(Vũ Đức Giang, trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài Gòn 1967-1974)
Đây là bài viết về chính là về Vũ Đức Giang, một người bạn thân
cùng lớp tại trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn và cùng khóa Quân Y Hiện
Dịch 21, khóa Quân Y Hiện Dịch (QYHD) cuối cùng của Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa (QLVNCH). Cũng thêm vào bài là các chi tiết, tạm gọi là bối
cảnh sơ lược, đáng nhắc lại, còn ghi nhận được của từng năm học, liên
quan đến cả học trình Y Khoa bảy năm 1967-1974.
Tôi
thi được vào năm Dự Bị Y Khoa (APM), niên khóa 1967-1968. Lúc đó có
biến cố Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968, ảnh hưởng mạnh đến mọi người và
chúng tôi, tất cả sinh viên, phải học quân sự tức là tham dự chương
trình Quân Sự Học Đường (QSHĐ) để có kiến thức phải dùng khi hữu sự.
Chính quyền VNCH lúc đó chủ trương QSHĐ để hy vọng khi cần đến, sinh
viên dân sự cũng có thể cầm súng chiến đấu như các quân lính chuyên
nghiệp.
(Hình chụp 1968 khi Lớp Dự Bị Y Khoa (APM) tham dự chương trình Quân Sự Học Đường.
Hàng
đứng còn nhận được từ bên trái có Võ Văn Thành, Bùi Trọng Cường, khoảng
giữa có Phan Xuân Tuấn, Dương Thanh Trắc, Nguyễn Kỳ Chân; từ phải có Vũ
Dũng, Nguyễn Văn Quốc, Đỗ Danh Toàn, Phạm Anh Dũng.
Hàng ngồi đeo kính đen là Nguyễn Đăng Cung, khoảng giữa có Nguyễn Hữu Nhiệm, cạnh người áp chót bên phải là Trần Trung Hòa.)
Về học hành chính thức, chúng tôi là sinh viên của trường Đại
Học Khoa Học Sài Gòn và tuy học lớp tại Cơ Thể Học Viện cũ của trường Y
Khoa ở đường Trần Hoàng Quân, nhưng thực tập lại ở Khoa Học Đại Học
Đường Sài Gòn.
Chúng tôi học cả năm như vậy và cuối
năm thi lên vào lớp Y Khoa năm thứ Nhất. Kỳ thi cuối năm của lớp APM
thật khó khăn. Lớp Dự Bị Y Khoa tổng số có khoảng 380 người, mà chỉ có
khoảng 250 người đỗ kỳ thi, được lên lớp. Trong số các bạn thi rớt cuối
năm, có khoảng 50 người được “ở lại lớp” vì chỉ có thi trượt thực tập,
còn số còn lại bị loại hẳn ra khỏi chương trình APM, vì trượt thi viết.
Những bạn không may mắn bị "rớt" lại APM, tôi nhớ có một số rồi cũng tốt
nghiệp được Y Khoa, nhưng trễ lại 1 năm như Nguyễn Như Thành, Lê Thành
Đấu, Trần Hoàng Long, Nguyễn Võ Khanh...
Riêng cá nhân tôi, cả năm chỉ đi học thực tập là những giờ bắt buộc và
chả mấy khi đi học ghi bài. Thường tôi chỉ đợi “cua” (bài học ghi lại)
của ban Đại Diện lớp in, phát ra là đi lãnh về học. Cuối năm cứ thế mà
đi thi và cũng thi đỗ được hết, và được vào năm Y Khoa thứ Nhất. Tôi
phải thú nhận thật may mắn, đậu hạng 9 hay 10 gì đó, và nên còn được học
bổng của Bộ Y Tế khoảng 10 ngàn đồng Việt Nam, tiền lúc đó.
Lên năm thứ 1 Y Khoa, vào chính thức học ở trường Y Khoa, thay
vì Dự Bị Y Khoa APM do các giáo sư trường Đại Học Khoa Học giảng dạy,
cách thi cử đổi khác. Cứ một vài tháng lại có kỳ thi, không Cơ Thể Học,
cũng Sinh Hóa Học, rồi Mô Học... Quen tật xấu, tôi cũng chẳng đến trường
ghi bài. Vì các kỳ thi gần nhau quá, ban Đại Diện lớp đôi khi không đủ
thì giờ in bài kịp cho sinh viên học. Kỳ thi đầu tiên của Cơ Thể Học sắp
đến, chỉ còn có vài ngày, tôi vẫn chưa có một số tài liệu do Bác Sĩ Y
Khoa Trần Anh, Thạc Sĩ Nhân Chủng Học, giáo sư chính phụ trách môn Cơ
Thể Học, giảng dạy. Không đủ bài vở, tôi đến trường hỏi mượn để chép lại
học. Đang vớ vẩn trước cái Đại Giảng Đường to lớn, thì vừa đúng lúc
nghỉ giải lao, sinh viên cùng lớp kéo nhau ra khỏi cửa. Là năm đầu tiên
học ở trường Y Khoa, ít khi đến trường và lớp, tôi cảm thấy lạc lõng,
nhìn ai cũng xa lạ cả. Tần ngần một lúc khá lâu, gặp một sinh viên khác
vừa bước ra sau cùng. Tôi trông anh bạn đeo kính cận thị, có vẻ hiền
lành, thành đánh bạo lại làm quen. Rất niềm nở và thông cảm, người bạn
chưa quen trước và tốt bụng đó cho tôi địa chỉ nhà, hẹn buổi tối lại cho
mượn bài. Đó là lần đầu tiên tôi gặp và quen Vũ Đức Giang.
Nhà của hai đứa cũng gần nhau, đều ở Đa Kao. Tôi ở đường Tự Đức. Nhà
của Giang ở trong một ngõ của đường Phạm Đăng Hưng. Đó là một trong
những nhà nhỏ, ngay dưới chân cầu Sắt, chiếc cầu nằm trên đường Nguyễn
Văn Giai lối qua Gia Định, vẫn được gọi là "cầu Sắt", vì cầu làm bằng
sắt và tôi không biết tên thật của cầu là gì. Đi vào ngõ phía trong sâu
chút nữa là nhà của Lê Huy Hòe, cũng là bạn cùng lớp. Nhà của Giang đơn
sơ, nhưng sạch sẽ. Giang là con trưởng ở với bố mẹ, một em trai và một
em gái. Tôi không nhớ nhiều về bố của Giang vì ông mất sớm, nhưng bà mẹ
thì thật hiền dịu, chiều và thương con, một bà mẹ Việt Nam lý tưởng.
Cậu em trai, kém Giang và tôi chỉ một vài tuổi nhưng rất kính trọng, lễ
phép với anh và bạn của anh. Cô em gái Giang ngọt ngào, giản dị và dễ
mến.
Ngay buổi tối đầu tiên, Giang đã hơi làm lạ khi thấy
tôi rủ đi uống cà phê nghe nhạc và tôi cũng hơi ngạc nhiên khi thấy bạn
nhận lời ngay. Sau đó hai đứa mới khám phá ra là người bạn mới tuy có
nhiều điểm khác mình, nhưng cũng có cùng một sở thích là âm nhạc. Giang
học rất chăm và khá đều, còn tôi, thú thật, hơi... làm biếng, chỉ bắt
đầu học lúc sắp thi. Là cầu thủ bóng tròn loại khá, lúc nào Giang cũng
có mặt trong những lúc tranh giải túc cầu của lớp Y Khoa, trong khi tôi
chỉ biết xem đá bóng và biết cổ vũ, hò hét, hoan hô. Tính của Giang trầm
lặng, ít nói và tôi, ngày đó, sôi nổi hơn. Giang thích và hay ôm đàn
guitar dạo, nhưng cũng như tôi, vì chính yếu chỉ tự học, nên không khá
lắm. Giang đập trống thì khá hơn một chút. Về trình diễn âm nhạc, Giang
đủ sức tham dự những buổi văn nghệ tất niên tài tử trong lớp. Giang rất
thích nghe nhạc, loại nhạc như nhạc Tiền Chiến, Tình Ca Từ Công Phụng,
Ngô Thụy Miên (học cùng thời với Giang, Nguyễn Hữu Thanh, Nguyễn Tiến
Dũng, Võ Tá Hân... ở trường Trung Học Nguyễn Trãi)... Vũ Đức Giang kể
chuyện "hồi APM" lúc học Quân Sự Học Đường, hay đi hát đàn với hai bạn
cùng lớp là Vương Đức Hậu và Nguyễn Minh Huấn. Có khi họ còn "chở ba"
trên xe gắn máy và người nào ngồi giữa thì cầm cái đàn guitar. Nghe kể
như vậy, tôi thấy người bạn mới của mình tính tình thật là "văn nghệ"
rồi! Còn cá nhân tôi, mê đàn hát từ những ngày còn bé. Cả hai đứa vì
không có "điều kiện" nên đều chưa bao giờ được học nhạc chính thức, từ
thầy hay từ trường lớp, càng làm cho hai đứa hiểu nhau, gần nhau, rồi
dần dần thân nhau nhiều.
Giang và tôi từ đó rủ
nhau, ít nhất một tuần một lần, đi quán để uống cà phê, để hút thuốc lá,
nói chuyện và nghe nhạc. Hai quán cà phê chúng tôi thường đến là quán
Hân và Ly Tao. Cả hai quán đều có những nhạc thật hay.
Quán Hân ở đường Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao, trước cửa là hiệu phở Hoàn
Kiếm, ngay gần nhà. Con gái chủ quán, thỉnh thoảng ra quầy thu tiền, là
một cô gái xinh xinh, ngày đó, có một thời gian ngắn cũng đã là "cô em
nhỏ" của Vũ Quốc Phong, một bạn cùng lớp Y Khoa. Đây là nơi chúng tôi
được nghe những băng nhạc hiếm, có Duy Trác đằm thắm ấm áp hát "Thuở Ban
Đầu" (Phạm Đình Chương), Anh Ngọc điêu luyện với "Mắt Biếc" (Cung
Tiến), Mai Hương thiết tha "Giấc Mơ Hồi Hương" (Vũ Thành), Châu Hà hát
"Suối Tóc" (Văn Phụng) êm như mơ...
Quán Ly Tao gần
nhà tù Chí Hoà. Chủ quán, ca sĩ Ngọc Long, là một người cao lớn. Quán
có người hầu bàn cũng là con gái nhỏ nhắn của anh Ngọc Long. Cô bé gọi
chúng tôi là chú xưng cháu, làm không khí ấm cúng và tự nhiên. Ở đây,
Giang thường yêu cầu một băng nhạc rồi thẫn thờ, mê mẩn nghe bài "Chiều
Mơ" của Vũ Đức Sao Biển do Ngọc Long hát:
"Chiều mơ anh sẽ về từ đèo cao hút gió, có hoa xưa chờ người xưa đó.
Chiều mơ anh thấy em buông tóc bên trời, buồn một mình trên tuổi xuân phai.
Chiều mơ anh cầm đàn về bờ xưa suối biếc, hát em nghe ngàn lời thương tiếc...".
Tôi thấy bạn rất có lý, Ngọc Long ít khi hát, có giọng thật
trầm, thật "đầy", và hát bản này quả có một không hai. Vũ Đức Sao Biển
nổi tiếng với bài "Thu Hát Cho Người" do Anh Ngọc hát thật hay, nhưng
theo ý riêng của Giang "Chiều Mơ" tuyệt diệu hơn và lúc đó không được ai
khác ngoài Ngọc Long trình bày, tuy sau này có Mai Hương hát ở Hải
Ngoại.
Đúng như cảm nghĩ ban đầu khi gặp gỡ, Vũ Đức Giang
rất tốt với bạn bè. Bản tính rất hiền, và nhiều khi ngây thơ như một cô
gái nhỏ. Giang hiền lành, hầu như không biết giận ai, thành hay bị tôi
và các bạn thân khác trong cùng lớp Y Khoa như Quách Anh Dương, Nguyễn
Hữu Thanh, Nguyễn Tiến Dũng... "bắt nạt" thường xuyên và Giang thường
chỉ phản ứng bằng một nụ cười nhẹ nhàng. Tính Giang rất nhạy cảm, và
thỉnh thoảng bị tôi trêu, vì Giang có thể dưng dưng "mau nước mắt" khi
có chuyện gì cảm động, ngay cả chỉ lúc nghe những bản nhạc đầy tình cảm
mạnh như "Bà Mẹ Gio Linh" (Phạm Duy) do Thái Thanh hát. Giao thiệp với
Giang khá lâu tôi mới biết thêm về con người của bạn. Tuy hiền lành,
thích chiều bạn, hay nhịn người khác nhưng một khi đã tin vào chuyện gì
thì không có khi nào thay đổi ý kiến, nếu không có những sự kiện vững
chắc chứng minh khác đi.
Năm thứ 1 Y Khoa của chúng tôi
đánh dấu bằng một chuyện đau lòng. Tháng Ba 1969, Giáo Sư Thạc Sĩ Trần
Anh, một bác sĩ rất giỏi, đang đảm nhiệm chức Viện Trưởng Viện Đại Học
Sài Gòn ngoài chức Trưởng Khu Cơ Thể Học Viện của Đại Học Y Khoa, bị ám
sát, bắn chết bằng súng lục, trong khi sau giờ làm việc, ông đi bộ từ
trường Y Khoa về nhà, gần Đại Học Xá Minh Mạng. Vì ông là giáo sư chính
hướng dẫn cho Y Khoa 1, đám tang của thầy, chúng tôi thay nhau "đứng
gác" quan tài. Phải nói, tất cả chúng tôi và nhất là Vũ Đức Giang bị
xuống tinh thần khá lâu, vì cái chết của người thầy đáng kính trọng.
Giang tính tình nhậy cảm buồn đến cả tháng mới nguôi. Mãi sau 1 thời
gian giáo sư Bác Sĩ Thạc Sĩ Nguyễn Hữu từ Pháp về, đứng ra lãnh trách
nhiệm dẫn dắt sinh viên Y Khoa 1 môn Cơ Thể Học.
Sau khi thi đỗ lên năm Y Khoa 2, một buổi tối hơi lành lạnh, khí hậu
hiếm thấy ở Sàigòn, hai đứa khi "ngồi" quán Hân nhìn khói thuốc bay
lững lờ, ngắm từng giọt cà phê phin đen chảy và nghe nhạc, Giang đột
nhiên cho tôi biết quyết định nộp đơn thi vào QY (Quân Y) và rủ tôi cùng
theo. Giang nói cho tôi nghe về ước muốn trở thành y sĩ nhảy dù. Bình
thường, Giang chỉ nhỏ nhẹ, nhưng lúc đó nhìn và nghe Giang, thấy nó thật
cương quyết. Tôi đồng ý ngay, không chần chừ, nhưng theo tôi binh chủng
nào cũng được. Về sau kéo thêm được Vũ Quốc Phong, Nguyễn Minh Huấn,
Đoàn Trung Bửu... cũng thi đỗ và gia nhập Quân Y. Khoảng thời gian đó
vừa sau vụ Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
miền Nam vừa chiến thắng một cách dũng cảm và tinh thần thanh niên đang
được kích thích sôi động.
Cuộc đời Quân Y có những điều thật
bất ngờ. Chúng tôi cứ nghĩ Sĩ Quan Quân Y sẽ gian khổ khi ra trường
lúc chiến đấu, còn lúc là Sinh Viên Quân Y thì chỉ tập tành quân sự chút
ít mỗi mùa Hè, và trong năm thì giờ dành cho việc học. Một buổi trưa
nắng và gió tháng Giêng 1970 sau khi làm thủ tục được phát quần áo, giày
"bốt đờ sô"... tôi và Giang chở nhau vào trường Quân Y ở đường Nguyễn
Tri Phương, Sài Gòn bằng chiếc xe gắn máy "Honda dame" của tôi để tham
dự Tám Tuần Lễ Huấn Nhục. Hai đứa khệ nệ khiêng mỗi đứa một bị to. Ngoài
những đồ đạc nhà binh lỉnh kỉnh như "bi đông", xẻng xúc đất, "gào
mên"... còn nặng đầy sách vở, tưởng sẽ vào đó ngồi học bài ngay! Ba ông
anh huynh trưởng sinh viên quân y do Sinh Viên Quân Y năm thứ 6 Tô Phạm
Liệu chỉ huy đã đợi sẵn ở cổng vào. Không thấy đàn anh nào cười đón
mừng cả! "Ông" nào trông cũng nghiêm và khó quá. Mấy chục tân sinh viên
Quân Y, mới nhập ngũ, là những sinh viên Y Khoa 2 lớp chúng tôi, lớp Y
Khoa 1 như Lê Quang Minh, Phạm Quang Tố, Ngô Hoàng Lâm, Lê Thành
Đấu...), sinh viên Dược như Mai Gia Thược (Thược về sau tự tử trong trại
Cải Tạo), Phạm Đức Thụy... và sinh viên Nha. Vũ Quốc Phong có giọng nói
to, hoạt bát và có dáng điệu chững chạc nhất được cử làm Tân Sinh Viên
Đại Đội Trưởng cho Đại Đội Tân Sinh Viên Quân Y. Ngay sau đó, đám tân
sinh viên Quân Y chúng tôi được lệnh ôm gói hành trang nặng trĩu chạy
chung quanh Vũ Đình Trường của trường Quân Y, theo ba ông đàn anh cho
đến khi gần... xỉu. Thật là bất ngờ!
(Hình chụp tháng Giêng 1970.
SVQY
Tô Phạm Liệu, người mặc quân phục, đứng đối diện các các Tân SVQY đa số
mặc thường phục, đến trình diện nhập ngũ ở Trường Quân Y.
Từ
phải qua trái của hàng đầu tiên, còn nhận ra được là Tân SVQY Châu Văn
Còn, Lê Quang Minh, Ngô Hoàng Lâm, Trần Ngọc Thạch. Sau lưng Châu Văn
Còn là Lê Thành Đấu.
SVQY Ngô Thế Khanh mặc quân phục, đứng ở bìa trái của hình)
Rồi cứ như vậy mỗi ngày, các đàn anh sinh viên quân y như Tô
Phạm Liệu, Phạm Gia Cổn, Phạm Đặng Long Cơ, Nguyễn Ngọc Ấn, Ngô Thế
Khanh... lần lượt thay phiên nhau cho các đàn em mới "nếm mùi" Quân Đội.
Khi còn là sinh viên dân sự, tôi đã từng đi học quân sự ở Quang Trung
hai lần và Thủ Đức một lần nhưng không thấy chỗ nào có thể gian lao như
là tám tuần lễ huấn nhục ở trường Quân Y. Những khóa huấn nhục quân y
trong những năm trước chỉ có 6 tuần và khóa của chúng tôi lại kéo dài
đến 8 tuần. Theo các đàn anh cho biết thì những năm trước cũng có thời
gian huấn nhục nhưng vì "thông cảm" là cùng với quân sự, các đàn em vẫn
phải "học chữ" ở các trường Y Nha Dược. Khóa của tôi thì đặc biệt sao
đó, có nhiều đàn anh Quân Y có lý tưởng mạnh và nhiệt thành do đó muốn
huấn luyện chúng tôi thành những sĩ quan nòng cốt cho ngành Quân Y trong
tương lai. Dù muốn hay không, Trường Quân Y cũng là một trong những
trường Sĩ Quan Hiện Dịch khác của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như trường
Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trường Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị... Tân Sinh
Viên Quân Y ngoài sự huấn nhục thể xác và tinh thần ở trường Quân Y,
chắc chắn không thể so với trường chuyên nghiệp quân sự Võ Bị Đà Lạt
nhưng chúng tôi còn thêm sự lo lắng như những sinh viên Y Nha Dược ngoài
dân sự là vẫn phải đi học, học bài rất nhiều của các ngành Y Dược Nha.
Và nếu không thi đỗ, thì bị ở lại lớp hay có khi "ra trường sớm" (sortie
latérale) tức là bị loại khỏi trường Y Khoa, nếu thi trượt hai lần.
Nhất là ngày đó chúng tôi Y Khoa Hai có môn Ký Sinh Trùng Học do Giáo Sư
Bác Sĩ Đỗ Thị Nhuận tuy rất tận tâm nhưng cũng nổi tiếng rất nghiêm
khắc, trong việc học hành, thi cử của sinh viên và có lúc thẳng tay
"đánh rớt" những người không đủ điểm.
Trong số các
đàn anh có ba người khó tính nhất cùng ở một toán huynh trưởng huấn
luyện là anh Cảnh, Đức và Ấn (anh Nguyễn Ngọc Ấn khóa 18 Quân Y Hiện
Dịch, sau đi Biệt Động Quân, tác giả bài "7 Ngày Ở Quảng Trị" viết về
chuyện bị bắt làm tù binh ở trận Hạ Lào, khi bị đưa ra Bắc, và mãi sau
mới được hoán chuyển tù binh về lại được miền Nam). Ba ông này huấn nhục
chúng tôi theo đúng nghĩa huấn nhục, ngay từ buổi đầu tiên với các hình
phạt nặng, vì những lý do đôi khi thật là vô lý. Vì không được chuẩn bị
tinh thần nên các đàn em rất ngạc nhiên và có thể nói là bất mãn. Một
buổi chiều, như thường lệ, ba ông đàn anh đem cả Đại Đội Tân Sinh Viên
ra phạt tới tấp vì một cái lỗi rất là nhỏ, tôi không nhớ rõ và hành xác
đàn em khoảng một tiếng đồng hồ dưới trời nắng chang chang. Đoán biết có
sự bất mãn, anh Cảnh trước khi giải tán đại đôi, tuyên bố sẽ tập họp
lại buổi tối và nói rõ ràng nếu có ai không bằng lòng thì lúc đó cho
biết để các đàn anh sẽ cho phép "rời khỏi Quân Đội". Giang, vài bạn nữa
và tôi có họp lại bàn chuyện này. Mấy ông đàn anh thì cũng dự định "dọa
già" các em thôi. Các ông em ngây thơ, tin thật và hẹn nhau nhất định
giữ vững lập trường dù có gì xảy ra. Tối hôm đó, Vũ Đức Giang, Nguyễn
Minh Huấn và Phạm Anh Dũng đã đứng ra khỏi hàng để được "cởi áo nhà
binh", như các anh đã hứa hẹn. Sau đó thì chúng tôi "vỡ mộng"! Những
đàn anh ra lệnh cho Vũ Quốc Phong đứng ra phạt chúng tôi. Phong nhận
thấy sự vô lý, vì các bạn của mình chỉ bày tỏ ý kiến khi được đàn anh
hỏi thôi, nên nhất định không tuân lệnh. Ba ông đàn anh nổi giận phạt
riêng Phong trước hàng quân và rồi phạt cả đại đội chạy vài vòng Vũ Đình
Trường. Riêng ba đứa chúng tôi thì biết thêm hình phạt Dã Chiến là gì,
đêm hôm đó. Các ông anh thay nhau phạt 3 đứa tôi cả đêm dài. Đến sáng
ra, khi hỏi lại chúng tôi vẫn cương quyết giữ ý kiến đòi "rời khỏi Quân
Đội" như đàn anh đã hứa. Riêng Vũ Đức Giang, khi được cho nghỉ vài phút,
đã thu dọn cho đồ nhà binh vào bị và mặc sẵn quần áo dân sự từ lúc nào
rồi. Lúc này các ông đàn anh cũng hơi lúng túng, không biết xử trí ra
sao. Huynh trưởng Tô Phạm Liệu phải đến gọi riêng ba đứa em ra khuyên
bảo. Anh Liệu nói nhiều về tình cảm anh em trong gia đình Quân Y và
giảng cho các đàn em bướng bỉnh hiểu về mục đích chính của thời gian
huấn nhục chỉ làm cho tân sinh viên tập quên đi cá nhân của mình và nghĩ
đến tập thể, tương lai, tổ quốc... Anh nói rất hay, chúng tôi cảm động
nhiều và riêng Giang phải long lanh nước mắt.
Chúng
tôi hiểu, không xin "rời khỏi Quân Đội" nữa và rồi theo thời gian, cũng
quen đi những huấn luyện về thể xác và tinh thần để sửa soạn thành
những Quân Y Sĩ trong tương lai. Thôi thì đủ trò phạt, hít đất, chạy...
Một lần tôi đang ở trong hàng nghe anh Phạm Gia Cổn "thuyết pháp",
không hiểu sao, lỡ dại không nhịn được phải phì cười, và bị anh phạt.
Anh cho là tôi "cười nhỏ quá", nhiều người chưa được nghe và bắt thằng
em đứng giữa hàng quân cười thật to 10 lần để cả Đại Đội được nghe. Tôi
nhớ mãi bị khản giọng, mất tiếng đến cả mấy ngày. Nhưng kể từ ngày đó, 2
anh em chúng tôi lại quen biết thân nhau, thân nhau nhiều, thân nhau
mãi cho đến khi anh qua đời năm 2022. Những tuần lễ huấn nhục của Tân
Sinh Viên cũng qua đi, trở thành những kỷ niệm thú vị không bao giờ
quên. Khi chúng tôi tổ chức Đêm Lễ Gắn Alpha theo sau là buổi văn nghệ
mãn khóa, cả Giang và tôi đều vào ban văn nghệ trình diễn. Tôi còn nhớ
mãi kỷ niệm Nguyễn Minh Huấn hôm đó hát "Nguyệt Cầm" của Cung Tiến-Xuân
Diệu.
Lên năm thứ 3 Y khoa, sinh viên bắt đầu thực tập ở
bệnh viện và cũng bắt đầu được chia đi gác đêm. Tôi và Giang có một kỷ
niệm không bao giờ quên ở nhà thương Hồng Bàng là nơi chuyên trị những
bệnh nhân bị bệnh Lao, nhiều người thật nặng, ngày nào hình như cũng có
người chết. Phòng trực cho sinh viên Y Khoa ở chỗ vắng vẻ, cách xa tòa
nhà chính, nơi bệnh nhân nằm dưỡng bệnh. Ban đêm vắng mà bị gọi khi bệnh
nặng hay khi bệnh chết thì rất ngại, vì phải đi bộ khá xa và "đường xá"
thì tối mù mịt. Các đàn anh Y Khoa thường bảo là chỗ đó có... ma!
Chuyện ma của nhà thương Hồng Bàng cũng đã có nhắc đến trong quyển "Thế
Giới Trường Thuốc" của Đặng Đức tức Bác Sĩ Đặng Đức Nghiêm. Tôi vừa đọc
xong quyển sách vài ngày hôm trước và vẫn còn đang bị ám ảnh. Anh bạn
cùng lớp, tôi không nhớ rõ tên, được chia trực cùng đêm lại bị ốm, nên
tôi "năn nỉ", rủ Giang đi cho đỡ sợ. Đêm khuya hôm đó đang ngủ thì nghe
tiếng động lục cục ở ngoài cửa phòng, Giang giật mình thức giấc và lay
tôi dậy. Tôi thu hết can đảm dậy bật đèn, lên tiếng hỏi nhưng không thấy
ai trả lời. Tiếng động nghe như là chân người mang guốc bước qua lại
trên sàn xi măng tiếp tục khá lâu cũng đến khoảng 5-10 phút. Tiếng động
đó cũng mất đi nhưng cả hai đứa đều sợ xanh mặt, để đèn sáng và không
ngủ được cho đến sáng. May mà đêm đó cũng không bị gọi lên trại bệnh
thành cả hai nằm im lặng trong giường cho đến lúc thấy trời sáng tỏ nghe
thấy tiếng người thì mới mò ra ngoài cửa. Chúng tôi cũng không tìm
được, thật ra là không dám đi tìm lý do của cái tiếng động kỳ quái giữa
đêm khuya vắng. Cũng có thể chỉ là do gió mạnh đập cành cây hay cái gì
vào tường hay cửa sổ chăng?
Cũng nói qua, vào khoảng 1970, sau Chiến Dịch Campuchia của quân lực Hoa
Kỳ và QLVNCH và vì bị "cáp duồn" như các kiều bào Việt khác, các sinh
viên học Y Khoa Campuchia như Nguyễn Mạnh Khang, Hà Phi Phụng, Mai Thế
Vĩnh, Hồ Hoàng Trang, Nguyễn Thanh Phong... phải chạy thoát về Việt Nam
để cuối cùng được nhận vào Y Khoa Sài Gòn, vào lớp Y Khoa Sài Gòn
1967-1974 chúng tôi.
1972, năm của những Mùa Hè Đỏ Lửa,
Đại Lộ Kinh Hoàng, Cổ Thành Quảng Trị (Chiến Dịch Lam Sơn 72)... Đây
cũng là năm của "Tổng Động Viên" khi chúng tôi đang học Y Khoa 4, năm
thứ Tư Y Khoa. Tôi nhớ một số anh em "Dân Y" như Hoàng Lộc (Lộc sau 1975
bị giết chết ở trại Cải Tạo), Nguyễn Mạnh Khang, Lê Minh Đức, Trần
Thiện Tư, Trần Chánh Khương, Lại văn Tiến, Nguyễn Minh Quốc, Đào Văn
Kim, Trần Hoàng Hải, Ngô Đăng Tuấn, Lại Hoàng Ân, Lưu Văn Châu , Trương
Hoàng Nghiệp... quá tuổi, sinh vào 1947 hay trước nữa, bị "đôn quân",
phải nhập ngũ học khóa sĩ quan ở Đồng Đế, "ra" chuẩn úy. Tuy vậy một
thời gian sau, đa số về sau cũng được thầy bác sĩ Trần Lữ Y, lúc đó là
Tổng Trưởng Y Tế chính phủ Nguyễn Cao Kỳ thành có thế lực, can thiệp xin
cho về học lại Y Khoa, nhưng kết quả ra trường trễ hơn các bạn cùng lớp
1 năm.
1972, chiến tranh bùng nổ lớn ở miền Trung.
Dân Quảng Trị chạy giặc vào tạm trú hàng chục ngàn người ở những trại
tị nạn xung quanh Đà Nẵng. Tình trạng y tế của các trại tị nạn rất nghèo
nàn. Không đủ y sĩ để săn sóc dân và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa phải
nhờ đến các sinh viên quân y giúp. Tôi và một số anh em sinh viên khác
của lớp Quân Y Y Khoa 4 như Nguyễn Trọng Nghĩa, Đoàn Trung Bửu, Trương
Ngọc Hiền... Quân Y Y Khọa 5 như Phạm Hiếu Liêm, Bùi Quang Dũng, Bùi Hữu
Phước, Nguyễn Anh Tuấn... Quân Y Y Khoa 3 như Trần Hoàng Long, Trần
Đông Giang, Nguyễn Văn Hãn, Lê Thành Đấu, Nguyễn Võ Khanh... Quân Dược
như Nguyễn Hiền, Mai Gia Thược (Thược sau tự tử trong Trại Cải Tạo) ,
Châu Minh, Nguyễn Văn Trực, Nguyễn Quang Toản... được cử ra miền Trung
để giúp vào việc lo y tế cho đám dân tị nạn vài tháng. Đối với đời sinh
viên Quân Y thì chuyến đi cũng đầy những lo lắng nhưng cũng thật thú vị
và hồi hộp. Tôi chỉ có một chuyện duy nhất lo lắng là chị Nga, bà chị
ruột của tôi, vừa bị nám phổi nhẹ nhưng phải chích thuốc chống Lao
Streptomycin mỗi ngày. Vũ Đức Giang, không phải đi ra miền Trung chuyến
này, biết chuyện và nhận giúp ngay. Trong những ngày tháng tôi lưu lạc ở
Đà Nẵng, Giang đã đến nhà tôi mỗi ngày để chích thuốc cho chị Nga. Mẹ
tôi hiền nhưng bố tôi tính khó, nên ít có bạn thường lại nhà. Giang thì
đặc biệt lại nhà tôi thường xuyên. Bố mẹ tôi rất quý tính nết hiền, tốt
và lễ phép của Giang. Chị Nga tôi thương mến Giang coi như em ruột trong
nhà.
Sau khi đám Sinh Viên Quân Y ở Đà Nẵng được vài tháng,
tại Sàigòn Y Sĩ Đại Tá Nhảy Dù Hoàng Cơ Lân về làm Chỉ Huy Trưởng
Trường Quân Y thay Y Sĩ Đại Tá Hải Quân Phạm Vận. Đại Tá Lân, ngày đó,
là một người đầy nhiệt huyết và thanh liêm có tiếng. Tính tình ông, nóng
nảy, nhưng thẳng thắn và ông rất được kính nể trong ngành Quân Y. Đại
Tá ra lệnh cho tất cả sinh viên đang đi quân sự vụ tại miền Trung về lại
Sài Gòn, để tiếp tục việc chính là học Y Khoa. Theo quan niệm của ông,
vấn đề quan trọng nhất trong việc đào tạo Sĩ Quan Quân Y giỏi là Sĩ Quan
Quân Y phải nghĩ đến chuyện học trước hết. Chuyện chữa bệnh cho dân tị
nạn để cho người khác, chính phủ lúc này đã xoay sở lấy được. Về Sài
Gòn, một số anh em, trong số đó tôi còn nhớ có Vũ Đức Giang, Phạm Anh
Dũng, Lý Văn Quý (Quân Nha)... rủ nhau nộp đơn xin đi học bằng Nhảy Dù,
như các khóa đàn anh trước vẫn được phép, nhưng không được ông Lân chấp
thuận, chắc cũng vì lý do này. Giang bực mình nhiều về chuyện đó, vì vẫn
muốn sẽ gia nhập nhảy dù. Mỗi lần nhìn "đàn anh mũ đỏ" như Tô Phạm
Liệu, Phạm Gia Cổn... lúc đó đã ra những đơn vị chiến đấu nhảy dù thỉnh
thoảng vẫn về thăm trường với binh phục rằn ri, Giang vẫn tấm tắc khen
và... mong ước!
Vì là "gốc" Nhảy Dù nên Đại Tá Hoàng Cơ Lân
hơi có thiên vị cho binh chủng này và tôi nghĩ có lẽ chính ông đã
tuyển lựa nhiều sĩ quan nhảy dù về trường Quân Y, có những Y Sĩ như
Trung Tá Vũ Khắc Niệm, Thiếu Tá như Lê Văn Châu, tác giả quyển "Y Sĩ
Tiền Tuyến" được giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc 1969, Đại Úy như
Hoàng Ngọc Giao, Đường Thiện Đồng.... Còn ngành Dược thì có Đại Úy Trần
Mạnh Anh... và đa số giữ những chức vụ huấn luyện cho đám sinh viên
quân y. Thật sự đây là điều rất tốt, vì những vị này phần lớn đều khá và
xứng đáng được làm gương. Cũng có một số Quân Y Sĩ binh chủng "rằn ri"
khác được "gọi về" phục vụ ở Trường Quân Y như Thiếu Tá Trần Xuân Dũng
từ Thủy Quân Lục Chiến và Đại Úy Ngô Thế Vinh, tác giả quyển "Vòng Đai
Xanh" được giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc 1971, từ Biệt Cách Dù. Đại
Tá Lân để ý đến sinh viên từ những chuyện tầm thường nhất như đi đứng, y
phục, ăn uống... cho đến những chuyện quan trọng thi cử, học hành...
Chính ông thường bất thần xuống khu nội trú xem xét đời sống sinh viên
hầu như mỗi ngày. Nhiều khi tôi có cảm tưởng ông coi các sinh viên quân y
như là những em nhỏ dại dột của chính ông cần được săn sóc cho thành
người tốt.
Đại Tá Hoàng Cơ Lân, lúc đó, có rất nhiều
ý kiến mới lạ, áp dụng vào việc huấn luyện sinh viên. Tất cả sinh viên
quân y phải nội trú trong trường Quân Y để tập quen với đời lính. Tình
cảm giữa các sinh viên quân y đối với nhau trở thành gắn bó hơn. Ông lập
võ trường cho sinh viên tập Nhu Đạo, tôi nhớ có hai Y Sĩ Thiếu Tá Lê
Trọng Tín và Đỗ Danh Thụy hướng dẫn . Ông còn tổ chức những buổi nói
chuyện cho sinh viên mở rộng kiến thức. Nhiều nhân vật nổi tiếng ngoài
dân sự như nhà văn Hoàng Hải Thủy diễn thuyết về "Y Sĩ và Văn Nghệ",
linh mục Thanh Lãng nói chuyện về "Văn hóa dân tộc và vấn đề Hùng
Vương"... là các vấn đề tổng quát, văn học nghệ thuật. Rồi đến Bác Sĩ
Giáo Sư Hoàng Tiến Bảo, Giảng Sư Trần Xuân Ninh, Đinh Hà... nói về
chuyên môn Y Khoa. Còn có các diễn giả là đàn anh Quân Y của chúng tôi
đã ra trường như Đại Tá Văn Văn Của về nói chuyện để truyền kinh nghiệm
đến đàn em. Có một hôm, anh Trần Xuân Dũng, đã từng là Y Sĩ Thiếu Tá
Thủy Quân Lục Chiến, thuyết trình về chuyện gì đó. Tôi ốm không đi được
nhưng Giang đi nghe và khi về kể lại lấy làm thú vị, thích lắm vì anh
Dũng dáng dấp thư sinh, nhưng nói chuyện rất hay và có duyên. Từ ngày đó
thỉnh thoảng Giang cũng nói với tôi là có thể sẽ chọn Thủy Quân Lục
Chiến khi đến lúc ra trường.
Công việc học hành, thi cử ở
trường Y Khoa song song với chuyện quân sự ở Trường Quân Y rồi cũng qua
dần. Hiệp Định Hòa Bình Paris 1973 của Kissinger và Lê Đức Thọ, khi tôi
đang học Y Khoa năm thứ 5, thực tế chỉ là một "tờ giấy lộn" và chả hiểu
tại sao vì "nó" mà 2 người này họ lại được giải Nobel Hòa Bình! Bộ Đội
miền Bắc không tôn trọng những gì đã cam kết, vẫn xâm nhập miền Nam và
Nam Bắc vẫn tiếp tục phân tranh. Phải nói tinh thần và khả năng chiến
đấu của quân đội Việt Nam Cộng hòa bị suy giảm nghiêm trọng, nhất là sau
khi Richard Nixon từ chức vì vụ Watergate vào tháng 8 năm 1974 và viện
trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa đã dần bị cắt giảm rất nhiều.
Lúc đó, chúng tôi ít có giờ học ở trường hơn những lớp dưới và
được cử đi thực tập nhiều ở các bệnh viện. Một vài tháng đầu tiên của
năm thứ 5, Giang và tôi đến phiên học ở Bệnh Viện Nhi Đồng nơi có trẻ
con bị bệnh nặng chết nhiều và chúng tôi được gọi ký giấy tử, có khi 5, 6
lần một đêm gác. Tôi nhớ mãi Giang được cử săn sóc một đứa bé trai độ 5
tuổi bị phù thủng rất nặng, khắp cả người sưng vù (edema) vì một bệnh
về thận. Bố mẹ đứa nhỏ đã định sửa soạn ngày tang ma vì tưởng con không
thể qua nổi cơn bệnh. Giang rất tận tâm chịu khó đọc sách, hỏi han
những anh nội trú bệnh viện chữa cho thằng bé bằng kích thích tố tuyến
thượng thận (corticosteroid) và kết quả rất thành công. Giang khá thật,
chỉ một thời gian ngắn thằng bé đã đỡ hẳn. Bác Sĩ Giáo Sư Trịnh Thị
Minh Hà, trưởng khu bệnh là người nổi tiếng giỏi nhưng rất khó tính cũng
phải ngạc nhiên và vui lòng. Tôi nhìn thằng bé con vui đùa, tung tăng
chạy nhảy lúc được xuất viện mà thầm phục thằng bạn của mình lầm lì, ít
nói nhưng có tài. Sinh viên ngoại trú Y Khoa đầu năm thứ 5 mà có thể làm
được chuyện như vậy không phải dễ. Giang rất thích trẻ con, sau kỳ học
đó lại nộp đơn quay lại Nhi Đồng một lần nữa.
Chẳng mấy
chốc đã đến năm thứ 6 là Y Khoa, năm cuối cùng của học trình 7 năm "dài
đăng đẳng". Một số chúng tôi được cử để phụ trách huấn nhục đám đàn em
mới vào và "lịch sử lại tái diễn"! Chúng tôi cũng đến lượt trở thành
những đàn anh hò hét, huấn nhục đàn em. Lúc đó, chính bản thân tôi lại
được cử ra làm sinh viên quân y Đại Đội Trưởng Đại Đội Tân Sinh Viên, y
như là anh Tô Phạm Liệu năm 1970, phụ trách việc huấn luyện này.
Sau khi thi xong kỳ thi Bệnh Lý ở trường Y Khoa, Khóa 21 Sĩ
Quan Quân Y Hiện Dịch QYHD, khóa Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch cuối cùng của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa làm lễ ra trường. Chúng tôi được chính thức
đeo lon Y Nha Dược Sĩ Trung Úy.
Tháng Hai 1975, "cả nước"
rúng động vì tỉnh Phước Long đã mất. Ngày 20 tháng Hai 1975 là ngày chọn
đơn vị. Đa số bạn bè xôn xao, bàn tán về những binh chủng khác nhau.
Tôi vẫn có chủ trương như cũ, đơn vị nào cũng vậy và cuộc đời có lẽ có
sẵn số mệnh cả. Rồi tùy theo theo thứ tự đậu cao chọn trước, đỗ thấp lựa
sau.
Những người đậu cao chọn chỗ ở Tổng Y Viện
Duy Tân có Bạch Thế Thức, Phan Thanh Hải. Về QYV (Quân Y Viện) có Nguyễn
Phan Khuê (Thủ Khoa khóa 21 QYHD) QYV Ban Mê Thuột, Trần Trung Hòa QYV
Quảng Đức, Nguyễn Dương Mỹ QYV Nguyễn Tri Phương, Trần Ngưu Tử và Nguyễn
Chí Vỹ chọn về QYV Pleiku.
Có 2 chỗ Hải Quân cũng dành cho những người xứng đáng học khá giỏi và đậu cao là Nguyễn Văn Công và Nguyễn Văn Chiếu.
Nhảy Dù, binh chủng "rằn ri" mũ đỏ, hết khá sớm vì Châu Hữu Hầu,
Trương Văn Như, Nguyễn Xuân Thiều, Nguyễn Văn Liêm, Trần Duy Thanh,
Nguyễn Văn Thịnh và Nguyễn Văn Thạnh đã lựa chọn ngay.
Về Thủy Quân Lục Chiến, mũ xanh, 9 người, có Vũ Đức Giang, Nguyễn
Tiến Dũng, Bùi Ngọc Sĩ, Nguyễn Bá Linh, Trương Ngọc Hiền, Nguyễn Văn
Châu, Bùi Chí Hùng, Huỳnh Đình Đại, và Hồ Đình Dư.
Chọn đi các Bộ Binh của tất cả 4 vùng quân sự: Vùng I Chiến Thuật có
Chu Kỳ Đức; Nguyễn Đình Ngọc, Nguyễn Đỗ Quan và Hồ Thanh Tùng chọn Sư
Đoàn 1 Bộ Binh; Lê Bình Đẳng và Võ Dũng chọn Sư Đoàn 2 Bộ Binh; Vũ Quốc
Cường và Phạm Anh Dũng chọn Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Vùng II Quân Sự có Phan
Ngọc Hà, Lê Vĩnh Thịnh, Thái Văn Châu và Nguyễn Khánh Hỷ về Sư Đoàn 22
Bộ Binh. Vùng III có Lê Huy Hòe chọn Sư Đoàn 5 Bộ Binh; Mai Thanh Hồng
chọn
Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Lê Văn Cẩm chọn về Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Vùng IV có
Nguyễn Văn Quốc chọn
Sư Đoàn 7 Bộ Binh, Huỳnh Thắng Toàn và Nguyễn Văn Đơ chọn Sư Đoàn 9 Bộ
Binh, Nguyễn Minh Huấn và Phạm Văn Hạnh cùng về Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Biệt Động Quân, binh chủng "rằn ri" mũ nâu, đang dự định đưa Y
Sĩ xuống cấp tiểu đoàn theo như Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến và do đó
lấy khá nhiều. Đó là Nguyễn Tài Mai (Sinh Viên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu
Đoàn Sinh Viên Quân Y, "gốc" Thiếu Sinh Quân), rồi đến Nguyễn Quốc Anh,
Ngô Bá Bảo, Đoàn Trung Bửu, Nguyễn Kỳ Chân, Nguyễn Đăng Cung, Nguyễn Hữu
Chí, Nguyễn Văn Đổng, Nguyễn Hữu Khoát, Nguyễn Phong Nghi, Hồ Sĩ Nghĩa,
Nguyễn Văn Tân, Tề Văn Tiếng, Đỗ Danh Toàn, Vũ Ngọc Tuấn và Nguyễn Tấn
Việt.
Một số chọn những đơn vị lẻ tẻ, nhưng đặc biệt
như Huỳnh Minh Châu về Nha Kỹ Thuật Tổng Tham Mưu, Dương Thanh Trắc
chọn Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, Trịnh Ngọc Toản "đi" Tiểu Đoàn 12 Kỵ
Binh Thiết Giáp và Phạm Hồng Hải "về" Liên Đoàn 72.
Sau ngày chọn đơn vị, tôi lại nhà Vũ Đức Giang ngày cuối tiễn Giang ra
trình diện đơn vị. Giang mặc quân phục "rằn ri" mới, đeo lon đỏ, đội mũ
xanh của Thủy Quân Lục Chiến, trông thật lạ mắt. Giang giới thiệu tôi
với hôn thê mới của mình, là một giáo sư trường trung học ở Sài Gòn. Cô
vợ chưa cưới của Giang tên là Mai, trông thật ngoan và hiền dịu. Trước
khi từ giã, Giang đưa tặng tôi cặp lon Trung Úy và bảng tên màu đen dùng
cho những đơn vị tác chiến, dặn dò tôi phải cẩn thận vì chiến cuộc đang
gay go. Nhìn tôi khá lâu vào mắt, hơi khác thường, Giang bắt tay từ
giã. Cả mấy năm trời thân thương với nhau, chúng tôi chưa hề bắt tay
nhau bao giờ. Lần đó là lần đầu tiên và không ngờ, cũng là lần cuối cùng
tay chúng tôi bắt tay. Đó là lần cuối cùng hai đứa gặp nhau. Giang ra
thay một đàn anh ở Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến, tham chiến ngay ở
gần Huế. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vừa ra lệnh rút Sư Đoàn Nhảy Dù về
trấn giữ Sài Gòn và để một số Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến cùng vài Liên
Đoàn Biệt Động Quân thay. Giao chiến khốc liệt đẫm máu xảy ra ở những
vùng quanh Huế, Quảng Trị, Đại Lộc... Nguyễn Tiến Dũng thành Y Sĩ Trưởng
Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến đóng ở tuyến đầu Quảng Trị.
Cuộc đời Y Sĩ Tiền Tuyến chúng tôi thật sự khởi đầu.
Tôi đến Sư Đoàn 3 Bộ Binh gần Đà Nẵng. Vũ Quốc Cường về cùng
đơn vị đã trình diện trước tôi một vài ngày. Ngày Xuân, tháng Ba mà đã
nóng như lửa. 11 giờ trưa trình diện Tiểu Đoàn 3 Quân Y. Dược Sĩ Trung
Úy Lê Văn Khoa rủ ăn trưa với các Y Sĩ Trung Úy của Sư Đoàn 3 như Nguyễn
Hữu Mãn, Đào Tư Huyền, Lê Văn Thu...và chỉ dẫn chút ít về doanh trại.
Vũ Quốc Cường dẫn tôi đi tắm suối xong 2 giờ chiều cùng ngày tôi được
ông Thiếu Tá Y Sĩ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Quân Y gửi đến Trung Đoàn
2 Bộ Binh. Vũ Quốc Cường được giữ lại Sư Đoàn. Trung Đoàn 2 của Sư
Đoàn 3 và Trung Đoàn 1 của Sư Đoàn 1 là hai đơn vị thiện chiến có tiếng
trong các đơn vị Bộ Binh của Vùng I Quân Sự. Trung Đoàn 2 đang đóng và
chiến đấu ở Quế Sơn. Tôi đến thay cho Y Sĩ Trung Úy Bùi Trần Anh ở trung
đoàn này đã được vài năm.
Đến lúc đó tôi mới thấy cái đời
sống thật sự của những Y Sĩ ở mặt trận không còn những lúc văn chương
thơ mộng như mình đã tưởng tượng, như khi đã đọc ở quyển "Y Sĩ Tiền
Tuyến" của Trang Châu. Quyển sách của anh Châu, viết có lẽ chỉ khoảng
5,6 năm trước và thời gian đó đã trở thành phải nói có những chỗ không
còn "hợp thời" nữa. Chiến tranh sau này phũ phàng và tàn bạo hơn nhiều.
Tôi thông cảm và kính phục các vị Quân Y Sĩ đàn anh bao nhiêu năm gian
khổ, nguy hiểm nơi tiền tuyến. Cảm giác lạnh lẽo, cô đơn một mình giữa
đêm khuya ở bệnh xá Trung Đoàn thật khó quên. Những buổi trưa ấn vội nắm
"cơm sấy" vào mồm cho đầy bụng để còn kịp có thì giờ chữa thương bệnh
binh. Tôi đã ớn lạnh nghe quả pháo vút qua đầu và rơi cách chỉ hơn trăm
thước mà vẫn phải dặn dò y tá bình tĩnh. Lúc cảm thấy bất lực nhìn tủ
thuốc trống rỗng với vài viên thuốc chữa cảm cúm vớ vẩn, không còn trụ
sinh trong khi bệnh nhân đợi la liệt với những vết thương không cần phải
đợi lúc thay băng cũng đã ngửi thấy mùi nhiễm trùng. Còn nỗi bàng
hoàng, khi thấy lính phải bỏ tiền túi ra mua đạn. Chuyện khó tin nhưng
có thật! Trận chiến như đã được xếp đặt đến lúc tàn. QLVNCH chưa mỏi
mệt, nhưng đồng minh Hoa Kỳ đã mỏi mệt, muốn "bỏ rơi" miền Nam. Quân
miền Nam không còn đủ súng ống, đạn dược trong khi Bộ đội miền Bắc lại
đầy T54, B41, AK47...vì Nga và Trung Cộng vẫn chưa bỏ cuộc.
Khóa 21 Sĩ Quan Quân Y Hiện Dịch, những ngôi sao sáng, những niềm hy
vọng mới của đất nước, của tổ quốc ra trường đúng những ngày tháng sửa
soạn cho thất trận. Chiến tranh hình như bùng nổ lớn khắp nơi trên khắp
bốn vùng chiến thuật I, II, III và IV. Tháng Ba 1975 các Tân Trung Úy
Quân Y Nha Dược Sĩ chân ướt chân ráo ra chiến trường, tìm đơn vị, là
lúc hầu như cả một đạo quân Việt Nam Cộng Hòa một triệu người đang giao
tranh, tan rã, bắt đầu di tản ngược lại hướng của mình. Bao nhiêu bạn
cùng khóa bị bắt làm tù binh. 8 Quân Y Sĩ mới của Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến ra thay thế đàn anh ở những tiểu đoàn chiến đấu, 5 người bị bắt
khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bỏ ngỏ Huế. Còn nhiều người vì
hỗn độn chưa kịp tìm thấy đơn vị mới đã chết trận.
Ngày 10 tháng Ba 1975 Ban Mê Thuột bị tấn công.
Chỉ 3 ngày sau Tổng Thống Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu Tướng Tư
Lệnh Vùng II Quân Sự Phạm Văn Phú bỏ Cao Nguyên. Đại Tá Biệt Động Quân
Phạm Duy Tất được thăng Chuẩn Tướng chỉ để dẫn quân dân triệt thoái theo
Liên Tỉnh Lộ 7, con đường lâu ngày không dùng trở thành "một con đường
máu", đúng nghĩa chữ "máu". Tại "Con Đường Tử Thần" này, Y Sĩ Trung Úy
Biệt Động Quân Đoàn Trung Bửu, QYHD khóa 21 của chúng tôi, đã chết khi
cố vượt qua một con sông trong chuyến di tản. Cũng trong lúc di tản của
Quân Đoàn II, Y Sĩ Trung Úy Bộ Binh Thái Văn Châu, khóa QYHD 21 của
chúng tôi, bị bắn chết ở biển Quy Nhơn khi cố bơi từ bãi biển ra tàu Hải
Quân.
Những đàn anh Quân Y hy sinh trước kia như
Đỗ Vinh, Trương Bá Hân, Trần Ngọc Minh, Lê Hữu Sanh, Bửu Trí, Đoàn Mạch
Hoạch... đều được vinh danh là anh hùng. Tên của các Quân Y sĩ là tên
những Quân Y Viện trên khắp các vùng chiến thuật. Ai biết đến, ai nhắc
đến Đoàn Trung Bửu, Thái Văn Châu... ? Lúc chôn, nếu có tìm được xác
chắc cũng không được phủ mảnh cờ vàng ba sọc đỏ.
Đoàn Trung Bửu (trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài Gòn 1967-1974)
Thái Văn Châu (trích từ Kỷ Yếu Y Khoa Sài Gòn 1967-1974)
Ngày 14 tháng Ba 1975, tôi ra đơn vị.
Ngày 19 tháng Ba 1975, Quảng Trị bị tấn công.
Ngày 20 tháng Ba 1975 , Quảng Trị bỏ ngỏ.
Ngày 23 tháng Ba 1975, Tổng Thống Thiệu ra lệnh Trung Tướng Tư
Lệnh Vùng I Chiến Thuật, Ngô Quang Trưởng, bỏ Huế. Tin đồn lúc đó là sẽ
có chia cắt đất nước, nhượng cho miền Bắc từ đèo Hải Vân trở ra.
Một buổi chiều nắng héo hắt, tôi đến một quán bên đường ở Quốc Lộ
1, gần đèo Hải Vân, ngồi uống bia tình cờ nghe ông chủ quán nói chuyện
với vợ là dân và lính chạy từ phía Bắc vượt đèo chạy về hướng Đà Nẵng.
Tôi ra khỏi quán, đứng bên đường lặng nhìn lên đèo Hải Vân, những đoàn
xe nhà binh chở những quân lính trong đó có lính của Sư Đoàn 1 Bộ Binh,
Biệt Động Quân và Thủy Quân Lục Chiến... từ Huế vượt đèo chạy qua. Tôi
nghĩ nhiều đến Nguyễn Tiến Dũng và Vũ Đức Giang, hai bạn thân nhất của
tôi vừa ra trình diện hai Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, và thầm tự hỏi
không biết hai đứa đó có còn sống hay không và đang ở đâu? Chu Kỳ Đức,
Nguyễn Đình Ngọc, Nguyễn Đỗ Quan... ra Sư Đoàn I Bộ Binh không biết đang
làm gì? Còn bao nhiêu bạn cùng khóa khác đang hay vừa đến đơn vị, chả
biết đường lối gì cả, không biết tình trạng ra sao?... Đứng từ chiều đến
lúc xẩm tối, nhìn lên đèo Hải Vân giờ này đã biến thành một chuỗi sáng
trên trời cao vì ánh sáng của những ngọn đèn của đoàn xe nối tiếp nhau
tưởng như không bao giờ hết. Nhìn đoàn xe tôi chỉ mong ước sao cho các
bạn mình Giang, Dũng, Đức, Ngọc, Quan... cũng có ở trên những xe đó.
Những ngày sau đó Đà Nẵng hỗn độn vì những tin đồn. Dân chúng
bắt đầu được di tản bằng máy bay. Những chuyến máy bay ở phi trường làm
náo động những người còn lại. Những chuyện người tranh nhau, giành giật
để có chỗ thoát, người chết khi bám vào bánh xe khi máy bay đang cất
cánh, đều là những chuyện thật.
Ngày 29 tháng Ba 1975, Đà
Nẵng chưa đánh đã di tản! Từ Quế Sơn tôi chạy về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3.
Không thấy bóng một ông Sĩ Quan nào nữa. Chỉ còn vài người lính đang
nhặt nhạnh vài đồ đạc lẩm cẩm. Họ ngạc nhiên khi thấy tôi hãy còn lảng
vảng và ngơ ngác. Gọi Tổng Y Viện Duy Tân có thì biết mọi người đã
di tản từ ngày hôm trước. Tôi cũng không biết làm sao có phương tiện ra
Đà Nẵng, không lẽ lại chạy bộ nữa? Chuyện thì dài dòng, nhưng vắn tắt
tôi may gặp Lê Văn Thu, bác sĩ QYHD 20, ra trường trên tôi một lớp, lái
xe gắn máy Honda chạy ra. Thu chở tôi ngược lại vào trong trại lúc này
đã gần như trống không, lấy cái xe Bridgestone, một xe gắn máy cũ khác
của anh đưa cho tôi chạy. Vào Đà Nẵng, nhớ đến anh ruột của Nguyễn Tiến
Dũng là Nha Sĩ Thiếu Tá Nguyễn Nhật Thăng, tôi ghé phòng mạch Nha Khoa
của anh ở dưới phố để rủ anh chạy ra bến tàu, thì anh Thăng đã đi rồi,
nhưng thật bất ngờ gặp Nguyễn Tiến Dũng, vừa thoát được đến Đà Nẵng cũng
ghé tìm anh ruột. Ôm nhau mừng chảy nước mắt. Hỏi thăm ngay về Vũ Đức
Giang. Tiểu đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến của Giang đã hoán chuyển chỗ với
tiểu đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến của Tiến Dũng. Nguyễn Tiến Dũng về gần
Huế do đó chạy được đến Đà Nẵng. Giang như vậy đã ở Quảng Trị.
Đúng là số trời đã định, nếu Dũng và Giang không đổi chỗ thì
có
lẽ lúc đó tôi không gặp Dũng. Không Dũng thì Giang. Không Giang thì
Dũng. Cả hai đều là bạn thân thiết của tôi. Vậy thôi!
Tôi và Tiến Dũng may mắn không tưởng tượng, như có phép lạ giúp, thoát
về được đến Cam Ranh. Nước biển Cam Ranh vẫn trong xanh mát rượi, bãi
cát vẫn trắng mịn với những con dã tràng xe cát, nhưng thành phố đã hỗn
loạn. Toàn là người với quân phục và xe nhà binh, lác đác tiếng súng.
Không được thêm tin tức gì của Giang. Những đơn vị quân đội chạy từ
hướng Bắc xuống đang tái phối trí, rồi chỉ để sửa soạn di chuyển sâu
thêm về hướng Nam! Các đoàn quân theo nhau rút lui. Màu đỏ của máu lan
dần trên bản đồ hình chữ S từ Bắc xuống Nam. Các thành phố Cam Ranh, Nha
Trang... rồi cũng tự nhiên bỏ ngỏ để bộ đội miền Bắc dễ dàng vào chiếm
đóng. Triệt thoái và di tản nhanh đến nỗi có khi quân miền Bắc vài ngày
sau mới đến kịp để tiếp thu. Chính họ cũng phải ngạc nhiên! Thật là kỳ
lạ.
1 tháng Tư: mất Nha Trang và Quy Nhơn.
Tôi không hiểu gì cả! Chỉ biết chạy, rồi chạy, xong rồi lại
chạy..., tuy đầu óc thỉnh thoảng lại nghĩ đến Vũ Đức Giang người bạn
thân, hiền lành. Tôi theo Nguyễn Tiến Dũng lên một tàu Hải Quân từ Cam
Ranh di tản về Vũng Tàu. Trên chiếc tàu Hải Quân đó, cả Sư Đoàn Thủy
Quân Lục Chiến, Thiếu Tướng Tư Lệnh Bùi Thế Lân, và quân lính chắc chỉ
còn non một ngàn người. Nguyễn Bá Linh bạn cùng khóa QYHD 21 cũng vừa ra
đơn vị, quần áo nhàu nát cũng ở trên tàu, kể chuyện rằng, trong cuộc
triệt thoái hỗn loạn ở Thuận An, phải bơi ra biển đến tàu để tìm đường
thoát. Tôi cố tìm Vũ Đức Giang mà không thấy. Khi hỏi thăm thêm mọi
người cả người tôi lạnh cứng, khi biết tin Giang bị kẹt và bị bắt ở bãi
biển Thuận An. Nắng vàng trong sáng, biển xanh biếc bỗng nhạt nhòa.
Chúng tôi thoát khỏi Cam Ranh ngày trước thì ngày sau được tin thành phố
di tản:
3 tháng Tư: mất Cam Ranh.
Rồi tàu hải quân cũng đưa chúng
tôi cũng về đến Vũng Tàu bình yên và tôi tìm lại được tàn quân của Sư
Đoàn 3 Bộ Binh đang tái phối trí ở trại Vạn Kiếp được vài ngày. Vào
trình diện Tiểu Đoàn 3 Quân Y, tôi không gặp một sĩ quan nào cả. Ám ảnh
bởi hình ảnh tù tội, chết chóc của bạn bè, đầu óc trống rỗng, mỏi mệt
chán chường và cũng chả biết làm gì ở đó nữa, tôi trở về lại Sài Gòn.
Tôi gặp lại Trương Văn Như với quân phục nhảy dù mới, đang sửa soạn theo
đơn vị ra trận chiến Khánh Dương. Đến lúc này vẫn nhiều người tin tưởng
sẽ có hiệp định chia cắt lãnh thổ từ khoảng giữa miền Trung trở vào thì
sẽ được là vùng tự do, không cộng sản.
Sài Gòn lên cơn
sốt, Sài Gòn hoảng hốt, khi một số dân đã bắt đầu được Mỹ di tản bằng
máy bay sang đảo Guam. Tin đồn sẽ có đảo chánh tạo niềm hy vọng cuối
cùng khi Cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đang ra thị sát mặt trận và
tuyên bố sẽ ở lại chiến đấu đến cùng.
Ngày 20 tháng Tư
1975, sau chiến thắng oai hùng ở Xuân Lộc, Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và Sư
Đoàn 18 Bộ Binh phải triệt thoái.
Ngày 21 tháng Tư 1975
Tổng Thống Thiệu từ chức và khẳng định với quốc dân và chiến hữu trên
Truyền Hình Việt Nam là sẽ trở lại với Quân Đội để chiến đấu. Ông trao
quyền lại cho Phó Tổng Thống già yếu Trần Văn Hương và đêm 25 tháng Tư,
ông Thiệu đã ở Đài Loan!
Thiếu Tướng Không Quân
Nguyễn Cao Kỳ sau cũng bay mất trên trực thăng cùng Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng! Ông Nguyễn Cao Kỳ đã từng nói “Tôi sẽ biến Sài Gòn trở thành một Leningrad thứ hai”.
Leningrad là trận chiến nổi tiếng của Hồng quân Liên Xô trước
quân phát xít Đức, kéo dài gần trên dưới 1000 ngày đêm, bắt đầu
từ tháng Bảy 1941.
Các vị Tướng như Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai,
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ... không có những lời
tuyên bố lớn lao như vậy đã ở lại tuẫn tiết. Đó là những Tướng anh hùng
liệt quốc, "những Hoàng Diệu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa".
Ngày 28 tháng Tư 1975 Cụ Trần Văn Hương nhượng vị Tổng Thống cho Đại
Tướng Dương Văn Minh, tưởng sẽ làm vừa lòng Bắc Quân, nhưng tình thế đã
tuyệt vọng hoàn toàn.
Ngày 30 tháng Tư 1975, Tân Tổng
Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Từ bến tàu Bạch
Đằng, trong đêm tối, tôi may lên được và theo tàu Hải Quân HQ1, những
phút cuối cùng trước khi tàu rời bến. Như ở một giấc mộng hãi hùng,
trong cơn hỗn loạn, tôi di tản khỏi Sài Gòn, thành phố thân yêu của tuổi
trẻ thế hệ chúng tôi, đang "hấp hối".
Những người
bạn khác cũng may mắn và sau tôi gặp lại được là Nguyễn Tài Mai, Bạch
Thế Thức, Nguyễn Tiến Dũng... Biết bao bạn cùng khóa Quân Y Hiện Dịch 21
chúng tôi không may như vậy phải ở lại cực khổ thể xác và tinh thần
trong các trại cải tạo, đó là số phận của Trần Trung Hòa, Trương Văn
Như, Chu Kỳ Đức, Nguyễn Phan Khuê,Trương Ngọc Hiền, Nguyễn Đăng Cung,
Nguyễn Chí Vỹ, Nguyễn Văn Quốc... Có những người sau đó chết mất xác, ở
biển khơi, khi vượt biên như Nguyễn Trọng Nghĩa, Nguyễn Xuân Thiều...
Qua đến nước Mỹ, khá lâu tôi bặt tin, đến mãi về sau mới " gặp"
lại Vũ Đức Giang qua những chi tiết đọc được trong sách báo và một vài
lần ở trong giấc mơ.
Trong quyển "Những Uất Hận
Trong Trận Chiến Mất Nước 1975" do Phạm Huấn viết, chương 15 là những
trang sách về "Những Y Sĩ Tiền Tuyến". Vào những giờ phút cuối cùng khi
Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến đang triệt thoái một cách tuyệt vọng tại
bãi biển Thuận An:
"... Bác Sĩ Vũ Đức Giang, Y Sĩ
Trưởng Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến dù đã lên chiếc LMC đầu tiên,
sáng ngày 26-3-1975 cùng với các thương binh, nhưng vì danh dự của một
cấp chỉ huy, anh lại trở xuống..."
Cao Xuân
Huy, trong quyển sách lừng danh "Tháng Ba Gãy Súng". Quyển sách của
những khôi hài đen đầy máu, nước mắt, tàn bạo, căm hờn...nói về cuộc
triệt thoái của Thủy Quân Lục Chiến. Đây là đoạn tác giả đã bị bắt làm
tù binh ở bãi biển Thuận An:
"...Ngày 26 tháng 3 là
ngày cả một Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị khoảng một đại đội du kích
Việt Cộng bắt sống. Chuyện không bao giờ tin được đã xảy ra...
...Tôi còn gặp lại cả một thằng bạn cũ, cùng học với nhau hết
bậc trung học ở trường Nguyễn Trãi, khi chúng tôi đang bị trói chung
bằng một sợi dây điện dài. Vũ Đức Giang. Tôi ngạc nhiên kêu lên:
- Giang, mày làm gì mà cũng bị bắt ở đây?
- Ơ Huy, cả chục năm mới gặp lại mày.
- Tao hỏi mày làm cái giống gì mà cũng bị bắt ở đây?
- Tao Thủy Quân Lục Chiến.
- Mẹ kiếp, cậu đếch tin, mày cũng dám giết người à. Mà sao ở Thủy Quân Lục Chiến tao không gặp mày.
- Tao mới ra trường về Thủy Quân Lục Chiến khoảng nửa tháng nay.
- Mày bác sĩ hở?
- Ừ, tao về tiểu đoàn 7..."
BS TQLC Phạm Vũ Bằng viết trong bài "Thủy Quân Lục Chiến-Binh Chủng Kiêu Hùng":
"...Theo
các Quân Y tá LĐ 147 cho biết thì Bác Sĩ Vũ Đức Giang và vài quân y tá
TĐ 7 khiêng thương binh lên tàu sau đó anh điểm danh y tá TĐ 7 rồi tất
cả cùng trở xuống để tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu.
Khi tôi thay BS Rậu làm Đại Đội Trưởng Quân Y LĐ 147 thì một hôm Hạ Sĩ
Nhất Quân Y Nguyễn Văn Được - người sống sót từ “Pháp Trường Cát Thuận
An”- hỏi tôi:
-Ông thầy có biết BS Vũ Đức Giang TĐ 7 không?
-Biết. Mà có chuyện gì?
-Ổng ngon quá! Ngày 26/3/1975 ổng và mấy đệ tử khiêng
thương binh lên tàu. Xong việc ổng điểm danh từng y tá TĐ 7 một rồi tất
cả xuống tàu lên bờ về lại TĐ. Em giữ ổng lại nói “BS trở lại thì
100/100 là chết” nhưng ổng trừng mắt la em “chú mày đừng xúi bậy, TĐ
đang chiến đấu sẽ có thêm thương bình, anh bỏ đi sao đành” . Xong rồi
ổng xuống tàu đi dưới làn mưa đạn thượng liên của VC, em nhìn mà thấy
ớn. Em nói thiệt tình đó ông thầy.
-Thì tao có nói mày
không thiệt tình hồi nào đâu! Có điều chú mày bậy thật, Bác Sĩ TQLC
không bao giờ đào ngũ trước hàng quân!..."
Và cũng trong "Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975" của Phạm Huấn, về Vũ Đức Giang:
"...Cuối năm 1976, lại một lần nữa, muốn bảo vệ danh dự của
một Quân Y Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, anh đã tự tử chết trong trại
tù ở phi trường Ái Tử, ngoài Đông Hà, Quảng Trị..."
Cuối cùng bài "Khóc Bạn" của bác sĩ quân y Hoàng Thế Định, trên Tập
San Y Sĩ Việt Nam tại Canada số 112, trang 119, viết về giây phút cuối
cùng của Vũ Đức Giang năm 1976 tại trại tù cải tạo Ái Tử:
"...Buổi
cơm chiều, Giang cáo bệnh không ăn. Gần cuối lán, lò mò tối, anh nằm
trùm kín, im lặng...anh nằm trùm chăn im lặng. Anh em vẫn nghĩ là Giang
bệnh, để yên anh ngủ. Khoảng một giờ sau, mọi người nghe Giang vùng mạnh
mấy cái trong chăn rồi "ự, ự" lên mấy tiếng. Dược sĩ Thuận, người vẫn
thường nằm cạnh Giang, vụt đứng dậy, chạy lại giật tung chăn trên người
bạn... Mọi người xúm lại. Toàn thân Giang rung lên, co quắp tay chân rồi
từ từ duỗi ra, bất động...
...Nguyễn
Đình Ái, Y sĩ trung úy trưng tập, cùng đơn vị với tôi. BS Ái giật chiếc
ống nghe trên đầu nằm của Tôn Thất Thắng, Y tá trại 3. Ái vừa nghe tim
vừa tìm mạch ở cườm tay bạn. Không còn nhịp tim mạch...
...Trong khi chờ đợi y tá Tôn Thất Mừng sửa soạn adrénaline,
BS Ái bảo DS Thuận xoa bóp lồng ngực Giang, còn mình thì dùng phương
pháp bouche à bouche, thổi hơi cho bạn. BS Ái chích Adrénaline trực tiếp
vào cơ tim Giang và cùng DS Thuận tiếp tục làm cấp cứu hồi sinh
Dù biết rằng nếu có hiệu quả thì trong vài phút, nhưng Ái
và Thuận vẫn cố cứu bạn suốt nửa giờ. Vô vọng, hai người quỳ gối bên xác
bạn...
...Tôi tin tài của BS Ái, biết
chẳng còn gì cứu vãn được nữa, nhưng vẫn đến ngồi bên Giang, lật chăn để
nhìn bạn lần cuối. Tôi quan sát thấy đồng tử của người bạn xấu số đã
hoàn toàn nở rộng.Thật hết rồi! Tôi ghé sát miệng Giang và ngửi mùi hăng
hắc đặc biệt ở những người tự tử bằng Chloroquine..."
Năm 1976, Y Sĩ Trung Úy Hiện Dịch Thủy Quân Lục Chiến Vũ Đức Giang qua đời, "hưởng dương" 28 tuổi.
Tôi nhớ Vũ Đức Giang. Tôi nghĩ đến hai em của Giang. Tôi nghĩ
đến Mai, người vợ chưa cưới của Giang. Tôi nghĩ nhiều đến mẹ của
Giang...
Tôi nhớ nụ cười hiền hòa của Giang.
Tiếng hát Ngọc Long từ đâu đó vọng về:
"...Chiều mơ anh cầm đàn về Trường Sơn bát ngát, ngắm mây bay miệt mài tiếng hát...".
Vũ Đức Giang đã về với rặng Trường Sơn bát ngát, về với Hoàng Liên Sơn hùng vĩ.
Vũ Đức Giang đã ở lại với sông Hồng cuồn cuộn sóng đỏ và ở mãi với dòng Cửu Long xanh mát, mênh mông...
Phạm Anh Dũng
San Diego, California, USA
(viết xong tháng Ba 2025 để kỷ niệm 50 Năm Quốc Hận, Tháng Tư Đen 1975)





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét