Thứ Ba, 17 tháng 2, 2015

Sự Tích Bánh Dầy Bánh Chưng

MỞ ĐẦU:

Cứ mỗi độ Xuân về là mỗi độ hoa đào nở rộ để chào đón Tết Nguyên Đán đầu năm, Năm nay cũng như những năm khác hoa đào vẫn nở để cháo đón Chúa Xuân về vui Tết như xưa.  Người dân Việt Nam chúng ta có tục lệ Cổ truyền từ những thời xa xưa của Cha Ông để lại là cuối năm giáp Tết thì gói Bánh Chưng giã Bánh Dầy để Mừng Tết Đón  Xuân kính cáo Tổ tiên ngày đầu năm mới.


VÀO ĐỀ:

Tập tục ấy xuất phát từ đâu, nguyên cớ nào, và ý nghĩa của hai chiếc Bánh này, có những động lực nào thúc đẩy trong lòng người dân chúng ta,mà đã bao đời mưa gió đổi thay thu tàn đông lụi mà mọi người vẫn còn ghi nhớ mãi mãi không quên, đến nay thì lại càng phổ biến hầu như khắp hoàn cầu, bởi chỗ nào có người dân Việt Nam sinh sống là nơi ấy có Bánh Dầy Bánh Chưng vào dịp đón Xuân đầu năm Âm lịch.  Xin thưa : Vào đời Vua Hùng Vương thứ sáu, thiên hạ thái bình.dân giầu nước mạnh, ngũ cốc phong đăng, mọi người dân ai nấy đều an cư lạc nghiệp, nhà Vua lúc ấy muốn kén chọn một người con nào có tài đức biết yêu nước thương nòi, chăm lo mọi việc cho dân, để truyền ngôi cho, Ngài mới định ra một cách tuyển chọn khá ly kỳ độc đáo, để tránh sự tranh giành ngôi báu cao sang của các người con sau khi được Vua truyền ngôi cho, Ngài bèn ra lệnh cho tất cả mọi người con trai ở trong gia đình đều phải tham dự “Cuộc Thi Làm Bánh Khéo”, để Vua Cha kính Ông Bà Tổ tiên, cùng Vui Xuân Chúc Tết Ngyên Đán đầu Năm Mời, ngày Thi vào đúng lúc Giao thừa, dưới sự Chủ toạ của Vua Cha cùng Bá quan Văn Võ làm giám khảo chấm điểm và định đoạt, ai hội đủ điều kiện trúng giải sẽ được Vua truyền ngôi cho.

Điều kiện Thi Làm Bánh Khéo như sau:
1- Chiếc Bánh phải bao hàm cả Âm Dương Vũ Trụ, và nói lên rõ nét Tứ Tượng vã Ngũ Hành
2- Chiếc Bánh phải bao hàm cả Bốn mùa Tám tiết và  sự trồng cấy hoa mầu Chính, Phụ của nhân dân.
3- Chiếc Bánh phải nói lên được sự bao hàm của phép Tỉnh điền cho mọi người nhìn thấy.
4- Trong Chiếc Bành phải có một bài thuốc đặc biệt của dân gian đã kinh nghiệm trị bệnh.
5- Chiếc Bánh phải làm hoàn toàn bằng những vật liệu thực phẩm cây nhà lá vườn của đất nước Việt Nam
6- Chiếc Bánh phải nói lên được sự yêu nước thương nòi mô tả đựợc bốn chữ Nhân Nghĩa Lễ Trí và Tam Cương Ngũ thường của đạo Khổng phu tử.
Người con nào đạt được những yêu cầu trên sẽ được công nhận tài năng đức độ và tuyên bố trúng giải Thi Bánh, người ấy sẽ được Vua cha truyền ngôi cho, thay Trời trị nước an dân.

Ý THỨC RIÊNG:
Lệnh nhà Vua ban ra người con nào cũng hớn hở ghi danh dự thi trong bầu không khí hoan hỷ trang nghiêm,
Nhưng mỗi người đều có một ý nghĩ riêng, kẻ lên rừng tìm sơn hào, người xuống biển kiếm hải vị,người thì lại đi khắp bốn phương thu mua những của ngon vật lạ đem về làm bánh những mong kết qủa được như ý muốn của Vua Cha.
Trong đám người con ấy có một người tên là Lang Liêu
con của bà thứ phi đã qua đời từ lúc Lang Liêu hãy còn nằm nôi, khi lớn lên Ngài rất hiếu thảo với Cha Mẹ, Mẹ Ngài tuy đã khuất bóng non xanh, mỗi khi nhìn lên bài vị Mẹ Ngài lại bùi ngùi than thở cho số phận hẩm hiu của mình, Ngài thường nói với mọi người trong nhà rằng, thờ Vua không hết lòng là bất trung, thờ cha mẹ không tròn bổn phận làm con là bất hiếu, ăn ở như thế thì con người còn ra thể thống gì nữa, đối với mẹ khi tối đến thí chăng màn quạt muỗi bữa thì đích thân dâng cơm không bữa nào biếng nhác cả, Nay theo lệnh Vua Cha Lang Liêu cũng phải ghi danh tham dự lễ thi bánh
như mọi người con.

NỖI BUỒN RIÊNG
Ngài thầm nghĩ điều kiện thi bánh của Vua ban ra thì chỉ riêng làm bánh đã thấy khó mà chi tiết thì lại càng khó hơn, nên ngày đêm lo âu buồn bã, thường ngày trông lên hình mẹ mà khấn vái cầu nguyên xin mẹ phù hộ cho mong sớm nghĩ ra được một đường lối làm bánh dễ dàng, nhưng thời gian đi nhanh như thoi cửi, sáu bẩy tháng trời chôi qua mà Lang Liêu vẫn chưa nghĩ ra được một ý kiến nào hay, và cũng chưa nghĩ ra làm chiếc bánh như thế nào để đạt yêu cầu, bỗng một đêm Lang Liêu nằm mộng thấy mẹ ngài hiện về nói rằng con là người hiếu thảo trên trung Vua cha dưới hiếu kính cha mẹ, hoà thuận với anh em, lòng hiếu thảo ấy đã lọt đến tai Thượng Đế ở cửu trùng, rồi đây mẹ sẽ chỉ dẫn cho con cách làm bánh để kịp ngày dâng lên Vua Cha dự thí, Lang Liêu nghe nói mừng qúa dạ lên một tiếng thật to, giật mình tỉnh dậy hoá ra một giấc chiêm bao, Lang liêu từ đêm ấy trở đi lòng càng phân vân nghĩ ngợi nửa lo nửa mừng, may ra mẹ sẽ có ý kiến gì hay chỉ bảo, ví chiêm bao mộng mị vẩn vơ, người đời thường nói Đêm Dài Lắm Mộng cũng có thường, biết đâu là sự thật mà đợi chờ!

HỒN MẸ HIỂN LINH

Đang lúc vui buồn luẩn quẩn trong lòng, bỗng ngoài cửa có một ông lão già đầu râu tóc bạc dáng điệu mảnh mai đứng trước cửa xin ăn, Lang liêu liền mang đồ ăn ra cho, vừa nhìn thấy chủ nhà ông Lão già nói, Người đang có việc gì bận tâm mà qúa ưu tư đến nỗi nét mặt hiện ra điều lo lắng vui buồn, thấy ông lão nói đúng tâm trạng của mình bèn nói, chính ta đang bận tâm về việc Thi Làm Bánh Khéo của Vua Cha đặt ra mà hiện ra nét vui buồn đó, Lão ông nói Người có thể cho lão biết được không may ra lão có phương cách giúp người được phần nào chăng, Lang Liêu nghe nói bèn mời ông lão vào trong nhà đem việc Thi bánh ra nói cho ông lão nghe, những điều kiện Thi làm bánh, ông lão nghe xong trầm ngâm xuy tư một hồi lâu rồi bảo Người đem dấy bút ra đây ta chỉ cho, chép lấy rồi thực hiện làm bánh, Lang Liêu nghe ông lão nói thủng thỉnh nửa như đang xuy tư nửa như có ý dè dặt thì trong lòng lại càng bối rối nôn nao, nhưng đã chót nói ra thì chi bằng hãy cứ bình tâm biên chép, biết đâu lại có điểm nào hay chăng, Ông Lão hiểu ý nói Bánh không cần làm nhiều mà chỉ hai chiếc là đủ Lang Liêu nghe nói dạ càng bối rối xuy tư cả một Triều đình to lớn dưới Vua còn có hàng trăm bá quan văn võ lẽ nào chỉ có hai chiếc Bánh mà đạt được yêu cầu hay sao, càng nghĩ càng bối rối tay cầm bút chép run rẩy như bị gió lay, Ông Lão nói chép đi:

BÁNH DẦY

1-  Làm môt chiếc Bánh hình tròn to bằng cái mâm, tượng trưng cho hình Thái Cực tên là Bánh Dương Âm vì nó bao hàm cả Âm Dương và Vũ trụ gọi nôm là Bánh dầy, vì nó dầy hơn các bánh khác.
Sự tác động của bánh Dầy là nếu gặp hơi nóng của lửa là bánh phồng to lên khác thường.
Vật liệu bằng gạo nếp thơm giã kỹ cho gạo trắng nõn rồi chọn lấy những hạt nguyên không gẫy không có hột khác lẫn vào, cân đủ 10 kí, đem vo đãi cho sạch hết bụi cám bám vào gạo, rồi đem ngâm vào nước lạnh thật trong một đêm, sáng mai vớt gạo ra vo lại để cho ráo hết nước đi ,rồi đem hấp chín nhừ thành xôi, cho vào cối giã cho thật nhiễn. dùng một trái trứng gà con so luộc lên lấy lòng đỏ trứng đem nghiền ra với rượu rồi dùng rượu trứng mà coa tay trở bánh thì tay đỡ nóng của hơi xôi bốc lên, mà bánh sẽ lên hương, khi giã được bánh thì đùng lá chuối tươi lau rửa sạch đặt lên môt cái mâm lớn để lót bánh cho khỏi rính xuống mâm, bên ngoài đùng thân cây chuối trẽ ra khoanh tròn to bằng hình cái mâm, rồi lấy Bánh ra đặt vào khuôn ấy, đùng tay thấm rượu trứng mà xoa lên mặt Bánh bánh sẽ nổi mầu bóng loánng như ánh mặt trời toả ra hào quang buổi bình minh, chờ một lát sau Bánh ráo hơi lấy tấm lụa Hà đông phủ lên mâm bánh cho khỏi bụi bay vào, chờ ngày giờ dự thí.chiếc Bánh nói trước mà làm sau.

PHẦN DẪN GIẢI:

Lang Liêu xin Ông Lão chỉ cho những tác dụng của chiếc bánh có những điển nào nói lên được  những điều kiện dự thi không ? 
Ông Lão nói :
Tất cả mọi điều lệ đều nằm gọn trong chiếc Bánh này.  Lang Liêu càng không hiểu, xin chỉ dẫn kỹ cho, Ông lão nói được rồi ta chỉ đây lắng nghe cho kỹ để ngày dự thi sẽ tường tấu Vua Cha :
Chiếc Bánh hình tròn là tương trưng cho Thái Cực mà Thái Cực tức là mặt trời, trong Thái cực bao hàm cả hai khí Âm, Dương, Lưỡng nghi, Tứ tượng, và Ngũ hành, Bốn mùa Tám tiết xoay quanh vòng Ngũ hành sinh khắc mà tạo nên bốn mùa Xuân qua Hạ tới, Thu lụi Đông tàn, với những thời tiết ấm lạnh mưa gió sấm chớp của mỗi chu kỳ, người xưa thường ví: Nếu không có cảnh đông tàn, thì sao có cảnh huy hoàng mùa xuân, chiếc Bánh còn bao hàm cả tám quẻ Bát Quái của Vua Phục Hy, mà ông Thiệu Khang Tiết nói:  Ly Nam Khảm Bắc Thiên Địa trung chính chi giao, Chấn đông Đoài Tây, thời lệnh xuất nhập chi tự, có nghĩa là: Qủe Chấn ở phương Đông Nam là lúc mặt trời mọc, Quẻ Khảm ở Tây Bắc là lúc mặt trời lặn, quẻ Ly ở chính Nam qủe Khảm ở chính Bắc là hai chỗ Trời Đất giao hợp,Tiết Đại hàn là lúc trời đất không giao nên lạnh nhiều hơn nóng, Bánh dầy còn là một phương thuốc bồi dưỡng cho Tỳ Vị của con người hay làm lương khô để dành cũng được, Bánh dầy còn chứa một bài thuốc chữa chứng ho độc đáo mà dân gian đã kinh nghiệm lâu năm là dùng Bánh dầy còn giẻo để chà lông đào trước khi ăn cho khỏi ho vì lông đào làm ngứa phổi mà sinh ra ho, gạo nếp là thứ hoa mầu chính, lá chuối là hoa mầu phụ, chiếc bánh hình tròn chia tứ tuợng là chữ Điền đó là bao hàm phép tỉnh điền, thân chuôi lá chuối lụa hà đông dệt bằng tơ tằm đều là những vật liệu sản phẩm của dân gian, Chiếc Bánh làm xong dâng lên kính cáo Thiên Địa và các vị Thần linh, sau kính ông bà cha mẹ, sau chia cho mọi người là tỏ lòng yêu nước thương nòi, Bánh còn dùng làm lễ để đón Xuân tặng thân nhân bạn hữu là nói lên bốn chữ Nhân Nghĩa Lễ Trí đấy. mỗi độ xuân về tết đến là vợ chồng cha con anh em xúm nhau lại để gói bánh đón xuân thế là thuận vợ thuận chồng, nền tảng từ một gia đình hoà thuận trở lên, trong sách Khổng Mạnh có câu :Tự thân nhi gia nhi quốc nhi Thiên hạ, thứ đệ tương thừa:  nghĩa là Tự sửa mình đến lo việc nhà rồi lo việc nước việc thiên hạ theo thứ tự mà đi lên đấy là Đạo của Khỗng Phu Tử, rõ ràng là đủ cả sáu điều lệ trong chiếc Bánh d0ủ rồi.

BÁNH CHƯNG

2- Chiếc Bánh thư hai: Gói chiếc Bánh thứ hai hình vuông to như một cái khay lớn bự. (Bánh này làm trước vì nhiều thì giờ làm hơn nên gói trước ).
Vật liệu Gao nếp Hương 5 ký vo sạch ngâm một đêm sáng mai vớt ra để cho ráo nước, Thịt heo 2 kí, hột tiêu cay I gam, hành củ 50 gam, đậu canh bõ vỏ hấp chín dã nhiễn 2 kí , muối trắng 3 gam, lá dong rừng tửa sạch lau khô, lạt dang nhuộm đỏ một bó, dùng một cái khuôn gỗ vuông to đặt lá dong vào mà gói ngoài dùng lạt dang mà buộc cho chặt rồi cho vào nồi mà chưng môt đêm hay một ngày là được, bánh vớt ra dùng khăn tay thấm nước lạnh mà lau khô nắn góc lại cho vuông vắn, chỉnh tề, là được, Người xưa ví von chiếc bánh:

Nhà xanh, cùng với đỗ xanh,
Chung quanh trồng hành, giữa thả heo con,
Muối, Tiêu, tán nhiễn, rang ròn,
Dân hai nhăm triệu vẫn còn nhớ rai

Khi chiếc bành đã hình thành thỉ đem bánh đặt vào nồi lớn đổ nước cho ngập bánh mà luộc trong mười tiếng là chín.

PHẦN GIẢI THÍCH

Chiếc Bánh này tên là Phương Bính, gọi nôm là Bánh Chưng vì nó phải đun lâu mới chín nhừ được, Gạo nếp, Thịt heo thuộc âm, hành củ, và Hột tiêu, hai thứ này thuôc Dương như vậy là chiếc Bánh đã bao hàm hai khí Âm Dương, trong Vũ trụ, Hình vuông là một ô trong chữ Tỉnh, đó là bao hàm phép Tỉnh điền. Lá dong, Đậu xanh là những hoa mầu phụ của dân gian, thịt heo là vật nuôi trong nhà, lạt dang và lá dong là vật liêu lấy trong rừng khắp nước nơi nào cũng có.
Bánh chưng hình vuông có bốn góc là Đông Tây Nam Bắc, trục giữa là hành thổ đó là bao hàm cả Ngũ hành, Ngũ hành xoay quanh bốn phương mà tạo ra bốn mùa tám tiết là Xuân Hạ Thu Đông nằm trong 24 tiết khí mỗi tiết 15 ngày tạo thành mưa gió sấm sét ấm lạnh, trong bánh có sẳn một bài thuốc giải tửu độc mà dân gian đã bao đời kinh nghiệm, là ngày xuân qúa chén thì ăn một vài miếng Bánh Chưng là hết say bởi lá dong là vị thuốc giải tửu độc đấy, Ngày Xuân gói Bánh Chưng kính cáo Thiên Địa Thần linh và tổ tiên là có lòng yêu nước nhớ cội nguồn, Bánh chưng đem kính biếu bè bạn là tỏ lòng thương nòi giống Lạc Hồng, thực hiện những chữ Nhân Nghĩa Lễ Trí, trong nhà thụân vợ thuận chồng vui việc nhà nông cha con hòa thuận anh em kính mến thế là tam cương ngũ thương ở đấy, trong sách Khổng tử có câu Tự thân nhi Gia nhi Quốc, nhi Thiên hạ thứ đệ tương thừa, có nghĩa là trước hết là sửa mình lo việc nhà, sau lo việc nước rồi bình thiên hạ thứ bậc mà học lên, thế là nói lên cái đạo Khổng Mạnh đấy.
Lão ông nói hết cho Lang Liêu nghe và chép xong thì cáo từ Lang Liêu cố giữ lại nhưng Lão ông từ chối đứng lên chào mà lui ra Lang Liêu theo tiễn khách ra đến ngoài sân bỗng tai nghe tiếng gió vi vu như có tiếng nói thôi mẹ đi đây lang Liêu quay lại thì Lão ông cũng vụt mất.

PHẦN THỰC HIỆN

Lang Liêu trở vào nhà bắt tay thực hiện xắp xếp những vật liêu làm Bánh sẵn sàng chờ ngày giáp Tết là thực hiện:  Lang Liêu theo lời Ông Lão chỉ dậy bắt tay thưc hiện vật liệu làm Bánh trước, Thực hiện chiếc Bánh Chưng trước vì làm Bánh phải mất thời gian lâu dài giờ hơn chiếc Bánh Dầy, lại phải nấu chưng kỹ tới 10 tiếng đồng hồ, Chiếc Bánh Chưng (Phương Bính) hay là Bánh Âm Dương được thực hiện vào sau lễ tiễn Táo Quân chiều Thiên Ba ngày (28-29 tết) lúc gió đông về hoa đào chớm nở, bánh nấu một đêm cho tới sáng, Chiếc Bánh Dầy ( tên  là Bánh Thiên Can ) hay là Bánh Dương Âm, Thực iễn vào chiều ngày Ba mươi, Lang Kiêu thực hiện xong, hoàn tất mọi thủ tục  hai chiếc Bánh Thi thì cũng đúng vào lác giờ Tuất tức là 9 giờ tối ngày Ba mươi,nên Bánh vẫn còn hơi nóng ấm.

PHẦN DỰ THI:

Vào lúc nửa đêm Ba mươi lúc sắp Giao Thừa giữa năm cũ và năm mới,  đón Tết Nguyên Đán của Nước Việt Nam khởi đầu cuộc Thi Làm Bánh  Khéo .
Ba hồi chiêng trống vang động kinh thành, cửa thành mở rộng mở để các người con đem Bánh vào Cung Đình Dự Thí,
Lúc ấy các người con ai cũng vui mừng hớn hở vói những công trình và kỹ thuật làm Bánh của mình,
Lang Liêu liếc mắt nhìn thấy:

1- Có mâm Bánh tượng hình:      Hồng Lạc Thiệu Cơ,
2- Có mâm Bánh Nhan đề:         Văn Lang Kiến Quốc.
3- Có mâm Bánh hình tượng      Phong cảnh Hồ Động Đình
4- Có mâm Bánh nhan đề:          Long Phụ Tiên Mẫu,
5- Có Mân Bánh đề:                   Nhất bào sinh Bách Tử,
6- Có mâm Bánh đề:                  Hình tượng Núi Tản Viên,
7- Có Mâm Bánh để:                 Đồ hình Vịnh Hạ Long,
8- Có mâm Bánh nhan đề:         Đế Đô Bạch Hạc,
9- Có mâm Bánh đề:                  Thành quách Phong Châu,
10- Có mâm Bánh nhan đề:       Thổ dân vẽ mình
11- Có maâm Bánh tưa đề:       Chữ Đồng Tửa ẩn mình
12- Có mâm Bánh đề tích:        Phù đổng Thiên Vương
13- Có mam Bánh đề:               Mam dân quăng chài.
14- Có mâm Bánh đề:               Nhuộm răng ăn trầu
15- Có mâm Bánh đề:              Trầu cau sính lễ
16- Có mâm Bánh có hình đồ chia ruộng hình chữ Tỉnh
17- Có mâm Bánh nhan đề:      Tiên Dong Du Thuyền
18- Có mâm Bánh nhan đề:      Lạc hầu, Lạc tướng,

Ôi biết bao là cái lạ cái tài cái khéo được đem ra phô bầy dưới hình thức mâm bánh dự thi, không sao tả hết.
Lang Liêu nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, bánh đã nhỏ đã ít lại thiếu cách trưng bầy, nhưng biết làm sao được đây, thôi xũng đành liều cho số phận rủi may,
Đúng giờ Tý giữa lúc Giao thừa loa truyền cuộc Thi Bánh bắt đầu, ai nấy đều hồi hộp lo âu, mắt nhìn đăm đăm vào mâm Bánh chờ đến lượt mình,
Loa truyền đến lượt Lang Liêu đệ trình Bánh thi, Bánh vừa được mở ra trên từ Vua cha dưới đến văn võ bá quan ai cũng ngạc nhiên, sao mâm bánh lại không có trưng bầy hoa lá chim muông và đề tài của mâm Bánh, như mọi người, mà chỉ có hai chiếc bánh một hình vuông và một hình tròn trơ trọi Vua tức thời cho đòi Lang Liêu lên tấu trình về lai lịch bánh và dẫn chứng những điều kiện Vua đã đinh ra.

Lang Liêu đựôc lệnh  liền buớc ra sân rồng qùy tâu :Muôn tâu Phụ Hoàng
Chiếc Bánh hình tròn kia là tượng trưng của hình Thái cực, tên là Âm Dương Bính, gọi nôm là Bánh Dầy, vì nó có chiều cao dầy hơn những bánh khác, bánh này có đủ Sáu điều kiện của Vua Cha đã đặt ra .
              
Phần Giải Thích;

Điều lệ thứ nhất.
Chiếc Bánh phải bao hàm cả âm dương và vũ trụ

Muôn tâu: Hình tròn là tượng hình của Thái cực (Tức là mặt Trời), Khi Thái cực được ông Châu Diễn chia Âm Dương, và Tứ tượng, thì Thái cực bao hàm Thiên can, là
Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Thân Nhâm Qúy.  Khi Thái cực chia ra lưỡng nghi,Tứ tượng, thì nủa phải  là Âm nửa trái là Dương, cho nên gọi tên là Âm Dương Bánh,Tứ tương, là Đông Tây Nam Bắc bốn phương trời,và trung ương, Tứ tượng là Môc Hoả Kim Thủy trung ương là Thổ, thế là chiếc Bánh đã bao hàm cả Âm Dương (Can, Chi) trong Vũ trụ.

2- Điều thứ hai:
Chiếc Bánh phải bao hàm cả bốn mùa tám tiết và sự trồng cấy hoa mầu chính,phụ của nhân dân,

Muôn tâu Phụ Hoàng.
Trong Bánh có Ngũ hành tứ tượng Can & Chi theo lối tương sinh xoay tròn thành ra bốn mùa tám tiết và hai mươi bốn hậu, gió hoà mưa thuận, ứng dụng cho nhà Nông trồng trọt hoa mầu (Phụ) và cấy lúa (Chính) cùng chăn nuôi gia súc trong sách Tứ thư có nói “ Kê Đồn Cẩu Trệ chi súc, bất thất kỳ thời, thất thập giả khả dỉ ý bạch thực nhục” nghĩa là các vật chăn nuôi trong nhà và trồng ngô khoai lúa mạ, nuôi Chó gà trâu dê heo bò cùng trồng cấy không mất mùa thì những người trong nhà bẩy mươi tuổi đều mặc lụa ăn thịt dư giả,

Tám Tiết:
Lấy Bát quái của Phục Hy mà tính thì:
Tiết Đông chí ứng với quẻ Khảm thàng 8, 9, nông lịch,
Tiết Lập Xuân ứng với quẻ Chấn tháng 10 nông lịch,
Tiết Lập Xuân ứng với qủe Khôn tháng 11,12 nông lịch,
Tiết Lập Hạ ứng với quẻ Cấn vào tháng 1 nông lich
Tiệt Hạ chí ứng với quẻ Ly vào tháng 2,3, nông lịch
Tiết Lập Thu ứng với quẻ Đoài tháng 4, nông lịch
Tiết Thu Phân ứng vào quẻ Càn tháng 5, 6 nông lịch
Tiết Tiết Lập Đông ứng vào quẽ Tốn tháng 7 nông lịch
Phân tách một tiết hậu Lập xuân làm điển hình:
5 ngày đầu của tiết - Gió đông thổi làm tan băng giá
5ngày giữa tiết - Cá ngôi lên mặt băng
5 ngày cuối tiết - Chim oanh hót líu lo

Phần Gió Mùa:
Gió Mùa Chính Phong:
Tiết Đông chí gió bắc ( thường gọi là gió heo may, lạnh giá )thổi sang nam (Từ Khảm sang Ly) 45 ngày
Gió Phụ:
Tiết Lập xuân có gió Tây bắc thổi sang Đông nam 45 ngày (Quẻ Chấn sang quẻ Đoài, thánh 10 âm lịch)
Gió Mùa Chính Phong:
Tiết Xuân Phân gió Đông thổi sang Tây 45 ngày ở quẻ
Càn sang quẻ Ly vào giữa tháng 11- 12
Gió Phụ:
Tiết Lập Hạ có gió Đông Nam thổi sang Tây Bắc trong 45 ngày ứng tháng 1 cung Dần (Từ Cấn sang Tồn) tương truyền rằng khổng Minh cầu gió Đông giúp Chu Du ở vào thời tiết này .
Gió Mùa Chính Phong
Tiết Hạ Chí có gió Nam Nóng từ quẻ Ly thổi sang quẻ khãm lạnh trong 45 ngày vào giữa tháng 2, 3 nông lịch)
Gió Phụ :
Tiết Lập Thu, có gió Đông Nam thổi sang Tây Bắc trong 45 ngày (tháng 4-10 quẻ Đoài sang Chấn) (dương cực)
Gió mùa Chính Phong:
Tiết Thu Phân vào khoảng tháng 5-6 thì có gió chính Tây thổi từ tây sang Đông (ấm- nóng) (Qủe Càn sang Khôn).
Gió Phu:
Tiết Lập Đông ứng vào tháng 7 nông lịch có gio Tây Bắc thổi sang Đông Nam trong 45 ngày từ Tốn sang quẻ Cấn, (Nóng ấm)
Những gió mưa này mà theo thứ tự tuần hành đều đặn thì gọi là mưa thuận gió hoà nhân dân an lạc ít bệnh tật ngũ cốc phong đăng người người no ấm thiên hạ tháu bình quốc gia thịnh trị,

Điều Ba (3)
3- Chiếc bánh phải nói lên được sự bao hàm củ phép Tỉnh điền.
Muôn tâu Phụ Vương.
Chiếc Bánh hình tròn lại có có Tứ tượng ở giữa vòng tròn bọc lại  tức là chữ Điền , ai ai cũng đều nhận thức được thế là nói lên sự bao hàm của phép Tỉnh Điền, (+)

Điều Bốn (4)
4- Chiếc Bánh phải có một Bài thuốc trị bệnh có hiệu qủa đã được kinh nghiệm phổ biến khắp dân gian từ lâu đời.
Muôn tâu Phụ Vương.
Trong bánh có chứa một bài thuốc đôc đáo mà dân gian kinh nghiệm đã lâu đời là Bánh Dầy còn giẻo dùng để chà cho hết lông trái đào trước khi ăn để khỏii ho vì lông đào làm cho ngứa cổ mà sinh ra ho bài thuốc ngừa ho độc đáo này đã được phổ biến khắp dân gian từ bao đời ông cha truyền lại đến nay, chứng nghiệm là Hội Bàn đào của Tậy Vương Mẫu trên Đế đình đã dùng Bánh dầy còn giẻo để chà sạch lông đào trước khi quần Tiên thưởng thức. Ngoài phố phường những người bán Đào đều có bán những cặp bánh dầy nhỏ để chà lông đào

5- Điều Năm.
Chiếc Bánh phải làm bắng những vật liệu và thực phẩm cây nhà lá vườn ở trong nước ,

Muôn tâu Phụ Vương:
Bánh Dầy làm bằng Gạo nếp Hương cấy vào mùa tháng Mười hàng năm, bên ngoài Bánh dùng thăn cây chuối tẻ ra làm đai bọc chung quang giữ bánh cho tròn, lá chuối  lót đáy bánh, đều là cây nhà lá vuờn, trong dân gian nhà nào cũng có trồng, lại dùng một trái trứng gà con so luộc chín lấy lòng đỏ trứng hòa với chút rượu để xoa tay trở bánh, nặn bánh, xoa mặt bánh cho đở nóng mà bánh sẽ lên hương, những thực phẩm và vật liệu này toàn dùng cây nhà lá vườn mà hết thẩy dân gian trong nước nơi nào cũng có cả.  Dân miền Nam có câu hát du con ngủ:  À à ơi ! Gió đưa tầu chuối sau hè, Cha ham vợ bé bỏ bè con thơ, Ù ù ơ,……….

6- Điều lệ thứ Sáu (6)
Chiếc Bánh phải nói lên được lòng yêu nước, thương nòi và tôn kình các bậc tiền nhân, cùng với 4 chữ Nhân nghĩa lễ trí và tam cươg ngũ thường của Khổng Mạnh.
 Muôn tâu Phụ vương:
Bánh được làm ra trước là Dự Thi sau để Vua kính tế Trời Đất và các Linh Thần cùng Tổ tiên trong Văn Miếu, khi kính tế xong chia cho mọi ngừoi dùng thử như vậy là Tôn kính các bậc Tiền nhân cùng yêu nước thương nòi, đó là Nhân Nghĩa, Lễ, Trí có đủ, Nơi đồng quê chồng cầy vợ cấy con tát nước be bờ, trong lối xóm đến mùa cấy cấy người ta thường đổi công nhau có khi bè bạn thân quyến cũng giúp nhau để xuống đồng cho đúng với thời tiết của mùa cấy gặt mới có gạo làm Bánh Dầy này, và các thứ bánh khác, thế là nổi lên ý nghĩa tam cương ngũ thường, với lòng yêu nước thương nòi.


Phần Giải Thích chiếc Bành  thứ hai


Muôn tâu Phụ vương:
Chiếc Bánh hình vuông này là tượng hình của Đồ Hình Địa chi có 12 ô vuông, gọi là Phương Bính hay Bánh Chưng, vật liệu gồm có Lá dong Gạo nếp Thịt heo Đậu xanh, Hành hoa, và muối, hột tiêu, dùng một cái ô vuông bằng gỗ làm khuôn rồi đặt lá dong vào, gao nếp vo sạch để cho ráo nước rồi đổ vào khuôn trải đậu xanh cho đều đặt thịt heo và hành hoa vào giữa rồi rắc muối tiêu lên trên lại đổ thêm một lần gạo nữa rồi hgói lại ngoài dùng lạt dang nhuộm đỏ mà buộc mỗi bên hai lạt Hình như chữ tỉnh, buôc xong nhấc bánh ra khỏi khuôn nắn lại cho mịn rồi xếp vào nồi đổ nước cho ngập bánh mà đun một đêm hay một ngày là chín.
Bánh được xếp vào nồi đồng to (Kim), đổ đầy nước lạnh cho ngập bánh (Thủy), lại dùng ba cục đất lớn bác làm bếp, (Thổ) dùng củi khô để đun (Mộc) dùng lửa (Hỏa) để nấu chín bánh, đó là sử dụng Ngũ hành để nấu Bánh khác gì Thái thượng Lão Quân dùng lò Bát Quái của Phục Hy nấu thuốc trường sinh.

Phân Tách
Muôn tâu Phụ Hoàng

Điều lệ thứ Nhất (1):
Chiếc Bánh phải bao hàm cả Âm Dương cà Vũ Trụ
Chiếc Bánh hình vuông lạt buộc hình chữ Tỉnh, tượng hình của Địa chi, bao hàm cả, Tiên Thiên Hậu Thiên đồ, bánh này gồm đủ Âm Dương và Vũ trụ.  Gạo nếp, Thịt heo, Đậu xanh thuộc Âm, Hành hoa, Muối Tiêu sọ thuộc Dương, Tượng hình Địa Chi là Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, Đem Thiên Can là Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý, Can Chi hợp lại thành ra  Năm tháng, ngày, giờ. (Năm Tý, Tháng Tý, Giờ Tý… Năm Sửu tháng Sửu Ngày Sửu Giờ Sửu …..) Bốn mùa ở cả trong can chi, Trong sách có câu :  Thiên Khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu Nhân sinh ư Dần, Trời mở Hội từ Tý, Đất mở ra từ Sửu, Người sinh ra từ Dần,
Trong Bánh có chứa cả Ngũ vận(Dương) Lục khí (Âm) âm dương này được phân chia ra Chủ Vận và Khách vận, Chủ Khí và Khách khí, Chủ vận thì Giáp Ất thuôc Mộc Bính Đinh thuộc Hoả……..Khách vận thì Giáp Kỷ hoá Thổ, Ất Canh Kim, Chủ khí thì Đại hàn Mộc vận thủy hành sơ, Thanh minh tiền tam Hỏa vận cư…………Khách khí, Tý Ngọ Thiếu Âm Quân Hỏa Thiên, (coi sáu tháng đầu năm) Dương Minh Táo Kim ưng tại Tuyền (coi sáu tháng cuối năm) năm nào khách trên chủ thì hòa bình chủ trên khách là nghịch thế là bánh bao hàm cả Âm Dương Vũ Trụ,

Điều lệ thứ Hai (2):
Chiếc Bánh phải bao hàm đủ ý nghĩa bốn mùa tám tiết và sự trồng cấy hoa mầu chính và phụ, của nhân dân.
Muôn Tâu
Trong Bánh đã có năm tháng ngày giờ có bốn mùa tám tiết và 24 hậu như sau:  Bốn Mùa,
Đầu mùa xuân là tháng Giêng(1) đầu mùa Hạ là tháng Tư (4) đầu mùa Thu là Tháng Bẩy, đầu mùa Đông là tháng Mười (10)
Tám tiết là: Lập Xuân - Xuân phân, Lập Hạ - Hạ chí,
Lập Thu - Thu phân,       Lập Đông- Đông chí.

Hai mươi bốn Hậu khí như sau:
Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ, Lập Hạ, Tiểu Mãn, Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử, Lập thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, Hàn lộ, Sương giáng, Lập đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết ,Đông chí,
Tiểu hàn, Đại hàn. Nằm cả trong đồ hình Địa chi này.  Nhân dân theo mùa tiết đó mà trồng cấy hoa mầu chính như lúa nếp, lúa tẻ, ngô khoai, đậu mè…  Ngoài những việc cầy cấy trồng hoa mầu ra, dân gian còn dựa theo thời tiết mà nuôi các gia súc trong nhà như trâu bò gà heo chó dê, lấy thịt làm thức ăn hàng ngày.

Đem Bát Quái đồ của Phục Hy mà đặt vào Địa chi thì qủe Càn ở cung Hợi, quẻ Khảm ở cung Tý, quẻ Cấn ở cung Dần, quẻ Chấn ở cung Mão, quẻ Tốn ở cung Tị,
quẻ Ly ở cung Ngọ, quẻ Khôn cở cung Thân, quẻ Đoài ở cung Dậu, ông Thiệu Khang Tiết nói: Ly Nam Khảm Bắc, thiên địa trung chính chi giao, Chấn đông Đoài Tây
thời lệnh xuất nhập chi tự nghĩa là quẻ Ly ở Nam quẻ Khảm ở Bắc là nơi trời đất giao hợp, quẻ Chấn ở Đông là lúc mặt trời mọc (Sáng), quẻ Đoài ở Tây là lúc mặt trời lặn (Tối) bốn mùa tám tiết thay đổi ở hai chỗ này.  Bát quái còn ứng với thời tiết mưa gió sấm sét như sau:
Gió chính cung:
Hàng năm lấy quẻ khảm làm tiết Đông chí, thời tiết này có Gió Bắc thổi sang chính Nam trong một chu kỳ 45 ngày (quẻ Khảm thổi sang quẻ Ly) vào tháng 8 và 9, N.L.
Gió phụ:
Quẻ Chấn ứng vào tiết Lập Xuân lúc này gió từ quẻ Chấn thổi sang quẻ Đoài 45 ngày, vào tháng 10
Gió Chính Cung :
Tiết Xuân phân gió từ quẻ Khôn thổi sang quẻ Càn thời gian 45 ngày  vào tháng 11-12 nông lịch.
Gió Phụ:
Tiết Lập Hạ gió Đông nam thổi sang Tây Bắc trong 45 ngày từ qủe Cấn sang quẻ Tốn vào tháng Giêng nông lịch
Gió Chính cung
Thời tiết tháng 1-3 có gió Chính Nam thổi từ quẻ Ly sang quẽ Khãm trong 45 ngày
Gió Phụ:
Thời tiết tháng 4 nông lịch có gió Đông nam thổi sang Tây bắc thời gian 45 ngày từ quẻ Đoài sang Chấn
Gió Chính cung :
Thời tiết thàng 5 và 6 có gió chính tây thởi sang chính Đông thời gian 45 ngày từ quẻ Khôn sang quẻ Đoài
Gió Phụ :
Thời tiết tháng bẩy gúi tây bắc thỗi sang  Đông Nam trong 45 ngày quẻ tốn sang quẻ Cấn,
Nói tóm lại tám thứ gió là Gió la đông tây Nam Bắc và Đông nam tạy nam Đông bắc Tây bắc, gío này mà thuận hành thì nhân dân ít đau ốm bệnh tật súc vật sinh nở nhiều hoa trái thóc gạo nhiều nhân dân no ấm thiên hạ thái bình muôn phương an lạc,

Điều lệ thứ Ba (3):
Chiếc bánh phải nói lên được sự bao hàm của phép Tỉnh Điền;                  Muôn tâu
Chiếc Bánh gói hình vuông, ngoài dùng 4 sợi lạt giang nhuộm đỏ buộc mỗi chiều hai sợi thành ra chữ Tỉnh, thế là bao hàm cả chữ Tỉnh và chữ Điền mà mọi người đều dễ nhìn thấy rõ (Bốn chiếc lạt buộc Bánh chập lại thành hai thì là chữ thập ở trong hình vuông bánh là chữ Điền Không chập lại là chữ Tỉnh ).

Điều lệ thứ Bốn (4):
Chiếc Bánh phải bao hàm một bài thuốc trị bệnh độc đáo của dân gian đã từng kinh nghiệm.
Muôn tâu
Bánh dầy còn là một bài thuốc ngừa chứng Ho độc đáo mà dân gian đã bao đời kinh trị, là dùng Bánh Dầy còn giẻo để chà hết lông trái đào trước khi ăn cho khỏi ho, vì lông đào làm cho ngứa cổ mà sinh ho,phương thuốc trị ho này dân gian đã bao đời kinh nghiêm truyền lại đến nay, người bán đào là có bán cả Bánh dầy còn giẻo, để lau chùi cho đào sạch lông và phấn. Khi xưa hội nghị Bàn đào của Bà Tây Vương Mẫu ở trên Đế đình đã dùng Bánh Dầy còn giẻo để lau lông đào trước khi quần Tiên thưởng thức.

Điều lệ thứ Năm (5):
Chiếc Bánh phải làm hoàn toàn bằng vật liệu thực phẩm cây nhà lá vườn, của đất nước Việt Nam,

Muôn tâu
(Phương Bính= Chưng) Bánh này gói bằng gạo nếp hương, gặt vào tháng Mười Nông lịch, giữa bánh có thịt heo, đậu xanh hành hoa và mối tiêu ngoài dùng bốn lá
dong lạt dang rừng mà buộc lại cho chặt, rồi xếp vào nồi to đổ nước cho ngập bánh mà luộc một ngày là chín
Gạo nếp, Thịt heo, đậu xanh thuộc âm, hành hoa muối tiêu thuôc dương,như thế là chiếc bánh đã bao hàm cả âm dương, trong lòng đất có hoả diệm sơn thì trong lòng bánh cũng cò hành hoa tiêu sọ là hai thứ dương phục trong âm như thế là bao hàm cã vũ trụ và không gian, những thực phẩm và vật liêu làm chiếc bánh này hoàn toàn bằng hoa mầu chính phụ và cây nhà lá vườn của nhân dân, khắp trong nước nơi nào cũng có cả.

Điều lệ thứ Sáu (6):
Chiếc Bánh phải nói lên được sự yêu nước thương nòi, tôn trọng các bậc tiền nhân, và luôn luôn giữ vững bốn chữ Nhân Nghĩa Lễ Trí, và Tam cương Ngũ thường của đạo Khổng Mạnh.ai trúng giải sẽ được truyền ngôi báu cao sang để thay trời trị nước an dân
Muôn tâu Phụ Vương:
Chiếc Bánh vuông này trong lòng bánh có nhân bằng đậu vàng, ngoài dùng lạt dang nhộm dỏ để buộc, đó là tượng trưng cho Máu Đỏ Da Vàng, tỏ lòng yêu nước thương nòi, Bánh thi xong dâng lên Kính tế Trời Đất Thần Linh và Tổ Tiên như vậy là tôn kính các bậc tiền nhân, Bánh còn làm qùa biếu tặng cho thân quyến bạn bè xa gần thế là nhân nghĩa lễ trí, trong gia đình cha con chồng vợ anh en hoà thuận chăm lo việc trồng cấy thì hoa mầu được tăng trưởng thu hoạch nhiều, thực hiện câu dân dĩ thực vi tiên. quốc dĩ dân vi bản, nghĩa là Nước lấy dân làm gốc, dân no cơm ấm áo là vui, trong sách Khổng tử có nói tự thân.  nhi gia nhi quốc, nhi thiên hạ, thứ đệ tương thừa, nghĩa là tự mình phải biết lo cho mình, lo cho gia đình cha mẹ vợ con mình, sau đo mới lo đến việc nước, và việc thiên hạ từng bước từng bậc mà lên thế là thực hiện Đạo Khổng Mạnh ở trong bánh.  Xin hết.

Nhà Vua cùng bá quan văn võ nghe Lang Liêu tấu trình.  Cặp Bánh Âm Dương xong nhà Vua phán Lang Liêu đệ bản tấu trình lên để ban Giám khảo cuộc Thi xét duyệt, Lang Liêu tức thì trình diện Thánh, Sau một khắc thì nhà Vua và Quần thần cùng Ban Giám khảo đồng lọat ra tuyên bố Lang Liêu trúng giải Thi Bánh Khéo, những tràng pháo tay lẫn tiếng reo hò vui mừng vang đông cả kinh thành, cùng lúc ấy thì tiếng chuông trống chùa đình khắp trong kinh thành báo hiệu năm mới đã về, mọi người đều hân hoan đón chào năm mới, sau một phút đón Xuân về Vua bèn sai thị thần dâng Bánh trúng giải lên bàn thờ để Vua Kính tế Trời Đất Thần Linh và các bậc Tiền Vương trong Văn Miếu.  Bánh kính tế xong Vua truyền đem cắt ra để mọi người cùng nếm thử, ai cũng khen ngon và khéo Vua bèn truyền lệnh cho dân gian từ đây về sau nên làm bánh này để đón mừng năm mới và kính cáo Tổ tiên, từ đấy dân gian thành tục lệ ngày Tết là giã bánh dầy và gói bánh chưng đón xuân.  Sau đó Vua truyền cho Bộ Lễ chọn ngày lành tháng tốt thực thi lời cam kết trong điều lệ thi Bánh cho Lang Liêu.


Để kết thúc Sự tích Bánh Dầy Bánh Chưng ,Viên Ngoại cảm tác như sau:

                     Tết mà thiếu cặp Bánh Chưng
                     Là quên nòi giống con Rồng cháu Tiên
                     Khắp Trung Nam Bắc ba miền
                     Dân hai nhăm triệu còn truyền đến nay
                     Ăn quả thì phải yêu cây
                     Uống nước thì phải nhớ đây là nguồn
                     Ngoài trời gió giật mưa tuôn
                     Tết về, vẫn giữ y nguyên Bánh Dầy.

PHIẾM LUẬN:
Tại sao Bánh chưng ngày Tết ăn lại ngon hơn những ngày thường, Xin thưa Bánh Chưng phải có gió Đông nam, hoa đào nở rộ, Hoá công về, thì ăn mới ngon năm nào Hoá công tới trễ, hay qúa sớm, thì bánh chưng ngày tết ăn thường không ngon, ngoài chợ bán không mấy người mua. 
Tại sao Bánh chưng khi vớt ra đem rửa nước lạnh mà nước không ngấm vào Bánh.  Theo truyền thuyết thì xưa kia ngày đầu năn kinh thành có giặc nhà vua sai cất giấu lương thực bánh Chưng lúc ấy đem quăng xuống ao để dấu, khi giặc lui rồi dân gian trở về tìm lại lương thực đã cất dấu, bánh Chưng vớt lên thì lạ thay bánh ngâm đã mấy ngày mà nước không thấm vào Bánh, thấy có sự lạ sau này dân gian nấu Bánh khi vớt ra đem rửa nước lạnh phải chăng cũng là ghi nhớ lại tích cũ ngày xưa đó chăng.

Mùa Hạ tháng 12 ngày mồng 7 -  năm 2010
Tháng 11 năm Canh Dần mồng 2 tại nước Úc
Viên Ngọai Thái Hanh - sưu tầm & Biên soạn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét