Các Phần Đã Đăng :
NHÀ THỤC
蜀 氏
(257-207 tr. Tây-lịch)
-
-
- 1. Gốc-tích nhà Thục
- 2. Nước Âu-lạc
- 3. Nhà Tần đánh Bách-Việt
- 4. Nhà Thục mất nước
-
1. GỐC-TÍCH NHÀ THỤC. Nhà Thục chép trong sử nước ta không phải là
nước Thục bên Tàu, vì rằng cứ theo sử nước Tàu thì đời bấy giờ đất
Ba-thục 巴 蜀 (Tứ-xuyên) đã thuộc về nhà Tần 秦 cai-trị rồi, thì còn có vua
nào nữa. Vả, sử lại chép rằng khi Thục-vương Phán 蜀 王 泮 lấy được nước
Văn-lang thì đổi quốc hiệu là Âu-lạc 甌 駱, tức là nước Âu-lạc gồm cả nước
Thục và nước Văn-lang. Song xét trong lịch-sử không thấy đâu nói đất
Ba-thục thuộc về Âu-lạc. Huống chi lấy địa-lý mà xét thì từ đất Ba-thục
(Tứ-xuyên) sang đến Văn-lang (Bắc-Việt) cách bao nhiêu đường đất và có
bao nhiêu núi sông ngăn-trở, làm thế nào mà quân nhà Thục sang lấy nước
Văn-Lang dễ-dàng như vậy? Sử cũ lại có chỗ chép rằng An-dương-vương họ
là Thục 蜀 tên là Phán 泮. Như vậy chắc hẳn Thục tức là một họ nào độc-lập
ở gần nước Văn-lang, chứ không phải là Thục bên Tàu. Sách « Khâm-định Việt-sử » cũng bàn như thế.
2. NƯỚC ÂU-LẠC. Sử chép rằng Thục-vương 蜀 王 hỏi con gái của
Hùng-vương 雄 王 thứ 18, là Mị-nương 媚 娘 không được, trong bụng lấy làm
tức giận, dặn con cháu ngày sau
đánh báo-thù lấy nước Văn-lang. Hùng-vương bấy giờ cậy mình có binh
cường tướng dũng, bỏ trễ việc nước, chỉ lấy rượu chè làm vui thú. Người
cháu Thục-vương tên là Phán 泮 biết tình-thế ấy, mới đem quân sang đánh
lấy nước Văn-lang. Hùng-vương thua chạy, nhảy xuống giếng mà tự-tử.
Năm giáp-thìn (275 tr. Tây-lịch), Thục-vương dẹp yên mọi nơi rồi,
xưng là An-dương-vương 安 陽 王, cải quốc-hiệu là Âu-lạc 甌 駱, đóng đô ở
Phong-khê 封 溪 (nay thuộc huyện Đông-anh, tỉnh Phúc-an). Hai năm sau là
năm bính-ngọ (255 tr. Tây-lịch), An-dương-vương xây Loa-thành 螺 城. Thành
ấy cao và từ ngoài vào thì xoáy trôn-ốc, cho nên mới gọi là Loa-thành.
Hiện nay còn dấu-tích ở làng Cổ-loa, huyện Đông-anh, tỉnh Phúc-an.
3. NHÀ TẦN ĐÁNH BÁCH-VIỆT. Khi An-dương-vương làm vua nước Âu-lạc ở
bên này, thì ở bên Tàu vua Thỉ-hoàng nhà Tần 秦 始 皇 đã nhất-thống
thiên-hạ. Đến năm đinh-hợi (214 tr. Tây-lịch) Thỉ-hoàng sai tướng là Đồ
Thư 屠 雎 đem quân đi đánh lấy đất Bách-Việt 百 越 (vào quãng tỉnh Hồ-nam,
Quảng-đông và Quảng-tây bây giờ). An-dương-vương cũng xin thần-phục nhà
Tần. Nhà Tần mới chia đất Bách-Việt và đất Âu-lạc ra làm ba quận, gọi
là: Nam-hải 南 海 (Quảng-đông), Quế-lâm 桂 林 (Quảng-tây) và Tượng quận 象 郡
(Bắc-Việt).
Người bản-xứ ở đất Bách-Việt không chịu để người Tàu cai-trị, trốn
vào rừng ở. Được ít lâu quân của Đồ Thư, vốn là người ở phương bắc,
không chịu được thủy-thổ, phải bệnh rất nhiều. Bấy giờ người Bách-Việt
thừa thế nổi lên giết được Đồ Thư.
4. NHÀ THỤC MẤT NƯỚC. Chẳng được bao lâu thì nhà Tần suy, nước Tàu có
nhiều giặc-giã, ở quận Nam-hải có quan úy là Nhâm Ngao 壬 嚣 thấy có
cơ-hội, muốn mưu đánh lấy Âu-lạc để lập một nước tự-chủ ở phương nam.
Nhưng công-việc chưa thành, thì Nhâm Ngao mất. Khi sắp mất, Nhâm Ngao giao binh-quyền lại cho Triệu Đà 趙 佗 để thay mình làm quan úy 尉 quận Nam-hải.
Năm quí-tị (208 tr. Tây-lịch) là năm thứ 50 đời vua An dương-vương.
Triệu Đà đem quân sang đánh lấy nước Âu-lạc, lập ra nước Nam-việt 南 越 [1].
Tục truyền rằng khi An dương-vương xây Loa-thành, có những yêu-quái
quấy-nhiễu, xây mãi không được. An-dương-vương mới lập đàn lên cầu-khấn,
có thần Kim-qui hiện lên bày phép cho vua trừ những yêu-quái đi, bấy
giờ mới xây được thành. Thần Kim-qui lại cho An-dương-vương một cái móng
chân, để làm cái lẫy-nỏ. Lúc nào có giặc thì đem cái nỏ ấy ra bắn một
phát, giặc chết hàng vạn người.
Cũng nhờ có cái nỏ ấy cho nên Triệu Đà đánh không được
An-dương-vương. Triệu Đà dùng kế, cho con là Trọng Thỉ 仲 始 sang lấy Mị
Châu 媚 洙 là con gái An-dương-vương, giả kết nghĩa hòa thân để do thám
tình thực.
Trọng Thỉ lấy được Mị Châu rồi, hỏi dò vợ rằng: « Bên Âu-lạc có tài
gì mà không ai đánh được? » Mị Châu nói chuyện cái nỏ, và lấy cho chồng
xem. Trọng Thỉ bèn lấy cái móng của Kim-qui đi, làm cái lẫy giả thay
vào, rồi định về báo tin cho cha biết. Khi sắp ra về, Trọng Thỉ hỏi Mị
Châu rằng: « Tôi về, mà nhỡ có giặc-giã đánh-đuổi, thì rồi tôi biết đâu
mà tìm? » — Mị Châu nói rằng: « Thiếp có áo lông ngỗng, hễ khi thiếp có
chạy về đâu, thiếp sẽ lấy lông ấy mà rắc ra ở dọc đường thì rồi sẽ
biết ».
Trọng Thỉ về kể lại với Triệu Đà tình đầu mọi sự, Triệu Đà bèn khởi
binh sang đánh Âu-lạc. An-dương-vương cậy có cái nỏ, không phòng-bị gì
cả, đến khi quân giặc đến gần chân thành mới đem nỏ ra bắn, thì không
thấy hiệu-nghiệm nữa. An-dương-vương mới đem Mị Châu lên ngựa mà chạy về
phía nam.
Chạy đến núi Mộ-dạ 墓 夜 山 (thuộc huyện Đông-thành, tỉnh Nghệ-an) gần bờ
bể, vua thấy giặc đuổi kíp quá, mới khấn Kim-qui lên cứu, Kim-quy lên
nói rằng: « Giặc ngồi sau lưng nhà vua đấy! » An-dương-vương tức giận
quá, rút gươm ra chém Mị Châu đi, rồi nhảy xuống bể mà tự tận[2].
Trọng Thỉ theo dấu lông ngỗng của vợ rắc, đem binh đuổi đến núi
Mộ-dạ, thấy xác vợ chết nằm đó, thương-xót vô cùng, vội-vàng đem về
cấp-táng, xong rồi, nhảy xuống cái giếng ở trong Loa-thành mà tự-tử.
Nay ở làng Cổ-loa trước đền thờ An-dương-vương có cái giếng tục
truyền là Trọng Thỉ chết ở giếng ấy. Tục lại truyền rằng Mị-Châu bị giết
rồi, vì nỗi tình thực mà phải thác oan, cho nên máu nàng ấy chảy xuống
bể, những con trai ăn phải hóa ra có ngọc trân-châu. Hễ ai lấy được ngọc
ấy đem về rửa vào nước cái giếng ở trong Loa-thành là chỗ Trọng Thỉ đã
tự-tử, thì ngọc ấy trong và đẹp thêm ra.
Chú thích cuối trang
- ▲ Xin đừng lầm nước Nam-việt ngày xưa với Nam-Việt của nước Việt-nam hiện nay.
- ▲ Nay ở trên núi Mộ-dạ, gần xã Cao-ái, huyện Đông-thành, tỉnh Nghệ-an, có đền thờ An-dương-vương. Ở đấy có nhiều cây-cối và có nhiều chim công, cho nên tục gọi là đền Công hay Cuông.
Hết Chương II
longhovinhlong.blogspot.com
Huỳnh Hữu Đức sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét