Lễ Vu Lan chính thức được bắt nguồn từ một bản
kinh ngắn của Phật giáo Đại Thừa: “Phật Thuyết kinh Vu Lan Bồn” do ngài Trúc
Pháp Hộ dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán
vào đời Tây Tấn (khoảng năm 750-810 sau CN) và được truyền vào Việt Nam không
rõ năm nào! Được xuất phát từ giáo lý nhân sinh của Phật Giáo, mục đích thể
hiện chữ hiếu của con người. Đồng thời, cũng thể hiện tấm lòng vị tha đối với
những linh hồn bơ vơ, không nơi nương tựa.
Chữ “Vu Lan” có nguồn gốc từ chữ Phạn “Ulambana”,
dịch ra chữ Hán là “Giải đảo huyền”. Giải: có nghĩa là gỡ ra khỏi vướng mắc,
cởi trói buộc, giải mê lầm; đảo: ngược, (còn có nghĩa là những hành động điên
đảo, sai lầm); huyền: treo. “Giải đảo huyền” có ý nghĩa sâu xa là giải thoát
khỏi những nỗi phiền não, những dây luyến ái đã từng trói buộc tham sân si.
Lễ Vu Lan còn có tên là “Vu Lan Bồn”. Chữ “bồn” có
nghĩa là chậu, dùng để diễn nghĩa chậu thức ăn dâng cúng. Lễ “Vu Lan” hay “Vu Lan Bồn” có nghĩa là
lễ dâng cúng thức ăn lên Tam bảo để xin chú nguyện cho ông bà, cha mẹ, những
người quá cố trong bảy đời (tức là cửu huyền thất tổ). Truyền thuyết dân gian
cho rằng, khi còn sống ở trần gian, nếu ai đã làm điều gì tội lỗi, thì khi chết
đi sẽ bị đọa vào địa ngục. Thế nhưng, nếu như được sự dâng cúng, chú nguyện, người
đó sẽ được nhờ ân đức Tam bảo, thoát ra khỏi địa ngục, sanh về cõi trời an lành
khác.
Cũng theo truyền thuyết
dân gian, Bồ tát Mục Kiền
Liên tìm mẹ dâng cơm nơi địa ngục vào ngày rằm tháng
bảy. Mẹ của Ngài là bà Thanh
Đề liền chụp ngay bát cơm khi Ngài dâng lên, một tay che không cho người khác
thấy vì sợ bị giật, một tay bốc cơm ăn. (Hình ảnh này, nói lên cái tâm mê muội,
tham lam của con người. Và hình ảnh khi bà đưa tay bốc cơm thì cơm hóa than
hồng, bụng đói mà không ăn được nói lên cảnh giới địa ngục). Với lòng hiếu thảo
của mình, Bồ tát Mục Kiền Liên đã thấu động đến lòng trời, cứu mẹ thoát khỏi cảnh
đọa đày! Thế cho nên, vào ngày rằm tháng bảy hàng năm, người ta tin rằng nếu với lòng từ bi, người ta cúng
vật phẩm cho các vong hồn ấy được ăn uống, sẽ có nhiều vong hồn được ra khỏi địa ngục sau
nhiều ngày bị giam cầm, phải đói khát khổ sở!
Ngày rằm tháng bảy này có tên là ngày “xá tội vong
nhân”. Trong ngày này, việc cúng kiến bao giờ cũng được tổ chức đầu tiên tại
chùa, rồi mới đến tại nhà. Việc cúng kiếng này, phải được tổ chức vào ban ngày
và tránh vào ban đêm, khi mặt trời đã lặn.
Hình thức buổi lễ cúng tại nhà được thể hiện như sau: một mâm cơm cúng tổ tiên trên bàn thờ và một
mâm cơm cúng chúng sinh ở trước sân nhà.
Trên mâm cơm cúng tổ tiên,
người ta bày lên một mâm cỗ mặn, có tiền, vàng, vật dụng dành cho người cõi âm
làm bằng giấy (như quần áo, giày dép…) để mong người cõi âm cũng có được cuộc
sống tiện nghi như khi còn sống trên dương thế.
Trên mâm cơm cúng chúng sinh, lễ vật gồm có quần áo đủ màu sắc, thức
ăn gồm khoai, bắp, chè, kẹo, bánh quế, cháo trắng, tiền, vàng, nước lã, gạo
muối…
Ngày nay, tập tục cúng cô hồn vào ngày xá tội vong nhân vẫn còn tồn
tại trong dân gian, tùy theo khả năng kinh tế của mỗi gia đình. Người khá giả
thì dâng cúng mâm cao cỗ đầy, kém hơn thì mâm cơm thường hoặc cháo trắng, nhưng
trong mâm cúng lúc nào cũng có đủ các loại bánh trái, giấy tiền vàng mã. Đặc
biệt, ở nông thôn miền Tây nước ta, người ta thường bày mâm cúng trên các bè
được kết bằng các thân cây chuối hay bập dừa nước thả trên sông. Theo đó, gia
chủ thắp nhang khấn vái, mời vong hồn các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn,
hà sa ngạ quỷ, thập loại cô hồn về nhận lễ và dùng cây gõ lên gáo dừa. Sau đó,
người ta đốt vàng mã, rải gạo muối rồi dùng sào đẩy bè ra giữa dòng rồi để bè
tự trôi theo dòng nước.
Cũng vào dịp rằm tháng bảy -tức là lễ Vu Lan-, dù nghèo túng đến
đâu, con cháu cũng có một thứ gì đó để bày tỏ tấm lòng. Người ta dâng thức ăn
ngon, biếu quần áo mới cho cha mẹ. Nếu cha mẹ đã khuất, thì làm lễ cúng kiếng gởi
xuống suối vàng. Đây là tục lệ tốt, nét đẹp của văn hóa dân tộc, nên cần được
bảo tồn.
2/8/2014
Hà Nguyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét