới chưa kiếm được nhà, nói ở tạm, rồi ở luôn. Trong tám năm không
lúc nào có buồng trống cả. Khách trọ có người làm thân với nhau nhanh chóng, có
người ở cả tháng không nói với nhau câu nào. Cũng có người ở được một tháng rồi
dọn ra ngay, nói là, không quen chung đụng với người lạ. Họ đến và đi như thế,
người này ra thì người kia vào. Cũng có một hai người qua đời vì tuổi già.
Cuối năm thứ bảy bước sang năm thứ tám, tôi nhìn vào danh sách khách trọ:
Cả bốn người đều là đàn ông không có vợ, một ông 68, một ông 70, một ông 72 và
một người còn trẻ, mới ngoài 20. Cả bốn người này không có bệnh gì trầm trọng,
đã ở thuê trong nhà tôi được từ hai đến bốn năm.
Có một điều đáng nói là cả bốn người này họ có một điểm giống nhau là khi ngủ
họ hay mê sảng và kêu hét. Ban đầu thì chỉ có một người mê sảng, sau không hiểu
sao mà dần dần cả bốn người thay nhau la hoảng suốt đêm. Có khi một tối hai, ba
người cùng mê sảng. Nhưng cơn mê của họ phải gọi là ác mộng vì họ la hét hoặc
khóc lóc. Có hôm cả đêm tôi phải dậy đập cửa từng phòng, nơi phát ra tiếng động
để kéo họ ra khỏi cơn ác mộng.
Sáng hôm sau, người mê hoảng đêm trước thường không nhớ gì về giấc mơ cả, hoặc
có nhớ thì chỉ nhớ rất mơ hồ hoặc có thể họ nhớ nhưng vì ngượng ngùng họ không
muốn nhắc lại. Tôi coi như họ đã quên hết những giấc mơ đêm trước.
Lần đầu nghe một khách trọ mê sảng như thế, tôi không chịu nổi vì mất ngủ suốt
đêm theo họ. Rồi kế tiếp cả bốn phòng đều thay nhau, người đêm này, kẻ đêm khác
cất tiếng khóc, nói mê ban đêm xảy ra rất thường. Tôi đã có ý định mời họ dọn
ra. Nhưng khi mở hồ sơ của họ thì một người không có họ hàng thân thích, một
người con bỏ vào đây rồi dọn đi tiểu bang khác. Một người con ở gần nhưng
may ra một năm gọi hay thăm một lần. Muốn mời họ dọn ra không dễ, hình như con
cái họ muốn giao họ cho tôi làm vú già như kiểu ở Việt Nam ngày xa
xưa. Họ vẫn gửi tiền tháng nhưng không liên lạc, nếu cha mẹ họ chưa chết. Không
lẽ chỉ đuổi một người thứ tư là người trẻ nhất, không vợ, không con.
Chánh Án:
- Theo đơn khởi tố của ông Trần Văn Định thì bà có vào giường của bố ông ấy là:
Trần Văn Nam sáng ngày mồng 8 tháng 4. Bà lợi dụng ông già 70 để làm chuyện vợ
chồng và ông Định bắt gặp tại chỗ. Có đúng không?
Nguyễn Thị Hằng:
- Tôi có vào giường ông Trần Văn Nam để dỗ ông ta, vì ông ta khóc rống lên rất
thống khổ. Tôi phải trèo vào giường ôm ông ấy nằm xuống, vì ông ta hốt hoảng
nhổm dậy như muốn đập đầu vào tường. Mới kéo được ông ấy nằm xuống và đang ôm
cho ông ấy hạ cơn mê thì ông Định mở cửa ló đầu vào.
Trần văn Định:
- Bố tôi ở đó đã hơn ba năm, tôi không đón bố tôi về nhà chơi thường được vì vợ
chồng tôi bận làm ăn; chỉ trừ dịp Tết, nghỉ lễ, nếu tôi không bận công việc. Có
đến hơn một năm rồi tôi mới quay lại đây, tối hôm trước tôi có gọi cho bà Hằng,
nói, tôi sẽ đến sớm để đón Bố tôi cho ra tiệm ăn sáng vì tôi rất bận và tôi
không thể đón bố tôi về chơi được. Bấm chuông mãi không thấy bà Hằng ra mở cửa,
tôi xoay xoay tay cầm thì thấy cửa không khóa, ngó đầu vào thấy nhà không thắp
đèn, trời mới mờ mờ sáng. Tôi đi thẳng vào buồng có tên bố tôi, khẽ đẩy cửa ló
đầu vào thì thấy bà Hằng nằm trên giường cùng với bố tôi, bà ôm bố tôi như
người vợ ôm chồng và đang nói nho nhỏ: “Không sao, không sao, ngủ đi, em đây,
em đây.” Bà ấy cứ lặp đi lặp lại nho nhỏ như thế và không để ý đến sự có mặt
của tôi. Tôi nghĩ là bà ấy đang lợi dụng bố tôi để làm chuyện không đẹp. Tôi
tiếc là quên không lấy phôn ra chụp hình làm bằng chứng.
Chánh Án:
- Bà Hằng, những lời ông Trần Văn Định vừa nói có đúng không?
Nguyễn Thị Hằng:
- Đúng hoàn toàn, hôm đó tôi khó ngủ, thức giấc từ 3 giờ vì ông Trần Văn Nam mê
sảng cả đêm, tôi phải chạy sang lay ông và dỗ cho ông ngủ lại, gần 5 giờ mới
hơi yên. Biết là ông Định sẽ đến vào sáng sớm, nên trước khi về phòng mình, tôi
mở khóa sẵn cho ông Định, cửa chỉ đóng nhưng không khóa vì tôi không muốn mới
ngủ lại mà bị đánh thức. Nhưng ông Nam đâu có để tôi yên, khoảng một
giờ sau ông ấy lại mê sảng khóc rống lên, gọi tên bà Vân (tôi đoán là vợ ông,
vì mỗi lần mớ ông đều gọi tên bà Vân này.)
Tôi phải chạy sang và nằm luôn vào giường ôm ông ấy dỗ như dỗ một người chồng
bệnh tật.
Chánh Án:
- Tại sao bà lại dỗ như dỗ một người chồng? Ông ấy đâu phải chồng bà. Bà làm
như thế này mấy lần rồi?
Nguyễn Thị Hằng:
- Tôi làm nhiều lần rồi. Không phải chỉ với một mình ông Nam mà còn với
cả ba người khách trọ kia nữa.
Cả phòng xử nhao nhao lên một tiếng “Ồ” thật to. Ông Lê Văn Thành, ông Nguyễn
Anh Tuấn, Ông Bùi Văn Lai đều giật mình đánh thót lên. Cả ba ông khách trọ còn
lại thảng thốt nhìn nhau như tự hỏi: “Bà Hằng vào nằm ôm mình lúc nào mà mình
không biết nhỉ?” Ông Bùi Văn Lai trẻ nhất, ngồi im lặng, tính anh vẫn ít nói
nhưng hai ông già ngoài 70 tuổi thì cúi đầu vào nhau thì thầm, mặt co lại vì
suy nghĩ.
Trần Văn Định:
- Ồ đấy, cả tòa đã nghe rõ chưa, bà Hằng không phải chỉ ngủ với bố tôi mà còn
ngủ với tất cả khách trọ của bà. Thật là tội lỗi.
Chánh Án:
- Xin bà nói lại cho rõ. Bà cho khách thuê nhà, ngoài việc nấu cho ăn, bà không
có dự phần chăm nom cá nhân gì cho những người ở trọ, tại sao bà lại vào giường
ôm người ta ngủ?
Nguyễn Thị Hằng:
- Đúng, tôi chỉ là một người chủ cho thuê nhà, nhưng không biết từ lúc nào tôi
trở thành: người vợ, người mẹ và ngay cả người con của mấy người khách trọ này.
Đây là tình trạng những người hiện tại tôi cho thuê phòng trong nhà tôi:
Ông Lê Văn Thành, 72 tuổi, con mang tới bốn năm rồi, không hề ghé lại thăm
ngoài việc gửi tiền đều đặn hàng tháng và một năm đôi lần gọi, hỏi một câu ngắn
ngủi xem cha mình còn sống hay không? Ông Thành là một sĩ quan pháo binh, đi cải
tạo, sang Mỹ theo diện H.O. Ông mang vào nhà tôi một gánh ký ức ở những trại tù
Bắc Việt Nam, vợ chết từ khi ông đi tù về. Trong những cơn ác mộng ông gọi tên
người con trai duy nhất, rồi khóc nức nở, rồi cười hực hực.
Có khi tôi làm vợ ông, vào nằm đưa tay mình ra nắm lấy bàn tay gầy guộc của ông
trong đêm tối, rồi nhận là vợ ông. “Anh ơi ngủ đi, khuya rồi, ngủ đi mai dậy
mình mang con về nội”. Có khi tôi làm người con trai, tôi kéo ông nằm thấp
xuống cho ngả đầu vào vai tôi rồi dỗ: “Ba tựa vào vai con nè, con đến đón ba về
nhà chơi với mấy đứa nhỏ nè.” Tôi lừa ông một lúc thì ông ngủ. Ông ngủ say rồi
mà tôi vẫn thức, tôi thương ông quá đỗi, tôi không dám kéo cái vai gầy của tôi
ra, tôi thấy giận người con trai của ông đã bỏ rơi người bố khốn khổ. Tôi đóng
vai con ông, vợ ông không phải một mà rất nhiều lần rồi.
Ông Nguyễn Anh Tuấn, 68 tuổi. Vượt biển năm 1985, vợ và hai con gái chết ngoài
khơi trước khi thuyền kéo được vào bờ. Ông cuối cùng vào được Mỹ, tưởng rằng có
việc làm, chốn ở, ông sẽ làm lại đời mình. Nhưng không, ông vẫn sống với những
ám ảnh kinh hoàng đó. Ông phải đi điều trị tâm thần. Tuy hồ sơ bệnh lý của ông
không trầm trọng, nhưng ông sống vật vờ như xác không hồn, ông có đi làm việc
một thời gian dài rồi nghỉ việc, rồi lại đi làm, rồi lại nghỉ. Ông đi ở trọ
nhiều nơi, chính phủ cũng đã có lần cấp nhà cho ông. Bây giờ ông đi qua cả tuổi
hưu trí rồi mà vẫn không biết xếp hồ sơ của ông vào tình trạng nào vì có lúc
đầu óc ông rất sáng suốt, thông minh, có lúc ông hoàn toàn như vuông vải mục bị
ngâm thuốc tẩy lâu ngày. Ông đến thuê trọ nhà tôi ba năm nay.
Những đêm mê sảng ông gọi tên vợ, gọi tên hai cô con gái, giọng ông như người
đang chết ngạt trong nước. Không phải nước biển mà là nước mắt.
Tôi ôm ông, có khi nhận là vợ, nói: “Em đây, mình ngủ đi.” Có khi nói: “Ba ơi,
con gái ba đây, ba ngủ đi nghe.” Ông hơi khó dỗ, ông hay hỏi lại tôi: Bé Mi hay
Bé Na đấy? Khi ông ngủ là lúc tôi nằm khóc ướt cả cái gối của ông. Nhập vào
trong cơn mê sảng đau thương của ông, nhiều đêm tôi tưởng mình là con gái ông
thật, mặc dù tôi chỉ kém ông mươi tuổi.
Ông Bùi Văn Lai, trẻ tuổi nhất, lai Mỹ đen thì lúc nào cũng cần mẹ. Anh bị mẹ
cho vào cô nhi viện từ khi còn bé, đến khi anh lớn thì cô nhi viện đem bán anh
cho một gia đình để làm con nuôi. Cả gia đình đó sang Mỹ theo diện con lai.
Sang đến Mỹ được hơn một năm, đời sống gia đình họ ổn định, họ không muốn có
một người con Mỹ đen trong nhà, anh bị đuổi khéo. Anh lang thang, tự kiếm việc
và tìm nơi dung thân mình từ lúc 15 tuổi. Anh vào nhà tôi được hai năm. Năm nay
anh hai mươi.
Anh thèm mẹ lắm, tôi tin như thế vì khi anh mê sảng, anh cứ khóc rống lên gọi
mẹ.
Tôi bắt đầu còn đứng ở đầu giường anh lay lay vai anh, sau phải trèo vào giường
anh, ôm cái đầu tóc quăn quăn của anh vào bộ ngực còm cõi của mình dỗ dành: “Mẹ
đây, mẹ đây, ngủ đi con, ngủ đi con” và nước mắt tôi cũng ứa ra làm ướt cả mấy
sợi tóc quăn đó. Tôi ôm anh cho đến khi anh chìm vào giấc ngủ vì tin mình có mẹ
nằm bên.
Ông Trần Văn Nam, bố của ông Trần văn Định cũng là một người thèm con, nhớ vợ.
Mặc dù ông Định ở không xa nhưng lúc nào ông cũng nói là công việc làm ăn rất
bận. Vợ con ông thì tôi chưa hề gặp bao giờ. Tối hôm đó tôi phải vào với ông
hai lần, tôi mất ngủ cho đến sáng. Và ông Nam đã khóc trong lòng tôi, ông gọi
tên Định vì tưởng con đến đón ông về. Sau ông lại mê sảng gọi tên bà Vân, tưởng
tôi là bà Vân, vợ ông. Tôi dỗ dành mãi ông mới yên và tôi cũng mệt quá, vừa
thiếp đi thì ông Định đến.
Bà Hằng ngưng một lúc, nhìn xuống bốn người khách trọ trong nhà mình, nói như
chỉ để nói với bốn người đó:
- Tại sao cả bốn ông không cùng đem tôi ra tòa, cùng thưa tôi đòi bồi thường
một thể? Có phải các ông sau những cơn ác mộng ban đêm, sáng ra đã nhìn tôi như
nhìn một người vợ, một người con và một người mẹ hay không? Tôi không nghĩ là
các ông hoàn toàn quên hẳn giấc mơ đêm trước.
Cả phòng xử im lặng, người ta có cảm tưởng nghe được cả tiếng tim đập nhanh
trong lồng ngực của cả bốn người đàn ông trước mặt.
Phiên tòa đến đây tạm ngưng vì hết giờ. Chánh Án không hỏi thêm câu nào nữa và
vụ kiện sẽ được xử tiếp vào một ngày khác.
Đêm ba mươi hôm ấy, bà Hằng không nghe thấy một tiếng mê sảng nào phát ra từ
buồng ngủ của khách trọ.
Sáng mồng một Tết, bà Hằng bày hương hoa trên bàn thờ chồng, làm một mâm cơm
cúng tân niên mời bốn người ở trọ tham dự. Họ vui vẻ chúc Tết nhau. Không ai
nhắc đến chuyện ngày hôm qua nữa.
Và cả những đêm kế tiếp sau đó mọi người hình như được uống thuốc ngủ. Họ ngủ
yên lành, không mê sảng nữa. Họ yên lặng đến nỗi bà Hằng phải thắc mắc tự hỏi:
Liệu trước đây họ có thật sự mê sảng không? Hay họ chỉ cần một vòng tay, một
tình thương yêu của người vợ, người con, người mẹ mà họ bật lên những tiếng kêu
đó, để gọi bà vào?
Sau đó hai tuần bà Hằng nhận được giấy của luật sư ông Trần Văn Định, báo tin
ông Định đã bãi nại, xin rút lại đơn khởi tố bà Nguyễn Thị Hằng, nên vụ kiện
được xếp lại hoàn toàn.
Có người biết chuyện, kể lại rằng: Ông Trần Văn Định, sau đó coi như giao luôn
bố cho bà Hằng, không thấy đến và cũng không thấy gọi nữa. Cả bốn người đó cùng
ở với bà Hằng cho đến cuối đời như trong một gia đình: ông Lê Văn Thành, ông
Trần Văn Nam thì đến khi qua đời, mới được con đến nhận xác của cha trong bệnh
viện về chôn cất, ông Nguyễn Anh Tuấn không có thân nhân thì được bà Hằng kêu
gọi bạn bè phụ với bà ma chay. Người trẻ nhất, ông Bùi Văn Lai là người cuối
cùng ở lại, anh săn sóc bà Hằng khi bà già yếu và đã chôn cất bà như một người
mẹ.
Trước khi bà Hằng mất, bà giao ngôi nhà đó cho anh và anh tiếp tục công việc
cho thuê phòng, đặc biệt cho những người già Việt Nam bị con bỏ rơi trên quê người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét