Gần hai tuần
quanh quẩn trong nhà nghỉ dưỡng bệnh, tôi miên mãi suy nghĩ về chuyện
"Sinh lão bệnh tử" của một đời người và một chữ “Tình” ở trên thế
gian nầy! Buồn càng thêm buồn khi hồi ức
quay về những ngày tháng đầu tiên tôi rời gia đình và quê hương.
Sau khi tốt nghiệp
lớp 12, tôi lên Saigon học, nhà trường dùng một khách sạn làm nội trú cho học
sinh. Các ngày đầu bận bịu với sinh hoạt, nội quy và làm quen bạn mới từ Nam ra
Bắc, nay được gom tụ lại trong cùng khóa học. Tôi dường như không có thời gian
để nghĩ đến chuyện nhớ nhà.
Đến ngày thứ bảy
của tuần thứ ba, tôi cùng bảy người bạn đạp xe rảo một vòng Saigon, sau đó ra
chợ Bến Thành dạo quanh chợ trước khi được Thanh Hương (người Mỹ Tho) dẫn cả bọn
đi ăn bún bò Huế. Quán bún bình dân, nằm trong một hẻm nhỏ của thành phố nhưng
đông khách. Mặc dù trời nóng bức nhưng đứa nào cũng vừa húp và hít hà vì hương
vị thơm ngon và cay nồng.
Trở về trường thì trời đã tối, 9 giờ là chúng
tôi tắt đèn, vào giường nằm nhưng vẫn chưa ngủ! Chợt có tiếng hát của Thị Hoa
(người Thủ Đức) từ góc phòng vọng ra , chúng tôi im lặng lắng nghe cô bạn đang
thổn thức hát bài “Lòng Mẹ”. Phòng tối,
giọng hát buồn cộng thêm lời bài ca về tình mẹ gợi đến nỗi nhớ nhà trong từng
ngăn tim của tôi và các cô bạn. Tiếng hát đã dứt, tuy hay nhưng không một ai vỗ
tay để khen thưởng. Có lẽ như tôi, các bạn
quay mặt vô tường, rưng rức khóc vì nhớ mẹ mình!
Sau một tháng,
trường cho chúng tôi nghỉ ngày thứ Sáu để về thăm gia đình, chiều thứ Năm là
chúng tôi chia tay, chỉ có chị Mừng là không về,vì nhà chị ở tận Hưng Yên! Trưa
ngày Chúa Nhật các bạn trở về trường đông đủ, mỗi chúng tôi ngoài việc mang gạo
và đồ ăn (để lén nấu trong phòng) thì mang theo đặc sản của quê mình để chia
nhau cùng ăn.Thanh Hương mang chuối khô Mỹ Tho, Sương mang kẹo dừa Bến Tre, Thị
Hoa và Kim Sa mang nem Thủ Đức, Nguyệt Oanh và Thùy Nhung mang bưởi Biên Hòa,
Liên mang một bao cát đầy trái bơ (avocado) từ Lâm Đồng, riêng tôi thì mang vài
soài cát và soài tượng.
Trong thời gian
này bệnh bao tử của tôi ngày càng nặng, có lẽ vì ăn bo bo nhiều hơn ăn cơm. Các
bạn học thay phiên chăm sóc và nhiều lần đưa tôi đi bệnh viện. Từ những chia sẻ
và lo lắng cho nhau trong những ngày xa gia đình, tình bạn của chúng tôi ngày
thêm thắm thiết, tôi thấy thật ấm lòng!
Học đến giửa năm
thứ hai tôi được chị lên Saigon đón về quê và âm thầm rời Việt Nam.
***
Hành trang trên
mình để đi Rạch giá theo ghe ra khơi là một ít thuốc nhức đầu,thuốc đau bao tử,
thuốc say sóng, dầu cù là, kẹo gừng, bao nhỏ thịt heo chà bông, hai bộ đồ và một
sợi dây chuyền đeo cổ. Buổi sáng, chúng tôi bốn người rời bến xe và được người
một ngườI đàn bà ra đón, bà đưa chúng tôi vào căn nhà lá xụp xệ trong hẻm nhỏ gần
bờ biển. Đến gần chiều, có người khác đến đưa chúng tôi vào một căn nhà khá lớn.
Chúng tôi được họ mời cơm với món thịt kho, canh chua cá nhám chấm với nước mắm
nguyên chất, tôi chưa bao giờ được ăn nước mắm ngon như thế! Trong bửa cơm, ông
bà chủ nhà trò chuyện với chúng tôi rất cởi mở, tôi rất vui và có nhiều ấn
tương tốt cho các người dân miền biển này!
Hơn nửa khuya,
chúng tôi được báo là đến giờ xuống ghe, bà chủ bảo là sẽ cho từng người lần lượt rời nhà, vì để tránh tai
mắt của người trong xóm nên hành lý và nữ trang trong người phải để lại, họ sẽ
cho người mang xuống ghe sau. Nghe lời, tất cả chúng tôi đều để lại đồ của mìn
trừ anh tôi còn giữ lại được sợi dây chuyền trong túi quần.
Người từ ghe nhỏ
lần luợt được đưa ra ghe lớn, già trẻ bé lớn là bốn mươi bảy người, chúng tôi
êm ả ra khơi! Được nửa ngày thì cả tất cả người trong ghe mới biết là không một
ai nhận lại được đồ của mình từ các nhà họ tạm trú trong ngày! Hai ngày lênh
đên trên biến, chúng tôi được phát một vắt cơm và nước lã cho mỗi buổi ăn sáng
và buổi chiều.
Đến chiều ngày
thứ ba, xa xa có một chiếc tàu dầu của Tây Đức, ông tài công lập tức quay hướng
ghe và tiến thẳng về tàu dầu! Thuyền trưởng cho tàu ngừng lại để cho ghe tiến lại
gần tàu được an toàn, ông cho đầu bếp trưởng người Singapore làm thông dịch khi
biết trên ghe có vài người Hoa. Ông giới
thiệu, ông tên là Yan, theo lời thuyền trưởng là nếu máy tàu còn tốt thì họ sẽ
cho thêm dầu để ghe tiếp tục cuộc hành trình, nhưng nếu máy hư thì họ sẽ đưa
người lên tàu và ông sẽ liên lạc với Cao Ủy ở Thailand cho phép chúng tôi vào bờ.
Riêng ông đầu bếp đề nghị (nói nhỏ) với chúng tôi là nên phá máy cho hư để được
ông thuyền trưởng cứu vớt, vì quanh vùng cướp biển đang lộng hành, người trên
tàu không biết sẽ sống chết sẽ ra sao trong các ngày tới!
Nghe lời, ông
tài công khéo léo phá máy trước khi thợ máy trên tàu xuống kiểm soát, sau vài
phút thợ máy xem xét kỹ lưỡng, ông cho biết là ghe không thể tiếp tục chạy được
nữa! Thế rồi, chúng tôi được vớt lên tàu lớn, được cho tắm rửa và ăn uống tử tế!
Sau ba ngày chờ
đợi tin của Cao Ủy LHQ, chúng tôi được chấp nhận cho chuyển vào trại Songkhla –
Thailand! Tôi nhớ mãi Yan, người đầu bếp Singapore đã nấu cho chúng tôi những bửa
cơm ngon và buổi ăn sáng là món cháo cá
hồng bắt được gần dàn khoan. Ngoài ra, ông bảo chúng tôi viết thư thông báo cho
gia đình bên nhà biết tin bình an, khi lên bờ ông sẽ gởi giùm. Cám ơn Yan, cám
ơn thuyền trưởng và các thủy thủ trên tàu đã cho tôi một “Tình người” vô giá!
***
Đến trại tỵ nạn
Songkhla, tôi thấy đông đảo người Việt đứng bên trong rào, xôn xao và nhìn ra
ngoài cửa để tìm người thân hay bạn trong số người chúng tôi. Tuy biết là không
phải là sự chào đón mình từ các đồng hương, nhưng lòng tôi có chút vui vui vì
mình đến nơi bình an và có nhiều người đồng cảnh.
May mắn, em tôi
gặp được anh Thương, bạn học chung trường Đại Học Tài Chánh, anh và vài người bạn
ân cần mời anh em chúng tôi về ở chung lều với các anh vì các anh cũng sắp đi định
cư định. Trước khi theo các anh về lều, chúng tôi gặp được Nga và Hiệp, Nga học
chung trường Trung học với tôi, ba của Nga xưa là một sĩ quan trong trại linh
Công Binh gần nhà. Tuy trước đây học chung trường, nhưng chưa bao giờ Nga và
tôi nói chuyện, bây giờ gặp lại nhau tay bắt mặt mừng! Sau đó Nga cho hai chị
em quần áo lót, một ít đồ dùng và hướng dẫn nhà tắm, nhà vệ sinh trong trại.
Vài ngày sau là vợ chồng Nga rời trại đi Canada.
Trong thời gian
anh em tôi ở chung lều với các anh , chúng tôi thật vui! Hai chị em học làm cá,
thổi lửa và nấu cơm từ anh Trung và anh Tín, các anh chỉ một ít tiếng Thái và
cách xài tiền để đi chợ. Mỗi chiều cơm nước xong, anh Phương hay ngồi trước lều
hát lại các bài nhạc xưa, anh hát hay nhất là bài “Bên Cầu Biên Giới”.
Đêm 30 Tết thật ảm
đạm, nằm nghe bảnh nhạc “Xuân Này Con Không Về” của tiếng hát Duy Khánh được phát ra từ đài phát
thanh của trại. Từng lời nhạc gợi cho
tôi nỗi buồn xa xứ, nỗi nhớ
thương và lo lắng má mình ăn Tết hẩm hiu bên nhà. Tôi bật khóc thành tiếng!
Tuy thời gian nầy
cực khổ nhưng dường như nhiều người trong trại không ai lo nghĩ đến cái ăn, cái
mặc vì có đã sự trợ giúp của Cao Ủy. Ngoài gạo, không cá mòi hộp thì cá biển
cũng lây lất sống tạm qua ngày. Lần lượt anh Thương, Trung, Tín, Phương, Long,
Lan, Đức, Thiện.... cũng rời trại đi định cư ở Mỹ. Mỗi lần đưa tiễn đều là một chầu cà phê tối ở
một trong những quán nhỏ. Bây giờ không
biết các bạn sống ra sao, hy vọng tất cả đều tốt đẹp!
Một tháng sau,
cháu tôi ở Canada nhận được thư do anh tôi nhờ ông Yan gửi trước đây. Cháu lập
tức gởi cho chúng tôi 100 dollars. Mua sắm một ít đồ dùng cá nhân, em mua vải
và khéo tay cắt và may từng mủi kim cho các bộ quần áo của hai chị em. Tiền chi
phí còn lại chút đỉnh, cộng với số tiền bán sợi dây chuyền , anh tôi sang lại một
quầy cà phê nhỏ trong trại để sống lay lất qua ngày chờ ngày đi.
Ba anh em thay
phiên nhau ra quán bán từ sáng cho đến chiều. Tối đến, anh ôm chiếc chiếu ra
quán ngủ để coi chừng đồ, anh không ngại gió biển lạnh khi càng về khuya. Một lần
chúng tôi thấy được cảnh anh cuộn tròn trong chiếu nằm ngủ ngoài trời , hai chị
em thật dau lòng. Bây giờ nghỉ đến thấy thương anh mình nhiều hơn!
***
Vào một buổi
sáng, đang đứng pha cà phê ở quán, bổng dưng tôi bị ngã quỵ, bụng đau như cắt,
hoàn toàn mất hết sức lực! Tôi được anh và vài người quen dìu về lều để nghỉ
ngơi, nhưng bụng càng lúc càng đau, tôi không còn nằm thẳng lưng được nữa! Biết
là bệnh bao tử lúc trước nay trở nặng, em tôi nhờ người quen cùng đưa tôi đến
trạm y tế của trại, sau khi bác sĩ người Pháp khám bệnh, ông lập tức chuyền nước
biển cho tôi để giảm đau và cho thêm một chai để dành chuyền tiếp khi chai kia
hết vào buổi tối , ông bảo chúng tôi chờ đến sáng hôm sau để biết sự quyết định
của Cao Ủy về chi phi cho tôi vào bệnh viện điều trị .
Hơn nửa khuya,
chai nước biển đã cạn, em tôi nhờ bác sĩ trực người Việt chuyền tiếp chai thứ
hai cho tôi, nhưng bị ông từ chối! Nằm thiêm thiếp nghe tiếng em tôi cãi vã với
ông:
- Tui có nghe người thông dịch nói lại là bác
sĩ Pháp có dặn với ông là còn một chai nước biển để dành cho chị tôi dùng khi hết
chai nầy mà!
Ông nói:
- Có nghe lộn không? Đâu có chai nào đâu!
Em gái tức giận
và nói:
- Lúc chiều tui nghe ông nói với người thân
là có chai nước biển và ông kêu người ấy lên trạm để ông chuyền cho.Vậy chai đó
đâu hở bác sĩ?
Dằn co không được,
lại thấy cơn đau của tôi càng tăng, nóng lòng em đem sự tình kể cho anh Nhân là
một người bạn quen đang làm thiện nguyện cho trạm y tế! Cuối cùng, anh lấy chai
nước biển khác để tiếp tục chuyền cho tôi!
Sáng hôm sau,
hoàn tất thủ tục tạm xuất trại, tôi được bác sĩ đưa tôi vào một bệnh viện lớn ở
Songkhla. Gần hai ngày trời nằm mê mang từ cuộc giải phẩu lớn, tôi tỉnh dậy,
nhìn xung quanh không một bóng người thân, toàn thân là dây nhợ! Mơ hồ, nhớ lại
chuyện xảy ra trong các ngày qua, chợt dòng nước mắt buồn tủi chảy dài trên má!
***
Bây giờ, ngồi nhớ
lại câu nói của má trong ngày tiễn đưa trước khi anh chị em tôi bước lên chiếc
xe lôi đạp ọp ẹp để đến bến xe đi Rạch Giá:
- Má không biết quyết định cho con đi là việc
đúng hay là sai?
Tôi không trả lời,
chỉ biết nhìn người mà khóc! Xe lăn bánh xa dần nhưng bóng má vẫn còn đứng bên
kia cầu dõi mắt nhìn theo mà nước mắt của người không ngừng rơi.
Vâng, quyết định
của má khi xưa là đúng, rất đúng má ạ! Bốn cây vàng đã cứu lại mạng sống của
con trong chuyến đi nầy và cho con nhiều bài học về tình người.
Con xin cám ơn
má, cám ơn anh trai và cô em út cùng chia sẻ trong những tháng ngày khổ cực,
cám ơn những người bạn tốt và cám ơn đời cho tôi nếm được những cay đắng, ngọt
bùi.
Yên Dạ Thảo
15/05/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét