Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014

Đèn Kéo Quân

      Tôi đi sau một người đàn bà gánh hàng rong. Vai bà oằn xuống. Khi bà đổi vai, tôi nhìn thấy qua cổ áo hở làn da bầm tím. Trong tù cải tạo, tôi quen nhìn những vết thương trên thân thể mình và thân thể bạn tù, nhưng chưa bao giờ nhìn một vết bầm trên vai một người đàn bà. Hình như bà còn trẻ. Và có thể đẹp nữa. Và yếu đuối. Tôi cũng đang vác một cần xé soài cát, và bỗng thấy vai nặng hơn. Tôi phân vân, nửa muốn vượt qua bà đi cho nhanh lên bắc, để nghỉ, nửa ngại ngùng vì cái cảm giác phải bước qua một người đồng hành bị thương. Tôi để cho một vài người từ sau chen lên trước. Họ vượt qua tôi và vượt qua người đàn bà. Nhiều người vượt qua tôi rồi khựng lại sau người đàn bà có cái gánh cồng kềnh. Xe cộ rầm rập lên phà. Đoàn người chen chúc lên xuống. Trong khi chân bước đi, tôi để cho đầu óc nghỉ ngơi trong cơn bập bềnh của nắng trộn lổn ngổn với gió sông, và nhịp hổn hển của cả dòng người lam lũ xung quanh. Rồi người đàn bà vai bầm biến đi lúc nào tôi không để ý. 
      Tôi leo lên tầng trên, kiếm được một chỗ đặt cần xé và một chỗ ngồi trên băng. Khi nhìn xuống tầng dưới phía bên kia, gần cầu thang, tôi lại thấy người đàn bà. Bộ đồ đen. Đúng rồi. Mầu đen lúc này khiến tôi liên tưởng tới một người xưa kia chuyên mặc đồ đen – Lan Ngọc.


* * * 
Không biết ai khéo nghĩ ra cái biệt danh ‘Tiểu Thư’, nhưng thiên hạ ‘bắt’ liền và chẳng bao lâu cả thành phố gọi như thế. Có người gọi với giọng hài hước, có người với giọng ngưỡng mộ, nhưng mọi người đều thừa nhận nàng đẹp siêu phàm. Nước da trắng hồng như ngọc. Người ta đồn là cha mẹ nàng không cho con đụng ngón tay vào một vật gì ngoài đôi đũa và cái bút viết. Nhà thuốc Phước Lộc Đường lớn nhất Miền Tây và giầu nhất tỉnh. Dân trong tỉnh đồn cha mẹ nàng không để cho một hạt bụi bám vào chân con. Riêng tôi, tôi chưa thấy một vật nào trên thế gian đẹp bằng bàn tay Lan Ngọc khi cầm bút. Lan Ngọc thường tới hỏi bài anh chàng dạy Việt văn trọ chung nhà với tôi. Khi ra về, có lần nàng để quên một bài thơ lãng mạn, mà do đó anh chàng dạy Việt văn cho rằng cô nữ sinh có tình ý với mình.
Lan Ngọc trổ mã và vượt hẳn lên giữa đám con gái trong trường ngay từ năm học đệ tứ, đúng vào lớp tôi dạy môn thể dục. Nữ sinh thời đó mê không quân, sinh viên y khoa v.v. Có cô nào để ý giáo sư thì phải là giáo sư Việt văn, giáo sư triết miệng trơn như cháo chảy; chắc không có cô nào điên mà để ý ông thầy vai u thịt bắp, tối ngày cầm còi thổi reng réc như tôi. Tôi luôn tự nhắc cho mình biết thân phận, không mơ mộng tới Tiểu Thư của cả thành phố, cho dù đó là học trò ngoan của tôi, và dù trong giờ thể dục, cô bé nhìn tôi có vẻ tha thiết. Những khi cần chỉ vẽ, điều chỉnh động tác tập luyện, tôi cũng tránh đụng vào người Lan Ngọc.
Tôi chỉ còn chút oai phong vào ngày thi thể dục, một môn thi bắt buộc học sinh phải đủ điểm để được đi thi trung học phổ thông. Ba món đầu Lan Ngọc đậu cả. Nhảy cao được 105 cm. Con gái khỏi phải ném tạ, tôi lấy phấn vẽ mười cái vòng tròn, thí sinh đứng cách mười mét, thảy banh quần vợt, mỗi trái trúng vào vòng tròn được hai điểm. Lan Ngọc thảy trúng hết mười trái. Tôi mừng hết sức. Đến môn chạy 100 mét, Lan Ngọc chạy lẹt bẹt như con vịt, hết 25 giây, tôi ghi 20 giây, để em đủ điểm đậu. Hai mươi năm qua, mà tôi còn nhớ những điều vụn vặn này, lạ thật.
Tới môn leo giây, tôi lo lắm. Tôi đứng gần để phòng bất trắc. Lan Ngọc leo một cách khó nhọc được ba mét thì đuối sức, ngưng lại.
Tôi vội nói:
“Thôi, được rồi, xuống đi!”
Lan Ngọc tuột xuống như một trái mít rụng.
Tôi đỡ được em, nhưng hai lòng bàn tay em đã trầy trụa, đầy máu. Tôi bồng em vào phòng cứu thương. Đó – đôi mắt đắc ý của Lan Ngọc khi em nằm vạ trong cánh tay tôi. Khi cầm bàn tay mềm mại để băng bó, tim tôi như bị trầy xước.
“Ráng giữ cho mau lành, để còn... cầm bút, nghe không?” tôi dặn.
“Thầy biết tại sao con ném banh trúng mười không?”
“Giỏi thôi?”
“Không phải. Tại con hình dung đó là trái tim một người...”
Tôi làm bộ không hiểu, hỏi sang chuyện khác:
“Thế sao leo giây thì té cái bụp như trái mít ướt?”
“Để có người đỡ.”

Lan Ngọc đang học lớp đệ nhị thì tôi nhận được giấy gọi động viên. Tan học, nàng làm như tình cờ gặp tôi trên sân trường. Chúng tôi đi song song giữa hai hàng cây phượng vĩ.
“Bao giờ thầy đi?”
“Đầu tháng.”
“Con muốn tới dọn đồ đạc cho thầy.”
Anh chàng dạy Việt văn đã dọn sang nhà khác. Tôi chỉ còn ở một mình. Nếu Tiểu Thư tới nhà tôi thì hôm sau cả thành phố sẽ biết. Nhưng tôi không thể từ chối được. Không có can đảm từ chối. Vả lại, tôi cũng sắp giã từ thành phố này. Kệ, tới đâu thì tới!
“Đồ đạc tôi có gì đâu? Nhưng em cứ tới chơi.”
Rồi tôi thêm cho tự nhiên:
“Cũng có mấy em khác tới từ giã.... Làm như tiễn Kinh Kha.”
Nàng cố đi chậm lại khi nhìn thấy xe hơi nhà đang chờ trước cổng trường. Một trái banh bay tới gần trúng Lan Ngọc, tôi bắt và quăng trả lại trước vẻ biết ơn của thằng học trò ham chơi.
“Chiều mai có chị nào tới không?”
“Thầy không biết.”
“Con tới.”
Hôm sau, mưa như trút nước suốt buổi chiều. Tôi nghĩ Lan Ngọc tới lúc này thì thật là... ướt át. Và nàng tới thật. Nàng không mặc áo dài trắng đồng phục nữ sinh, mà mặc chiếc áo dài lụa đen, tương phản với nước da trắng trong như bông hoa lan. Một tay nàng che dù, một tay cầm một cái bao lớn.

“Có cho con vô không?” nàng mỉm cười.
“Mời vào... Lan Ngọc vào đi.”
Tôi vội vàng đỡ cây dù và tránh sang một bên cho nàng vào.
Bỗng chốc ngôi vị bị đảo ngược: tôi trở thành khờ khạo trước cô học trò khoan thai đài các. Lan Ngọc thản nhiên ngồi vào ghế sa-lông tôi mới biết mình quên mời. Tôi khớp trước nhan sắc của Lan Ngọc. Nàng lấy trong bao ra một cỗ đèn kéo quân đặt trên bàn. Tôi ngạc nhiên không hiểu cái đèn cũ này sẽ đóng vai trò gì trong buổi giã từ.
“Cây đèn này....? Tính đốt để tiễn tôi đi... kéo quân đây, chắc?” tôi hỏi.
“Thầy còn nhớ cây đèn này không?” Lan Ngọc hỏi lại.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế còn lại, ngắm cây đèn phất giấy trắng đã ngả màu ngà, lốm đốm nước mưa. Tôi đã làm nhiều cái đèn tương tự như cái này, cũng có thể là cái đèn Lan Ngọc mua ở chợ, nên không thể nhớ nó có liên hệ gì tới tôi. Tôi đưa tay quệt một giọt nước mưa còn bám vào một khung tre. Dựa vào ký ức mơ hồ và nhất là vào chính câu hỏi của Lan Ngọc, tôi trả lời cầu âu:
“Cây đèn của lớp đệ tứ hồi đó.”
“Thầy... giỏi quá!” Lan Ngọc phê.
“Sao em còn giữ được?”
“Những gì... như thế này... con giữ hết.”
Tôi lặng người một lúc lâu mới lên tiếng:
“Em mang đèn tới đây làm chi?”
Lan Ngọc làm vẻ hào hứng:
“Con nhờ thầy sửa lại. Nó không quay nữa.”
Bỗng cái đèn trở thành cần thiết để chân tay tôi khỏi thừa thãi, và để chúng tôi tránh chạm vào một cái gì nghiêm trọng hơn, mong manh hơn lớp giấy phất đèn. Tôi uốn lại các nan quạt bằng kẽm, và điều chỉnh vị trí trục quay một chút, xong, tôi thắp nến. Tôi lấy ngón tay trỏ xoay nhẹ các nan quạt, cái cốt bắt đầu quay đều, và quay mãi. Các đốm nước phai dần.
Trong lúc nhìn những bóng hình nhân cỡi ngựa đuổi nhau trong cái vòng tròn vô tận, Lan Ngọc kể cho tôi nghe cha mẹ đã ép gả cho một người con trai tên Huỳnh.
“Huỳnh nào? Huỳnh công tử?”
“Dạ, chính anh ta.”
Huỳnh là con trai duy nhất của tiệm vàng Huỳnh Kim, nổi tiếng không những trong tỉnh, mà khắp miền Tây. Tiểu Thư với Công Tử xứng đôi vừa lứa quá rồi, tôi nghĩ, với một thoáng cay đắng. Nhưng liền sau là nỗi tội nghiệp cho Lan Ngọc. Người thanh niên tối ngày lái xe mui trần đi tìm gái đẹp đó không thể là một người chồng tốt được. Nếu vì môn đăng hộ đối thì thà Lan Ngọc lấy chàng bác sĩ trẻ con ông Tầu chủ vựa gạo còn hơn. 
“Tôi tưởng Lan Ngọc với ông bác sĩ ?” Tôi hỏi.
“Con nghe hai bên nói hai đứa kỵ tuổi sao đó.”
Tôi đứng dậy, nói một cách vụng về:
“Để tôi đi mua nước đá cho em uống nhé?”
“Dạ, khỏi cần. Thầy ở lại nói chuyện với con. Những phút này... không bao giờ tìm lại được nữa.”
Mưa ngưng bặt như để lắng nghe, rồi lại sầm sập đổ xuống.
Tôi ngồi xuống. Nhũn ra như một người đô vật vừa thua trận. Lan Ngọc sắp vĩnh viễn xa tôi. Tôi biết trong hoàn cảnh này, mình không làm gì được. Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ chỉ có thể làm cho hoàn cảnh rắc rối thêm, Lan Ngọc khổ thêm. Chúng tôi im lặng nhìn nhau, tôi thấy hình ảnh Lan Ngọc nhạt nhòa. Quệt mắt, tôi thấy mặt nàng cũng giàn dụa nước mắt.
Nến cháy hết, quân đèn ngưng lại. Lan Ngọc lấy trong bóp ra, tặng tôi vài bảng tên thêu tay thật đẹp. Những ngón tay nhỏ thuôn dài nuột nà vuốt trên tên tôi, miếng vải oằn lên. Nàng nói: 
“Để thầy khâu vào đồng phục khi vào quân trường.”
Chúng tôi nói chuyện vu vơ cho tới khi mưa tạnh. Lan Ngọc nói:
“Con phải về. Thầy đi bình an.”
“Lan Ngọc ở lại hạnh phúc.”
Nàng nhìn tôi trách móc, rồi đứng lên. Tôi cầm cây đèn đưa cho nàng, nói tiếp:
“Còn cỗ đèn này!”
“Thầy giữ giùm con. Con muốn nó quay hoài, mà con thì không biết giữ gìn, và con không tiện giữ nữa.”
Tôi ôm cỗ đèn trước ngực, nói:
“Tôi sẽ giữ nó cẩn thận. Mãi mãi.”
Lan Ngọc cố tươi nét mặt. Nhưng rồi lại bậm môi. Nước mắt dàn dụa, nàng định nói một câu gì, nhưng nghẹn lời. Nàng nặng nề xuống lầu, như bị áp giải đi.
Nàng đến, nói để dọn đồ đạc cho tôi, mà ra đi chỉ làm cho lòng tôi ngổn ngang.

* * *

Tôi vào quân trường Thủ Đức, đem gởi cỗ đèn kéo quân ở nhà người quen. Ra trường, đi đơn vị tôi mang theo cỗ đèn; lấy vợ, dọn nhà, đi đâu tôi cũng na cỗ đèn theo.
Duyên, vợ tôi, đề nghị:
“Cái đèn rách đó, anh tha về nhà mới làm gì? Vất đi cho rồi!”
“Đâu có được. Để sau này... con nó chơi chứ!?”
Tôi cảm thấy hổ thẹn vì một lời nói dối.
Nhưng Duyên hài lòng. Duyên luôn luôn lạc quan về cuộc đời như thế.
Duyên đón tôi trước cửa, âu yếm:
“Anh mệt không? ”
“Có gì mà mệt, em?”
“Khuân vác mà không mệt sao? ”
Tôi cởi áo đưa cho vợ. Duyên cầm chiếc áo lính dầy cộm đẫm mồ hôi áp vào mặt.
“Xấp nhỏ đâu, em?”
“Dạ, chúng đi chơi đâu đó. Chắc chúng cũng sắp về... Anh uống miếng nước dừa Xiêm này rồi đi tắm ngay nhé. Em pha nước xong rồi.”
 Người phu khuân vác kiêm cựu tù nhân tôi đã lấy lại một vài tật xấu tiểu tư sản như tắm nước nóng buổi chiều và uống cà-phê buổi sáng. Ngoài ra, khoai sắn thế nào cũng xong.
Đang tắm, tôi nghe tiếng trẻ con chí chóe ở nhà trên. Ba đứa con, gái lớn mười tuổi, trai thứ nhì tám tuổi, trai út năm tuổi, không đứa nào tôi phải nuôi cả. Hai đứa đầu ông bà ngoại nuôi. Đứa thứ ba, sanh ra lúc tôi ở trong tù. Bây giờ cả ba đứa, không học hành gì cả, ra ngoài đường kiếm ăn như chó hoang. Tôi cấm chúng ăn mày, con lớn nói ba yên chí, chúng con ‘cứu nhơn độ thế’, được đền ơn, đủ ăn. Sau tôi biết việc ‘cứu nhơn độ thế’ của chúng là xách đồ giùm khách qua lại. Hai đứa lớn phụ mang đồ cho khách qua bắc. Chúng ‘ăn khách’ không phải vì sức mạnh mà vì ‘thân chủ’ muốn trả công thế nào cũng được, đồng bạc, cái bánh, trái chuối, trái quít. Cái gì nặng quá sức, hai đứa lớn hè nhau khiêng. Con lớn tay lại giắt theo thằng bé năm tuổi, ai thấy cũng tin tưởng, biết rằng chúng không phải loại ăn cắp vặt, chuyên giựt hành lý. Thế là bá tánh nuôi ba đứa nhỏ hai bữa, sáng và trưa. Bữa chiều trông vào Duyên; nàng đi bắt ốc bán, lấy tiền đong gạo. Được ít lâu, tôi sợ con cái sẽ trở thành bọn đá cá lăn dưa, bèn bắt ở nhà hết. Nhưng tôi chẳng kiếm được việc làm nào khác ngoài việc như ba đứa trẻ đã nghĩ ra, tức là đi khuân vác.
Tắm xong, tôi hỏi:
“Tụi con làm chi mà ồn ào quá vậy?”
“Thằng Hưng đá con đó, ba!” đứa con gái tên Tư Ngọc tố.
“Ai biểu chị Ngọc lấy hết tiền mua kẹp tóc?” thằng Hưng tự bào chữa.
Tôi bồng thằng út lên lòng, mắt nhìn con bé đen đúa, khẳng khiu, chẳng ngọc ngà tí nào. Tất cả là lỗi ở tôi bất lực, không lo được cho các con. Tôi phân giải:
“Ba sẽ đền tiền cho Hưng. Để cho chị Ngọc giữ cái kẹp tóc. Tóc nó dài rồi.”
“Thôi, tụi con cám ơn ba, rồi đi ăn cơm.”
Duyên hài lòng về sự phân xử gọn gàng của tôi.
Bé Ngọc nhảy lên, moi cái kẹp bằng nhựa đỏ kẹp vào mớ tóc đen dầy của nó. Trong bữa cơm có tép cháy và canh bầu, tôi nói với vợ:
“Từ ngày mai, em đừng đi bắt ốc nữa, ở nhà dạy các con học.”

*

Hôm sau tôi lại thấy người đàn bà áo đen. Lúc bỏ một cần xé trái cây cho người chủ trước một quán cơm bình dân, tôi thoáng thấy bà áo đen ngồi bên kia đường bên gốc cây me, một cây me con èo uột, tàn cây chưa đủ che bóng mát. Bà ngồi trước một nồi nước gì đó, khói bốc nghi ngút. Giấc mơ đêm qua thấy Lan Ngọc trong chiều mưa, mặc áo dài đen, khiến tôi có cảm giác gần gũi với người đàn bà này.Vác được chừng năm sáu chuyến, tôi đói bụng, tìm tới bà xem có cái gì ăn được không. Tới gần, tôi biết là bà bán bún riêu. Và khi bà ngước mặt lên, thì tôi buột miệng:
“Lan Ngọc!” tôi gọi như trong mơ.
Người đàn bà ngước lên, nheo mắt ngơ ngác:
“Ăn bún hả?”
Giọng nói cũng quen thuộc. Nhưng tôi đâm nghi ngờ. Hay là mình nhìn lầm? Và tôi có thể lầm lắm, bởi vì trước mắt tôi là một người đàn bà tiều tụy xơ xác, tình cờ có vài nét tương tự Lan Ngọc. Tôi ngồi xuống một trong hai hòn gạch đặt làm ghế, chăm chú nhìn bà. Càng nhìn,thị giác tôi càng mơ hồ, ký ức và hiện thực chập chùng. Nhưng trực giác bảo tôi đây là Lan Ngọc. Vầng trán nhăn, mái tóc điểm nhiều sợi bạc phiền muộn, da mặt xạm nắng, đôi môi khô, nhưng đúng là Lan Ngọc.
“Lan Ngọc! Em nhận ra tôi không? Hải đây...” tôi tha thiết.
Người đàn bà trố mắt nhìn, rồi reo lên mừng rỡ:
“Thầy Hải? Con nhận không ra.... thầy.”
“Nhưng tôi nhận ra em. Em... vẫn thế.”
Ngọc co người,bắt chéo tay trên ngực, như dáng người đi trong gió bão. Tôi cảm thấy như đang đứng giữa cơn bão lốc.
“Bán cho tô bún!” Một thằng bé vừa tới, nói. Nó ngồi xuống hòn gạch còn lại.
Lan Ngọc tay run rẩy gắp bún, rau muống chẻ, rau thơm, bỏ vào cái tô chiết yêu, rồi chan nước riêu cua lên. Tôi nhận ra một vài dáng điệu sang trọng trong những cử chỉ tầm thường của Lan Ngọc. Ông khách tí hon làm thinh, ăn xoẹt một cái hết nhẵn tô bún, chùi mép, trả tiền. Tôi nghĩ tới ba đứa con tôi, biết đâu cũng đã có lần chúng sà vào đây ăn bún.
“Thầy... Thầy đói bụng không, con làm một tô cho thầy ăn, nghe?”
“Khỏi, tôi không đói...”
“Thầy đi đâu mà tới đây?”
“Đừng xưng thầy nữa... Gia đình tôi trốn kinh tế mới, về đây được hai tháng nay... Còn em? Gia đình em ra sao?”
Lan Ngọc nhìn lên tàn cây thưa. Cái cằm nhỏ tròn hất lên, gợi một nét xa xưa, trẻ trung. Rồi nàng lại quay ngang như tránh nhìn vào một vật vô hình trước mặt. Tôi biết câu hỏi của tôi vừa chạm vào một vết thương, tôi muốn nói một câu để khỏa lấp. Nhưng đôi mắt nàng đã từ từ mọng nước. Nàng gục mặt vào hai đầu gối. Tôi thấy vai nàng rung. Đoàn xe do chuyến bắc vừa đổ xuống ầm ì chạy qua, tung bụi mù mịt cả vùng Mỹ Thuận.

* * *

Mỗi ngày tôi ra Bắc khuôn vác độ nhật, và giúp Lan Ngọc gánh hàng bún riêu sang bên kia sông, những buổi chiều cùng ngồi trên chuyến bắc cuối cùng trong hoàng hôn đỏ lênh láng, trở về bên này sông, tôi nghe Lan Ngọc kể về cuộc đời nàng bằng một giọng nhẫn nhục. Câu chuyện thiếu mạch lạc, như những mảnh thủy tinh vỡ.
“Gia đình nhà chồng con bị tịch biên toàn bộ tài sản. Huỳnh chỉ tiếc chiếc xe ăn chơi của anh ta. Tối ngày thất thểu ngoài đường, thấy xe hơi chạy qua là xông ra đòi trả xe cho tao. Con sai hai đứa con lớn đi theo coi chừng ba chúng nó. Nhưng cái hôm đó, anh thấy chiếc xe bộ đội bỏ mui, bèn ra cản trước mũi, đòi xe. Tên bộ đội bóp còi đuổi đi, anh ta làm dữ, đập rầm rầm trên đầu xe, tên bộ đội quát ‘đồ phản động’ và phất tay cho tài xế cứ việc cho xe chạy. Anh Huỳnh bị cán, đưa vào nhà thương thì chết, chết về tội cản trở cách mạng. Con bồng con bé út đi ra chợ, bán quần áo cũ. Toàn quần áo của con và của mấy đứa con. áo dài đen con tiếc lắm, cũng phải bán, chỉ giữ dăm cái.”
Lan Ngọc đỏ mặt. Tôi hỏi:
“Còn các bác?”
“Ông bà già chồng con tự vẫn chết. Bên gia đình con, tại mấy tấm hình ba con chụp chung với các ông tướng, ông tá treo trong phòng mạch hồi đó, cũng bị bắt điều tra.”
“Sao không đem cất hình đi?”
“Cất, nói làm gì. Còn đốt đi nữa. Nhưng nhà con, khách ra vào hà rầm. Có người nhớ được chuyện cũ đem làm quà với công an. Nhà thuốc bị trưng dụng làm trạm y tế nhân dân kiêm nhà thuốc dân tộc. Ba con được cách mạng khoan hồng tạm bổ ngồi cắt thuốc, lương 59 đồng một tháng. Thuốc thì toàn cây cỏ khô, làm gì có thuốc thiệt. Ông bà đem con và xấp nhỏ xuống Rạch Giá vượt biên, bị gạt và bị bắt, mất nhà mất hết vốn liếng còn lại. Hiện ông bà ở chung với con để coi các cháu. Nhưng má con bị tê liệt nằm một chỗ, còn ba con đi bán thuốc tễ ngoài bến xe.”
Tôi thấm thía với hai chữ đổi đời thiên hạ thường nói ngày nay. Tôi cũng kể cho Ngọc nghe cuộc đổi đời của gia đình tôi. Tôi kể hết, trừ chi tiết tôi cho là rất quan trọng thì giấu - tôi yêu vợ tôi.
Thế mà tôi lại hỏi:
“Em có được hạnh phúc không?”
“Không, thầy ạ.”
“Đừng gọi thầy nữa.”
Lan Ngọc nhìn tôi, ánh mắt tha thiết. Rồi lắc đầu thở dài tiếp:
“Về nhà chồng, con mới biết một điều là chồng không hề yêu con.”
“Anh ta lấy ai chẳng được, tại sao phải đi lấy người mình không thương?”
“Anh ta lấy con chỉ để chứng tỏ muốn lấy ai cũng được.”
Cái ý tò mò muốn biết một con người trăng hoa như Huỳnh có bao giờ yêu không, khiến tôi đi quá xa:
“Huỳnh có yêu ai không? Ví dụ một mối tình đầu?” 
“Anh ta thương một cô gái quê.”
“Tại sao lại có chuyện lạ như thế?”
“Cô ta là bạn thiếu thời của Huỳnh, thời gia đình Huỳnh còn hàn vi ở bên Chợ Lách. Cái chuyện tại sao cha mẹ Huỳnh trở thành chủ bảy tám cái tiệm vàng Huỳnh Kim, là một huyền thoại, chắc ngày xưa thầy cũng có nghe rồi, con không cần kể. Nhưng chắc thầy chưa nghe tin về cô gái tự tử sau đám cưới của Huỳnh với con?”
“Các cô uống thuốc chuột như cơm bữa. Tôi không nhớ.”
“Dạ, cô gái này uống thuốc độc tự vận chết. Huỳnh cuồng điên lên. Anh ta tuyên bố thẳng đó là tình đầu của anh. Mỗi ngày anh ta ra thăm mộ người yêu, cắm hoa, thắp nhang. Rồi lái xe đi uống rượu, trác táng. Hành vi trác táng công khai của Huỳnh là một sỉ nhục cho gia đình hai bên, nhất là gia đình con. Ba má con khuyên lơn, anh ta không nghe, lại còn nói hỗn. Ba má con phải nhờ ông bà Huỳnh Kim can thiệp. Cha mẹ Huỳnh rầy con, hắn không ăn chơi ở trong vùng nữa, mà lên thẳng Sài Gòn. Đồng thời hắn trút nỗi giận hờn lên con. Mỗi cú đấm, cú đá, hắn chửi thề và rủa ‘Tiểu Thư nè!’ Mặt mày con lúc nào cũng bầm tím. Con không dám ra khỏi nhà, không dám đi chợ, không dám về thăm cha mẹ, lánh mặt cả kẻ ăn người ở trong nhà.”
“Ông bà già chồng để như thế sao?” tôi hỏi.
“Họ không ưa con. Họ gọi con là Con Ma Trắng không con, mặc dù con bị hư thai hai lần vì bị chồng đánh đập. Cuối cùng con cũng sinh được một đứa con gái. Rồi hai đứa. Hai đứa con gái là hai cái phao trong những ngày đọa đày của con. Thêm vào đó, hy vọng có một đứa con trai khiến cho những trận đòn có phần thưa bớt, và nhẹ tay hơn. Huỳnh cũng thôi, không đi thắp nhang và cắm hoa trước mộ người yêu nữa. Nhưng anh ta vẫn ngang nhiên để hình người yêu trên bàn thờ trong nhà.”
“Thật là bất công!” tôi xen vào.

Tôi vẫn gánh hàng cho Lan Ngọc lên xuống phà. Tôi đã thoáng thấy làn da trên vai Lan Ngọc trắng ngần, không còn bầm tím. Chúng tôi vẫn kể cho nhau về quá khứ vui buồn trên chuyến phà chót trong hoàng hôn trên sông rộng. Má nàng đỏ ửng và giọng ấp úng:
“Không hẳn là bất công đâu, thầy... Trong lòng con cũng có nơi riêng...”

* * *

Tôi về nhà, như thường lệ, vợ con mừng đón từ ngoài ngõ. Duyên ôm chiếc áo mồ hôi đưa lên mũi. Các con níu kéo khoe bài vở. Duyên phải nhắc tôi đi tắm, thoa nắn những nơi nàng cho là tôi bị nhức mỏi.
Trong bữa chiều có cơm trắng và bầu luộc chấm nước mắm trứng vịt luộc, Duyên khoe một tin mừng lớn:
“Ông y tá kiêm bác sĩ của xã vừa vượt biên, người ta đang cuống lên tìm một y tá thay thế.”
“Em muốn xin chỗ đó, chắc?” tôi hỏi, nhưng nghĩ rằng trong tình trạng cư trú bất hợp pháp của chúng tôi, Duyên không dám nghĩ tới việc đó.
Nhưng Duyên đã hí hửng:
“Dạ, em lên thẳng huyện xin việc. Gặp nữ hộ sinh quốc gia ngụy một trăm phần trăm, họ mừng quá, chỉ hỏi chứng chỉ nghề nghiệp, quên hỏi chứng chỉ cư trú.”
“Nhưng đào đâu ra chứng chỉ cư trú để nạp hồ sơ lương bổng? Mình chường mặt ra, chẳng bao lâu lộ tẩy cái hộ khẩu giả.”
“Em đã mua được hộ khẩu thiệt luôn. Em còn xin luôn cho các con đi học,” Duyên hãnh diện.
“Tiền đâu ra vậy?” tôi ngạc nhiên.
“Em bán đôi bông.”
Đó là đôi bông tôi tặng Duyên dịp đám hỏi.
Suốt đêm đó, tôi thao thức không ngủ, một bên vì câu nói “Trong lòng em cũng có nơi riêng”, một bên vì Duyên, đang nằm bên cạnh.

Tôi không phải là tình đầu của Duyên. Nhưng từ ngày gặp nhau, nàng yêu tôi tha thiết, chung thủy. Như thế chẳng đủ hay sao? Bốn năm sáu tháng tôi bị tù, nàng một mình nuôi ba con. Nhịn ăn nhịn uống để tiếp tế thuốc men và thực phẩm cho tôi trong tù. Mỗi lần đi thăm nuôi, nàng lặn lội đi bộ mười cây số, gặp những đoạn đường bùn lầy tới đầu gối, đi một bước kêu cầu Chúa một bước, vai cũng chảy máu, chân cũng trầy trượt, không một ai gánh đỡ. Muốn có thuốc men cho tôi nàng phải giả đau đủ thứ bệnh. Tôi ghẻ nàng khai nàng bị ghẻ lác. Tôi sốt rét nàng khai mình bị sốt rét. Tôi kiết lị nàng khai mình bị kiết lị.
“Đúng là một xuơng một thịt.”
Mẹ tôi trêu như thế. Mẹ tôi cũng đã kể lại sự chống trả cao thượng của nàng như thế nào với sự cám dỗ của những người đàn ông khác trong lúc tôi vắng mặt. Khi tôi được phóng thích, và bị đuổi đi kinh tế mới, nàng theo tôi cuốc đất tới phồng tay mà cứ cười tươi, chỉ vì sợ tôi buồn. Tôi trốn về vùng đất xa lạ này, nàng đi theo, mò ốc nuôi con. Lúc nào cũng tươi cười.
Bên kia là Lan Ngọc, người đã cho tôi những rung cảm đầu tiên của con tim. Tuổi trẻ và cái quá khứ tươi đẹp của tôi ngưng tụ trong đôi mắt Ngọc. Chỉ ở trong đôi mắt đó, tôi mới còn là tôi. Nhưng nghĩ lại, khi xưa Ngọc chua xót bao nhiêu khi chồng tôn thờ một người tình đã chết, thì ngày nay vợ tôi sẽ thất vọng biết bao khi tôi còn dây dưa với một người tình cũ. Ngọc đang đau khổ, cần nâng đỡ, vâng, nhưng quả tình tôi không có trách nhiệm gì về những bất hạnh nàng phải chịu trong quá khứ. Đó là cái phần số của một người đàn bà đẹp, quá đẹp.
Có điều cái phần số đã trở nên rắc rối do cuộc tái ngộ tình cờ này. Từ khi gặp lại tôi, Lan Ngọc đã phần nào được phục hồi tinh thần và thể chất; tôi không yên lòng nếu sau này nàng lại thất vọng và lại khóc một mình.
Duyên cựa mình, ôm vai tôi, nói mớ:
“Vai anh nổi chai như vai trâu!”
Lúc sau, nàng vẫn còn trong giấc mơ đó:
 “Không được! Đại úy huấn luyện viên mà đi đội thúng cho mấy mẹ bạn hàng!”
Gần về sáng tôi chợp mắt được một lát thì lại nghe Duyên nói mớ nữa:
“Con mẹ kia! Không được bắt anh ấy vác cái cần xé dơ dáy đó!”

Tôi thức dậy trễ, chắc Duyên đã đi nhận việc và các con đi học.
Tôi ra gian trước, thấy trên bàn một ly cà-phê đen và tờ lịch với nét chữ của Duyên:
“Anh uống cà-phê, rồi ở nhà phất lại cái đèn kéo quân cho con. Hôm nay là trung thu đó! Anh hứa gì cách đây mười hai năm?”
Tôi uể oải ra chuồng gà lấy cái đèn kéo quân. Giấy rã rời. Quân xiêu vẹo.
“Con này tự vẫn,” tôi nói.
“Con này bị xe cán.”
“Con này trầy trượt.”
“Con này lao đao.”
“Con này tơi tả”
 Tôi cầm cái đèn rách đi quần quần trong vườn như một quân đèn bị lửa hơ trong ruột.

Tâm Thanh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét