Thứ Ba, 13 tháng 6, 2023

Tử Dạ Ca Kỳ 1 子夜歌其一 - Lý Dục (Bắc Tống, Liêu)


(Từ)

Lý Dục 李煜 (937-978) tự Trùng Quang 重光, tự hiệu là Chung sơn ẩn sĩ 鍾山隱士, Chung phong ẩn sĩ 鍾峰隠者, Bạch liên cư sĩ 白蓮居士, Liên phong cư sĩ 蓮峰居士, người đời quen gọi là Nam Đường Hậu Chủ 南唐後 主 hay Lý Hậu Chủ 李後主. Ông là người nhân huệ minh mẫn, văn hay hoạ khéo, biết âm luật. Phủ khố Giang Nam có thu tàng tác phẩm thư hoạ của ông rất nhiều. Ông là vua cuối cùng của triều Nam Đường.

Nhà Tống diệt Nam Đường, phong ông làm An Mệnh hầu; sau ông bị Tống Thái Tổ cho uống thuốc độc chết. Miền Giang Nam được tin Hậu Chủ chết, các phụ lão đều thương khóc.

Hậu Chủ lúc chưa mất nước sinh hoạt rất hào hoa nên từ cũng rất uỷ mị hoan lạc. Sau khi mất nước, bị đưa về nhà Tống, ngày ngày rửa mặt bằng nước mắt. Từ của ông lúc đó cũng rất thê thảm bi ai, đúng là vong quốc chi âm.

(Về thơ, Toàn Đường thi còn chép của ông 18 bài).

Hậu Chủ có 2 hoàng hậu: Đại Nga Hoàng rất tinh thông nhạc lý nhưng chết sớm. Tiểu Nga Hoàng (em kém Đại Nga Hoàng 14 tuổi; Lý Dục đã tư tình với nàng lúc Đại Nga Hoàng lâm bệnh và phong nàng làm hoàng hậu kế vị 4 năm sau khi bà chị mất).

子夜歌其一          Tử Dạ Ca Kỳ 1

尋春須是先春早 Tầm xuân tu thị tiên xuân tảo,
看花莫待花枝老 Khán hoa mạc đãi hoa chi lão.
縹色玉柔擎 Phiêu sắc ngọc nhu kình,
醅浮盞面清 Phôi phù trản diện thanh.
何妨頻笑粲 Hà phương tần tiếu sán,
禁苑春歸晚 Cấm uyển xuân quy vãn.
同醉與閒評 Đồng tuý dữ nhàn bình,
詩隨羯鼓成 Thi tuỳ Yết cổ thành.

Chú giải

縹 phiêu: mập mờ, huyền ảo
擎 kình: dơ lên, cầm dơ lên cao.
醅 phôi: rượu đục
盞 trản: cái chén nhỏ
清 thanh: chỗ rượu trong không có vẩn (nói tới phần rượu trong sau khi đã gạt bọt đục đi)
頻 tần: luôn luôn, thường thường.
笑粲 tiếu sán: cười rộn, phì cười.
禁苑 cấm uyển: vườn nhà vua
羯鼓 yết cổ: tiếng trống của rợ Yết.

Dịch nghĩa
Tử Dạ Ca Kỳ 1

Tìm xuân thì đợi xuân tới sớm
Ngắm hoa chớ chờ hoa héo đi
Sóng sánh ngón tay ngà
Gạt làn bọt đục trên ly rượu trong
Cười ròn tan hồn nhiên
Xuân tàn trong vườn uyển.
Cùng say kể như hưởng nhàn
Thơ trào ra theo tiếng trống của mọi Yết.

Dịch từ
Tử Dạ Ca Kỳ 1

Tìm xuân thì đợi xuân về sớm,
Ngắm hoa chớ để hoa tàn dởm.
Huyền ảo nhón tay ngà,
Gạt bọt rượu đục ra.
Cười hồn nhiên sảng khoái,
Thượng uyển xuân suy thoái.
Cùng say để hưởng nhàn
Trống Yết nhịp thơ vang.

Con Cò
***
Tử Dạ Ca kỳ 1

Tìm xuân hãy đón đầu xuân mới,
Xem hoa chớ đợi hoa tàn vợi.
Tay ngọc phất mơ hồ,
Khơi trong chén rượu thô.
Hồn nhiên cười ròn rã,
Vườn uyển xuân tàn tạ.
Nhàn nhã cùng say sưa,
Thơ theo trống yết khua.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
July 12/2022.
***
Góp ý::

Cám ơn ÔC đã soạn bài từ để tặng BS. 

Bài từ khuyên người ta nên sớm hưởng những vẻ đẹp của mùa xuân, thưởng xuân khi hoa còn đầy hương sắc, chớ nên đợi tới lúc hoa tàn…

Nàng thiếu nữ, chắc còn rất trẻ, cùng người yêu tình tự, uống rượu, ngâm thơ… nàng lấy bàn tay ngọc, mềm mại, dịu dàng, sửa rượu đục thành rượu trong, đưa cho chàng uống, luôn cười rạng rỡ. Chàng dụ nàng uống chung để hai người cùng say, và bàn luận về chữ nhàn. Khi chàng say thì nghe tiếng trống của rợ Yết trên thành mà nổi hứng làm thơ.

Những chữ khó thì ÔC đã giải thích rồi.

*Câu phôi phù trản diện thanh, quá súc tích, rất khó dịch. Phôi là rượu đục, chưa lọc, thì những vẩn đục pha lẫn trong ly. Có lẽ những vẩn này nhẹ nên nổi lên (phù), nên nếu hớt đi thì phần còn lại sẽ trong (chữ thanh với bộ thủy). BS nghĩ phôi phù không phải là bọt rượu.

*Tần tiếu sán: tần là thường, luôn luôn, tiếu là cười, sán là tươi sáng, rạng rỡ, vậy 3 chữ này muốn nói là người đẹp luôn luôn cười rạng rỡ.

*Đồng tuý dữ nhàn bình. Đồng tuý là cùng say. Dữ là đều, cùng. Vậy chữ dữ này là thừa, cũng như chữ dữ trong câu lạc hà dữ cô lộ tề phi, vì đã có chữ tề là cùng rồi (Hồ Tông Thốc sửa thơ của Vương Bột). Nhàn bình là nghị luận, bình phẩm về chữ nhàn. BS dịch là tán (bàn tán)

Tử Dạ Ca Kỳ Nhất

Tìm xuân nên đón xuân thật sớm,
Ngắm hoa chớ đợi hoa già xọm,
Tay ngọc nhẹ hớt xong,
Ly rượu đục thành trong.
Em luôn cười rạng rỡ,
Vườn cấm xuân đâu nữa.
Cùng say, tán chuyện nhàn,
Theo trống tiếng thơ vang.

Bát Sách
(Ngày 13 tháng 07 năm 2022)
***
Tử Dạ Ca Kỳ 1

Tìm xuân nên chọn xuân sớm sủa
Ngắm hoa chớ đợi cành hoa rữa
Ngọc thanh thoát nhẹ nâng
Bọt nổi chén rượu trong
Sao luôn ngại cười luyến?
Xuân xế vườn thượng uyển
Cùng say, nói chuyện nhàn
Thơ theo trống Yết tràn!

Chơi xuân nên chọn chớm xuân
Ngắm hoa chớ đợi hoa cằn héo khô
Tay nâng chén ngọc lên chờ
Khi tan bọt nổi rượu mờ hóa trong
Sao không cười rộn thong dong?
Xế chiều vườn cấm sánh cùng xuân sang
Say sưa bàn luận thú nhàn
Nương theo trống Yết tuôn tràn thành thơ!

Lộc Bắc
***
Tử Dạ Ca Kỳ 1

Ngóng Xuân cần đón Xuân vừa ửng
Xem hoa đừng đợi hoa tàn rụng
Yểu điệu tay búp măng
Hớt bọt rượu trong ngần
Mặt tươi môi cười rạng
Vườn uyển Xuân ảm đạm
Cụng ly say nồng nàn
Trống Yết thơ khề khàng

Lục Bát

Mong xuân sớm ghé… vui xuân
Ngắm hoa hé nụ muôn phần thắm tươi
Tay ngà chuốc rượu tươi cười
Bọt trong ly đợi nhẹ cời hoá trong
Má đào môi mọng cánh hồng
Hoa trong vườn Ngự buồn lòng sắc phai
Bên nhau sao mãi đắm say!!!
Đêm tàn trống Yết thơ khai ý tình

Kiều Mộng Hà
June01st2023
***
Tâm Tình Chia Xẻ

Đón Xuân - ngóng đợi tinh mơ,
Thưởng hoa - chớ hoãn sắc mờ tàn phai!
Tay ngà hớt bọt miệt mài,
Chén quỳnh trong suốt - anh tài trao dâng.
Hồn nhiên cười cợt rỡ ràng,
Nơi vườn thượng uyển, xuân tàn lão niên.
Bên nhau say khướt liên miên,
An nhàn hưởng lạc, huyên thuyên câu lời.
Trống vang rợ Yết chân trời,
Mạch thơ lai láng khôn ngơi tuôn trào...

Khánh-Hưng
***
Bài từ này của Lý Dục theo điêu T_Bồ Tát Man do Lý Bạch tiên khởi với song điệu 44 chữ, mỗi đoạn 4 câu, gồm 2 vần trắc và 2 vần bằng. Khâm phổ và bản phiên âm được trình bày trong bản bên dưới:


Nguyên tác bài Tử Dạ Ca này khắc đăng trong sách:
Ngự Tuyển Lịch Đại Thi Dư - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御選 歷 代詩餘-清-聖祖玄燁
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐 詩-清-聖祖玄燁

Dịch nghĩa:

Tử Dạ Ca Kỳ 1

Tầm xuân tu thị tiên xuân tảo Tìm mùa xuân thì mong đợi mùa xuân tới sớm
Khán hoa mạc đãi hoa chi lão Ngắm hoa không ai chờ cành hoa già héo.
Phiêu sắc ngọc nhu kình Ngón tay ngọc mềm mại nâng ly màu xanh nhạt
Phôi phù trản diện thanh Gạt làn bọt đục trên miệng ly rượu trong
Hà phương tần tiếu sán Ngại chi cười ròn đánh tan hồn nhiên
Cấm uyển xuân quy vãn Xuân tàn trong vườn cấm tùy tiện đi lại
Đồng tuý dữ nhàn bình Cùng say kể như hưởng nhàn
Thi tùy Yết cổ thành Thơ trào ra theo tiếng trống Khương.

Điền từ:

Điền từ gò bó gượng gạo mà không hát thử được để biết tài năng của mình. Tôi dịch thêm ra một bài thơ cổ phong để che bớt việc làm khá vô vọng này.

Tử Dạ Ca

Tầm xuân mong đợi xuân về sớm,
Ngắm hoa thì muốn hoa màu hợp.
Tay ngón ngọc mong manh
Nâng niu chén rượu xanh.

Vui cười tan tĩnh mịch,
Vườn cấm chờ xuân tịch.
Say hưởng thú nhàn thường,
Rượu thơ đùa trống Khương.

Tử Dạ Xuân Ca

Tầm xuân mong đợi xuân về sớm,
Ngắm hoa không muốn hoa sớm tàn.
Bàn tay ngà ngọc nâng ly nhạt
Gạt bọt rượu thô mép chén vang.

Ngại chi cười lớn tan tịch mịch,
Vườn cấm đìu hiu xuân sắp tàn.
Cùng uống cùng say cùng hưởng lạc,
Trống Khương thúc dục thơ đầy tràn.

Mời nghe hát:

Thật ra các bài từ, trong đó có bài Bồ Tát Man, không phải để đọc mà để hát và nghe. Lời mỗi bài Bồ Tát Man có thể khác nhau, nhưng âm điệu giống nhau cho tất cả các bài cùng điệu. Bên dưới mời nghe bài Bồ Tát Man số 1 của Ôn Đình Quân, hát bằng tiếng bính âm (link màu xanh đậm). Nhớ mở âm thanh và lưu ý số chữ trong bài hát là: 7 7 5 5 5 5 5 5.

Chân Hoàn Truyện Bồ Tát Man 甄嬛傳菩薩蠻
Diêu Bối Na - Cao Thanh Bản 姚贝娜 - 高清版

Phí Minh Tâm
***
Góp ý:

詩隨羯鼓成  thi tuỳ Yết cổ thành.

Yết cổ là trống của người Yết, và câu thơ này không hàm ý "mọi" nào ở trong đó!

Yết là một sắc dân Hung Nô ở vùng Sơn Tây. Trong thời Ngũ Hồ Thập Lục Quốc (tk 4), thủ lãnh Thạch Lặc (石勒) gốc Yết, nguyên là nô lệ của Tây Tấn nhưng được phong làm tướng vì tài quân sư, đã thành lập nước Hậu Triệu (後趙) ở vùng đất ngày xưa của Ngô, Việt và có một thời lãnh thổ của Hậu Triệu gồm hết vùng Trung Nguyên, lớn thứ nhì trong Thập Lục Quốc. Cuối thời Hậu Triệu người Yết nổi loạn chống sự hà khắc của tướng Nhiễm Mẫn (冉閔, gốc Hán) nên người gốc Yết bị Nhiễm Mẫn tiêu diệt (genocide). Một trong những di tích hiếm hoi của người Yết để lại là cái trống bằng gỗ dâu, có eo ở giữa, bọc da dê hai đầu. Trích từ Mộng Khê Bút Đàm (夢溪筆談, một tác phẩm của 沈括=Trầm Quát, một nhà bác học thời Tống):

羯鼓是一種出自於外夷的樂器。 羯鼓兩面蒙皮,腰部細,用公羊皮做鼓皮,因此叫羯鼓。它發出的音主要是古時十二律中陽律第二律一度。古時,龜茲、高昌、疏勒、天竺等地的居民都使用羯鼓。yết cổ thị nhất chủng xuất tự ư ngoại di đích nhạc khí. yết cổ lưỡng diện mông bì, yêu bộ tế, dụng công dương bì tố cổ bì, nhân thử khiếu yết cổ. tha phát xuất đích âm chủ yếu thị cổ thì thập nhị luật trung dương luật đệ nhị luật nhất độ. cổ thì Quy Tư, Cao Xương, Sơ Lặc, Thiên Trúc đẳng địa đích cư dân đô sử dụng yết cổ.

Trầm Quát viết rất kỹ về cái trống Yết, cho ta biết triều đình thời Đường ưa chuộng một phần vì tiếng nó vang xa, và nghe tựa như tiếng vó ngựa. Chữ 羯=yết viết với bộ 羊=dương và có nghĩa là con dê đực đã thiến. Tôi không nghĩ đây là tên người Yết tự đặt cho mình nhưng bây giờ ta hầu như không biết gì về họ, kể cả ngôn ngữ (một điểm đáng để ý là có một nhà ngữ học gợi ý rằng tiếng người Yết tựa như tiếng Việt trên phương diện âm hưởng)! Hai chữ 天竺 trong câu cuối ở trên cho ta thấy là người Ấn đã dùng yết cổ.


Trống Yết
Huỳnh Kim Giám






1 nhận xét: