(Hồi ký của một người tên Ông)
Mùa hè năm đó. Con gái Ông đang du học xa nhà. "Hành trình trăm năm" của Bà và Ông còn cả vạn dặm. Bà khuyên Ông dừng chân một thời gian cho đường đi thêm dài, cho cuộc sống chậm lại.
Để bà ở lại Wallaceburg, Ông làm một chuyến độc hành đến một nơi không định đến.
Thị trấn bên đàng Fort Erie với những căn nhà cổ kính loang lổ, nhạt mầu, vắt ngang con sông thơ mộng chảy vào Niagara Falls. Bên này là xứ lá phong, bên kia là xứ cờ hoa, cách nhau cây cầu biên giới.
Nơi đây Ông gặp một tay lãng tử như duyên tiền định. Một người không giống như mọi người. Rách rưới nhưng sạch sẽ, tóc tai râu ria bù xù nhưng khuôn mặt hiền lành, dễ lấy cảm tình người đối diện.
Sau vài ba câu chuyện vô thưởng vô phạt, anh bạn mới, tên Belciu, nói liên miên về hội họa của xứ mình, xứ Romania thân yêu. Như được gãi ngứa, đúng với sở thích tiềm ẩn từ thuở nhỏ, Ông nghe chăm chú tựa học trò tiểu học. Họ thân với nhau dễ dàng và rủ về share phòng khách sạn.
Mưa lâu ướt đất. Ngày ngày người bạn thuyết giảng đủ chuyện về hội họa, đã làm sống lại trong Ông niềm đam mê tưởng rằng đã chết. Ông bắt đầu xây ước mơ họa sĩ từ đó.
Belciu có cách kể chuyện duyên dáng. Kể về hội họa khởi đầu từ thời cổ đại qua thời phục hưng rồi đến cận đại. Từ hình vẽ ngựa trong hang động Lascaux xưa hàng chục ngàn năm, các kiệt tác Bysantine...qua các danh họa của các trường phái tượng trưng, ấn tượng...đến các sáng tác độc đáo của các trường phái lập thể, dada, siêu hiện thực...
Belciu quả thực thông thái. Được biết anh ta là một tiến sĩ văn chương, và cũng gốc tị nạn như Ông.
Belciu đang phụ giúp các nhà thờ tu sửa những bức tranh cẩn trên kính. Công việc nhàn hạ, thu nhập thấp, không đủ trang trải các nhu cầu tối thiểu nhưng tự ái không xin trợ cấp xã hội. Ông thông cảm nên phải đi làm kiếm tiền, bảo bọc cho cả hai có điều kiện dung dăng tiếu ngạo giang hồ.
Cho đến một ngày..., Belciu vui mừng báo tin cô fiancée ở trại tị nạn Austria đã được đi định cư. Anh phải qua Mỹ xum họp. Người bạn tri kỷ và là người thầy thông thái ấy vội vàng từ giã Ông, để lại trong Ông bao nhiêu điều dang dở.
Tuy nhiên Belciu đã kịp viết một lá thư giới thiệu Ông với bà giáo sư Mỹ Thuật của hệ thống đại học Suny NY tại thành phố Buffalo lân cận.
Trở lại với môi trường học tập, lão sinh viên thỏa chí. Say mê màu sắc, sống bụi với một nhóm nghệ sĩ đủ mọi quốc tịch. Tất cả thuê chung một studio để vẽ và vẽ.
Bao nhiêu tháng đã trôi qua. Rồi đến một lúc, không gian đối với Ông trở thành vấn đề, giữa "nhà tôi" và nhà trường. Nghệ thuật đã níu kéo Ông quá lâu trong khung trời đại học. Và còn nữa, hình như có tiếng nói vô hình bảo Ông rằng những mơ ước của Ông sẽ không hiện thực. Ông muốn bỏ học.
Buổi lên lớp cuối cùng, Ông tranh cãi với bà giáo sư về một chuyện không đáng. Ông giận mình vì ngôn ngữ giới hạn, không đủ để trút sự bực tức.
Người đồng nghiệp già, nơi Ông kiếm tiền, họ Liu, gốc Trung Hoa, lo ngại Ông sẽ bỏ job sau khi bỏ trường và gây trở ngại cho việc kinh doanh.
Để giữ chân, lão Liu bèn đưa Ông đến thăm một đồng hương nổi tiếng trong giới hội họa, đã tốt nghiệp ở Nga.
Chính họa sĩ này đã gây cho Ông thật nhiều ấn tượng và bẻ ngoặt con đường hoa mộng của Ông.
Xem tranh họa sĩ một giờ bằng mắt trần thì phải bỏ một ngày thưởng ngoạn bằng mắt mù (?). Lão Liu nói với Ông như thế. Tranh đẹp không phải vì nét vẽ đẹp mà tranh đẹp vì thấp thoáng hồn tranh đẹp.
Biết Ông có thiện chí nhưng chưa thấu đáo ngôn ngữ của hội họa, họa sĩ nói, hãy giữ tâm thật tĩnh. Chỉ nên cầm cọ pha mầu khi không còn bị chia trí bởi nội tâm và ngoại cảnh.
Không câu nệ với những định luật học trong trường, tỉ như luật phối cảnh hay luật vẽ bóng..vv... Cái đẹp nằm trong sự buông thả, không bị gò bó trói buộc qua kỹ năng của loại hội họa trang trí. Một kỹ năng khác hơn thế phải được sử dụng để diễn tả sự sáng tạo của họa sĩ.
Làm thế nào để đưa cảm quan thẩm mỹ của người thưởng lãm và họa sĩ gần nhau? Đó chính là nghệ thuật.
Giữa cơn giông bão thấy một cánh chim cô đơn kêu thảm thiết hay qua màn sương mờ đục của kính xe thấy một kẻ vô gia cư lết chân dưới trời mưa tuyết. Ngửi mùi hương lá trong công viên, nghe tiếng thác nước mơ hồ trong hoàng hôn hay tiếng hót của chim sơn ca trong vườn buổi bình minh. Đấy là thơ và là họa. Thơ và họa phải gắn bó. Thi sĩ là họa sĩ và họa sĩ cũng là thi sĩ.
Họa sĩ hỏi Ông, thích thơ không? Ông hỏi tại sao? Họa sĩ nói đối với quan niệm cá nhân, thơ và họa liên quan mật thiết. Họa chỉ là phần nổi của thơ. Thơ là hồn của họa. Thơ phải quyện với họa như TÂM phải ở trong THÂN. Tâm thất lạc thì thân chỉ là xác sinh học. Diễn tả ý thơ bằng họa là cách vẽ chân chính mà họa sĩ tâm đắc.
Dĩ nhiên tất cả đối thoại không bằng tiếng Việt nhưng hình như Ông và họa sĩ vẫn hiểu được nhau, không cần nhiều lời diễn giảng chính xác.
Ông nghiền ngẫm lời họa sĩ nhưng chưa tìm được lời giải đáp thỏa đáng cho chính mình.
Nghi vấn về kiến thức nông cạn cùng với mặc cảm nghèo nàn năng khiếu khiến cho khung vải từ đó không còn lung linh mầu sắc nữa.
Ông mang nỗi đau khổ không sử dụng được mầu sắc nhờ họa sĩ hoá giải.
Họa sĩ dẫn Ông ra đứng trên ban công nhìn xuống công viên nhỏ bên bờ sông.
Xa có bóng dáng thiếu nữ thả tóc xõa, lơ đãng nhìn trời mây. Áo trắng mỏng bay bay trong gió, ẩn hiện toà thiên nhiên tuyệt mỹ.
Họa sĩ hỏi, có kích thích tư duy, gợi được ý tưởng gì cho bản vẽ nháp không?
Trong khoảnh khắc ngẫu nhiên, hành bất định sở, cảm xúc khó diễn tả. Ông buột miệng độc thoại.
Này! hãy bắt lấy ý thơ ngay! "Gió lay, tâm động". Ông gài ý vào cảnh vật rồi nhẩm trong đầu câu lục bát chưa thành vần:
Gió lay cuốn áo em bay
Tâm ai không động ấy là chân tu.
Ông gọi họa sĩ bằng Thầy. Thưa thầy, tôi sẽ vẽ bức tranh này, một bức thiền họa.
Họa sĩ cười mỉm trả lời. Thiền thể hiện cảm hứng nghệ thuật bằng mực và bút lông trên giấy mỏng, đòi hỏi đường nét phải vẽ nhanh, tiết giảm tối đa và chỉ thể hiện những gì thật cần thiết mà thôi. Nét bút của họa sĩ phải dứt khoát như tia chớp, không tô sửa. Vẽ với tâm nhất quán. Bức họa thiền sẽ mang lại bình yên cho cả người vẽ lẫn người xem. Cố gắng lên!
Ông không hiểu nghệ thuật thiền qua hội họa.
Ông đã lộng ngôn. Thiền vẫn là cái gì rất xa lạ. Vì thế Ông loay hoay mãi không khởi động được bàn tay cầm cọ.
Thật ra Ông đã không vẽ. Nhưng bức tranh vẫn còn đó trong ký ức với mầu sắc sống động, không phải màu thiền. Ông không bị thúc đẩy. Dần dà lời hứa với thầy đi vào quên lãng.
Qua cảm quan mới về sự vật và con người, Ông vẽ bức tranh trong tâm tưởng. Nhớ lại, cái hồn của bức tranh thiên tạo như ẩn như hiện, vẫn còn mê hoặc ông.
Gần đây có dịp hướng dẫn cặp vợ chồng bạn cũ ở Cali du ngoạn Niagara, Ông ghé thăm thầy họa sĩ thì thầy đã không còn nữa. Người ta bảo thầy đã gác bút tiếp tục tu thiền trước khi về miền miên viễn.
Nhiều năm sau, không hiểu làm sao Belciu tìm được Ông. Bây giờ anh đã là đại gia nhờ nghe lời vợ dứt khoát với nghệ thuật, chen vào thị trường chứng khoán.
Anh mời Ông và gia đình một chuyến du lịch Caribbean trên du thuyền của vợ chồng anh. Ông từ chối.
Ông mất một tri kỷ, chỉ còn một bạn tốt. Belciu đã thay áo mới thành một người như mọi người. Nên chúc mừng hay chia buồn? Tuỳ!
Buổi sớm chớm thu năm ngoái, dẫn cháu từ Việt Nam mới qua, dạo chơi High Park. Cô bé tròn xoe đôi mắt ngây thơ, chỉ vào đám rừng phong đang thay mầu chuyển sắc, nói ông ơi mầu sắc kỳ diệu quá, về nhà ông dậy con pha mầu vẽ bức tranh đó nghe. Ông bảo, không! con ạ, con hãy ghi nhận hình ảnh bằng sự cảm xúc thì nó sẽ tồn tại trong tâm trí con vĩnh cửu. Chỉ khi nào thật sự là họa sĩ con sẽ biết pha mầu tiệp với mầu thiên nhiên.
Đến với hội họa, đường đi không tới. Như chuẩn linh mục chưa nhận đủ ơn gọi, Ông không bao giờ trở thành họa sĩ. Bởi vì:
Ông đã chôn sâu bao ước mơ
Hạnh phúc bình yên lắng đáy mồ
Cần ai thương tiếc? Cần ai khóc?
Lâu sẽ quên dần nấm cỏ khô.
Nguyễn Cát Thịnh
2014
bài rất hay
Trả lờiXóa