Tôi mở mắt ra, ngó qua khung cửa sổ, thấy ngoài trời đã xâm xẩm tối, nhìn lên chiếc đồng hồ treo trên tường, nó đang chỉ đúng bẩy giờ. Vươn vai ngồi dậy, tôi lẩm bẩm:
_ Trời ơi, mình ngủ khiếp thật, đánh một hơi mười mấy tiếng luôn.
Nói rồi, tôi xuống giường định đi tìm chồng, thì đã thấy anh lù lù bước vào phòng, miệng toe toét:
_ Ngủ đã nhỉ, mấy lần anh vào nhìn em, sờ mũi, hì hì,thấy còn thở không sao, anh tính gọi em dậy ăn cơm nhưng thấy em ngủ say quá nên thôi. Bây giờ đi đánh răng rửa mặt, xong rồi ra ăn, anh chờ. Đã thấy đói chưa?
Tôi gật gật cái đầu:
_ Ở Việt Nam về lại Mỹ, trái múi giờ, hơn nữa đi xa mệt, nên em ngủ một giấc không biết trời đất là gì nữa. À, anh biết không, lúc ở Việt Nam được mọi người đưa đi ăn những món mơ ước, thích lắm luôn. Đã lâu lắm rồi em không được ăn lại món bún ốc, mà ốc tươi nhe, ngon tuyệt vời không như ốc đông lạnh ở đây, dai nhanh nhách như nách bà già ấy, chán bỏ xừ.
Anh cười hỏi tôi:
_ Em ăn nách bà già chưa mà biết nó dai, hì hì.
_Ối giời, chả cần ăn em cũng biết là nó dai rồi, già thì cái gì mà chẳng dai. Thôi không nói với anh nữa, em đi đánh răng đây.
Sau khi rời Việt Nam qua Mỹ định cư, 15 năm sau tôi quay trở lại Saigon lần đầu, để chịu tang ngày Bố tôi mất. Tất cả anh chị em tôi ở khắp bốn phương đều về, tề tựu đông đủ cả mười một đứa, không thiếu đứa nào. Bố tôi hẳn cũng vui lắm nơi chín suối. Tuy vậy ngày chị cả tôi mất, mấy chị em tôi ở ngoại quốc không một đứa nào về được, để đưa chị tôi đi nốt đoạn cuối của cuộc đời, vì lúc đó đang trong mùa cô vít, thế cho nên chúng tôi quyết định lần này, tất cả vào lúc tuổi đã xế chiều, ráng nhân ngày giỗ Bố, cùng về gặp mặt nhau một lần, để sau này không ai phải ân hận, như đã ân hận không được nhìn lại người chị cả thân yêu lần cuối cùng. Vì vậy, đây là lần thứ hai và có lẽ cũng là lần sau chót tôi về lại Việt Nam.
Sau bữa giỗ, chúng tôi chia tay nhau, ai về nước nấy. Có người về ngay ngày hôm sau, có người ở lại hai, ba ngày. Riêng tôi, tôi ở lại VN một tuần, muốn được xem lại cái thành phố Saigon thân yêu của tôi, cái thành phố hiện đã bị mất đi cái tên đẹp đẽ vang danh một thời “SAIGON Hòn Ngọc Viễn Đông”, đã trở thành như thế nào, sau khi thay tên và thay cả cái vóc dáng hiền hòa, thanh lịch của những ngày xa xưa ấy…
_Uyên nè, mấy bữa nay sẽ bắt cóc Uyên đi với cô Ba một tuần lễ dạo quanh Saigon, có OK không?
Tôi ôm cổ cô cháu gái con bà chị, thủ thỉ bên tai nó, cô bé cười lém lỉnh:
_Dễ mà cô Ba, miễn là cô Ba cứ cho Uyên ăn ngon, mặc đẹp, tiền xăng chi đầy đủ là cháu sẽ đưa cô tới bến luôn mà.
Tôi cười sảng khoái:
_Yên chí đi, cô sẽ chi đẹp, “Dịt Kìu” mà.
_Cô Ba, cô muốn đi đâu trước đây.
_Đi ăn sáng, chỗ nào ngon, mình tới đó.
_ Uyên nghe nói cô thích ăn bánh cuốn, cháu đưa cô tới nơi này bán bánh cuốn Thanh Trì ngon lắm, cô chịu không?
_ Vậy là đúng gu cô rồi, đi thôi. À mà Uyên này, chỗ này có “cháo mắng , bún chửi” không đó, cô ớn cái khỏan này ghê lắm.
Con bé cười:
_ Không có đâu, đây là Saigon mà.
_ Ừ, cô quên mất, Saigon có văn hóa tốt, đạo đức hay mà, đâu có mất dạy như vậy.
Thế rồi, theo yêu cầu của tôi, Uyên chở tôi đi thăm lại căn nhà cũ. Trong đầu tôi cứ nghĩ mình sẽ thấy lại hình dáng quen thuộc ngôi nhà ngày xưa mình đã ở, nhưng tôi đã sững sờ khi Uyên chỉ cho tôi một căn lầu cao bốn năm tầng.
_ Nhà cũ của mình đó cô Ba.
_ Sao…sao…
Thấy điệu bộ của tôi như vậy, Uyên bật cười, nó nói:
_ Cô Ba không thấy thành phố mình có nhiều nhà lầu hả? bây giờ đất hẹp, người đông, nhà nào bây giờ cũng xây cao ngất ngưởng lên như vậy đó, mới đủ chỗ ở. Có những nhà đất bé tí mà họ cũng lên lầu, trông kỳ cục lắm. Lát nữa con chỉ cho cô xem.
Quả đúng như lời cô cháu nói, tôi đã thấy có những dãy nhà cái to, cái bé, cái dầy, cái mỏng, cái cao, cái thấp, trông rất là mất thẩm mỹ. Nhưng biết làm sao, “đất hẹp , người đông” mà. Dân khắp nơi tứ xứ đổ vào Saigon, một miếng mồi béo bở cho những kẻ chưa hề biết đến cái văn minh mà dân miền Nam từng hưởng thụ dư thừa là gì, nhất là cái loại người, tự xưng là chiến thắng, từ miền Bắc tràn vào, chiếm đất, chiếm nhà, rồi xây dựng vô thứ tự, không có quy hoạch, không có óc thẩm mỹ, bảo sao Saigon chẳng trở thành tạp nham như vậy.
Không biết đã có ai đi trên con đường mang tên Đồng Khởi ( vùng lên mất Tự Do ấy) vào buổi tối chưa, có ai cho rằng trang trí tùm lum, cờ quạt, hoa đèn giăng đầy đường là đẹp không ?Riêng cá nhân tôi, tôi chả thấy nó đẹp ở chỗ nào, trông vừa quê mùa, lòe loẹt như phường tuồng, thấy mà thương cho Saigon hoa lệ, cao sang ngày nào.
Phải công nhận trên mọi phương diện, Saigon bây giờ đã thay đổi rất nhiều, những ngôi nhà chọc trời xuất hiện, những xe hơi hàng hiệu trên đường phố, những siêu thị đắt tiền mang tên những thương hiệu nổi tiếng của nước ngoài, những nhà hàng cao cấp, tất cả những thứ ấy quả đúng là đã đem cho Việt Nam một bộ mặt mới, một cái dáng vẻ văn minh không thua gì các nước tân tiến, nhưng cách hành xử thì chả văn minh chút nào. Tiếc thay những đổi thay này chỉ nhằm phục vụ cho một đám người tư bản đỏ, còn tầng lớp những người trung lưu và nghèo khó thì đừng mong mơ tưởng. Cho dù có văn minh hay tiên tiến đến thế nào, thì điều quan trọng vẫn là cái danh hiệu Saigon Hòn Ngọc Viễn Đông, ngày nào dưới thời chính thể Việt Nam Cộng Hòa đã bị mất đi mãi mãi, có còn chăng, chỉ còn lại một niềm kiêu hãnh trong lòng người dân miền Nam Việt Nam mà thôi.
Nếu có ai nói với tôi rằng, tôi yêu quý Hà Nội thật nhiều vì đây là cái nôi nuôi dưỡng tuổi thơ ngọc ngà của tôi, thì cũng đúng thôi. Tôi nhớ hồ Hoàn Kiếm với dáng cầu Thê Húc lung linh soi bóng mặt hồ, nhớ hồ Bẩy Mẫu với hương sen ngan ngát không gian, nhớ những con đường tới trường với những hàng sấu vào mùa sấu ra trái, nhặt những trái sấu rụng dưới đường, chùi nhanh vào áo rồi đưa lên miệng, nó chua chua, chát chát thế mà nó lại ngon làm sao… Tôi nhớ nhiều lắm, nhưng tất cả những thương yêu ấy, quý mến ấy, nhớ nhung ấy, không thấm vào đâu khi tôi nghĩ về Saigon. Không có gì có thể so sánh được với tình cảm mà tôi dành cho Saigon. Vì Saigon đã cho chúng tôi rất nhiều. Sài gòn đã dang rộng vòng tay đón gia đình tôi khi chúng tôi phải xa xứ vì giặc Cộng Sản, đã bao bọc thời niên thiếu của tôi, đã dạy tôi tri thức, dạy cho tôi nghĩa hai chữ tình người. Và cũng tại nơi đây tôi đã có một đời sống, an lành, ấm no, hạnh phúc.
Năm 1954, chuyến tầu thủy Marseille cặp bến cảng Bạch Đằng tại Saigon, đưa các gia đình của những nhân viên, công chức, đang làm việc trong chính phủ quốc gia, đi trong chuyến tầu đó xuống cảng và sau đó tầu quay về Pháp. Từ năm đó đến năm 1992 là ngày gia đình tôi rời đất nước Việt Nam yêu dấu của mình, để đi định cư qua Mỹ theo diện HO, tính ra là 38 năm. Tuy nói là sống ba mươi tám năm ở Saigon, nhưng để sống mà có được tất cả sự đầy đủ, ấm no, hạnh phúc, tự do, độc lập, nhân quyền, đạo đức, tôn giáo, tín ngưỡng của một con người đúng nghĩa, thì gia đình tôi chỉ được sống trọn vẹn có hai mươi mốt năm. Số năm còn lại là những năm tháng bị dọa dày trong hỏa ngục đỏ của cộng sản. Bắt đầu từ tháng 4 năm 1975, việc đầu tiên là chính quyền cộng sản bắt và đưa các sĩ quan quân lực VNCH vào tù, lao động khổ sai, dưới chiêu bài học tập cải tạo, sau khi đánh lừa người dân miền Nam là chỉ học trong 10 ngày, kế đó là đi biền biệt không hẹn ngày về. Tiếp theo việc chia cách gia đình dân miền Nam, là những chính sách tàn nhẫn dùng để đày đọa, bần cùng hóa người dân miền Nam Việt Nam như :Đuổi dân đi kinh tế mới để chiếm nhà, chiến dịch tư sản mại bản để chiếm tài sản, tịch thu và đốt sách vở để hủy diệt một nền văn hóa nhân bản…
Dù phải sống trong một nhà tù lớn của chế độ Cộng sản, một chế độ mất nhân tính, tàn bạo , dã man , lọc lừa , gian dối, đói nghèo, một khoảng thời gian là mười mấy năm, nhưng những con người của miền Nam Việt Nam từ 1975 trở về trước, không hề bị biến chất cũng như tiêm nhiễm những thói hư tật xấu đó. Họ luôn giữ được nền đạo đức căn bản, biết thưa, biết dạ, biết nói lời cám ơn, lời xin lỗi, chứ không hề có thái độ mất dạy , vô đạo đức loại “ mày có biết bố mày là ai không?” Một câu nói bất hủ chứng tỏ sự vô giáo dục đến cùng tận của bọn người chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng nói với bất kể ai dù đó là người lớn tuổi. Bọn họ là người của một thành phố mang tên một tử thi chưa chôn, chứ không phải là của thành phố Saigon thanh lịch ngày nào.
Nhắc đến Saigon, lòng tôi lại gợn lên những niềm nhớ thương khôn cùng. Những nỗi vui và cả những nỗi buồn, bất giác lại trở về hiển hiện trong tâm trí tôi.
Nhớ về những tháng ngày niên thiếu: một kỷ niệm vui vui chợt thoáng qua hồn, ngày chúng tôi được các soeur dẫn ra đường Ngô Đình Khôi ( sau tên là đường 1 tháng 11) khúc gần Tổng Tham Mưu, đứng đó chờ đón Quốc Vương và Hoàng Hậu Thái Lan qua thăm Việt Nam. Khi đứng chờ, mỗi học sinh được phát cho một cây kem và một đồng. Hãy thử tưởng tượng xem lũ học sinh nhỏ bé chúng tôi, đã không phải đi học mà lại được đi chơi, được ăn kem, còn được cho mỗi đứa một đồng, hỏi chúng tôi sướng biết là ngần nào, và cái sướng ấy còn sướng hơn khi thấy mặt Hoàng Hậu Thái lan đẹp vô cùng. Vậy làm sao mà không nhớ cho được!
Tuổi thơ đi qua, tuổi biết yêu đã đến. Và Saigon nơi này đã ấp ủ tình yêu của tôi.
Tôi đã gặp một nửa của đời mình trong ngày ghi danh ở đại học Luật Khoa. Cô nữ sinh mang tiếng ngổ ngáo trong lớp, đã phải xếp lại móng vuốt của mình trước ánh mắt đa tình của chàng trung úy Võ Bị, sĩ quan Quân Lực VNCH, đẹp trai và lì lợm.
…Rồi một hôm có chàng trai trẻ đến nơi này
Đời em có một lần, là lần tim em thấy yêu chàng…
( Anh Việt – Thơ Ngây).
Rồi hai đứa yêu nhau, những ngày nghỉ phép, anh về ngang trường Luật đón tôi. Chúng tôi lang thang trên những con đường đầy lá me bay trong chiều nhạt nắng, đi không định hướng ,chỉ biết có hai đứa bên nhau là hạnh phúc vô cùng. Rồi, lúc thì chúng tôi đến đường Nguyễn Tri Phương ăn nghêu hấp, lúc thì ra góc Pasteur Lê Lợi uống nước mía, ăn phá lấu, khi thì vào Brodard ăn kem, khi thì cine’Lê Lợi, Vĩnh Lợi, Đại Nam, Rex, Eden…Và chính Eden là nơi anh dạy cho tôi biết thế nào là hôn. Không có ai bảo cho tôi biết nụ hôn nó ngọt ngào như thế nào, riêng tôi, lúc đó tôi chỉ biết nhắm chặt mắt lại, rồi thấy tim mình đập loạn xạ và hai bàn tay run rẩy vì …sợ mà thôi. Tình yêu , ôi tuyệt vời làm sao, tôi không thể nào quên được những cảm xúc ấy, những lối đi, những con đường, những hàng quán đã mang đậm dấu ấn của hai đứa bên nhau. Những ngày đẹp, trời anh nắm tay tôi đi dưới những hàng cây sao, nhìn hoa sao quay quay rơi rụng từ trên cao xuống, giống như những đàn bướm bay đầy trong không gian, hay trong những lúc mưa gió đầy trời, anh đón tôi về học, anh mặc poncho, chùm tôi kín mít, ngồi đằng sau xe, ôm lưng anh, ấm áp biết bao nhiêu. Thế rồi chúng tôi lấy nhau
Cuộc đời nhiều khi cho bạn một hạnh phúc tràn đầy, nhưng cũng có lúc niềm hạnh phúc ấy lại không trọn vẹn như bạn mong đợi. Với tôi, niềm vui tưởng như mơ, nào ngờ bất hạnh bỗng nhiên đổ ập xuống đời tôi. Ngày tôi lên xe hoa là ngày người mẹ yêu quý nhất đời của tôi ra đi mãi mãi. Saigon đã ôm thân thể giá lạnh của Mẹ tôi trong mộ huyệt của nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi trong sáu năm trường, sau này khi giải tỏa nghĩa trang, chúng tôi đã đưa Mẹ vào thờ ở chùa Đại Giác.
Tôi còn nhớ rõ như in ngày đưa tiễn Mẹ tôi. Hôm ấy trời hơi mưa lất phất. Xe tang của Mẹ ngừng trước cổng nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Khi chúng tôi đến nơi đã thấy một dàn các em nam sinh, quần xanh, áo trắng, đứng làm thành một hàng dàn chào từ cổng đến mộ huyệt. Khi các đạo tì khiêng quan tài của Mẹ tôi đi vào cổng nghĩa trang thì một tiếng hô của Cha phụ trách:” Chào”. Tất cả các em đều đứng thẳng người đầu cúi xuống , rất nghiêm trang và kính cẩn. Mới đầu tôi hơi ngạc nhiên vì hình ảnh này. Sau đó, mọi người mới biết các em là bạn học cùng lớp với các em trai tôi ở trường Lasan Đức Minh. Các em đã được Cha Hiệu Trưởng nhờ làm một hàng rào danh dự đưa tiễn Mẹ của người bạn học cùng lớp đến nơi an nghỉ cuối cùng. Khi đám tang vừa đến huyệt, Bố tôi đã lại cám ơn cha phụ trách và xin cha đưa các em ra về. Trong khi đó các em trai tôi, bảy đứa con trai từ lớn tới nhỏ, mặc áo sô, đội mũ mấn, tay cầm gậy vông đứng đối diện với quan tài của Mẹ. Mỗi em có một người dắt đi giật lùi trước quan tài Mẹ cho đến nơi hạ huyệt, theo đúng nghi lễ “ Cha đưa, Mẹ đón” có nghĩa là khi cha chết, các con trai, gái đều đi sau quan tài. Còn khi đưa tang Mẹ thì tất cả con trai đều phải đi giật lùi phía trước quan tài mẹ giống như đi đón người, con gái và con dâu đều đi phía sau. Tục lệ này bây giờ không biết có gia đình nào còn theo hay không?
Hôm Uyên chạy xe ngang cung thiếu nhi ở đường Hai Bà Trưng, nơi mà ngày trước là nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, tôi thấy lòng chợt nhói đau, và nhớ đến những ngày xa xưa năm nào, thỉnh thoảng khi đi học về, tôi hay vào thăm mộ mẹ và thủ thỉ cùng Mẹ về những vui buồn của cuộc sống. Bây giờ tất cả chỉ còn là dĩ vãng, buồn làm sao, giọt nước mắt chợt rơi trên gò má, tôi thấy nhớ Mẹ tôi vô cùng.
Tôi yêu Saigon không chỉ là những niềm vui, hay những nỗi buồn đã gắn kết với cuộc đời mình, mà cả những gì xảy ra ở chung quanh cuộc sống hàng ngày, nó đã trở thành những ký ức không tên, làm mình nhớ mãi không rời.
Mấy ngày ở lại Saigon tại nhà cô cháu, trong con hẻm nhỏ bình dân, tôi chưa hề được nghe thấy tiếng rao hàng ngày xưa , chỉ có một lần độc nhất một chiếc xe ba gác bán rau củ quả, chạy vào mở nhạc vàng inh ỏi qua một chiếc máy phát thanh. Thấy Uyên hấp tấp chạy ra, tưởng có chuyện gì, tôi gọi giật con bé lại:
_ Uyên, có chuyện gì mà chạy dữ vậy?
_ Không có chi đâu cô Ba, con ra mua rau thôi.
_ Mua rau? Rau ở đâu?
Tôi thắc mắc đi ra cửa, đúng là Uyên ra mua rau, và người bán rau là anh chàng có cái máy phát nhạc ầm ỹ đó.
_ Trời ơi bán rau mà cứ tưởng quảng cáo cái gì, mở nhạc to phát ghê. Cứ rao hàng như ngày xưa có phải nghe dễ thương biết bao nhiêu không?
Vừa quay vào tôi vừa lẩm bầm, con bé Uyên nghe được, nó tủm tỉm cười:
_ Bây giờ thời buổi kỹ thuật số, họ chạy xe và phát máy, làm vậy cho đỡ mệt, chả có ai gánh rao hàng đâu, cô Ba ơi.
_ Ờ, nhưng làm sao cháu biết là bán rau, nếu ai cũng mở nhạc như vậy.
_ Mỗi xe một loại nhạc, nghe riết rồi quen thôi cô ạ.
Tuy đồng ý với Uyên, tôi không nói nữa, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn thích nghe tiếng rao hàng hơn. Tôi nhớ lại những tiếng rao của các cô gái, giọng lanh lảnh như hát: “Ai chè đậu xanh, bột báng, nước dừa đường cát …hôn”, “Ai bánh cuốn đổi gạo hôn…” “Giò…chưng..nóng hổi đây” “ Bánh…bò.” “ Mài dao, mài kéo..đê…” Trong tất cả những lời rao hàng đó, thì tiếng rao của anh chàng bán kẹo kéo là làm khách hàng, không chỉ trẻ con mà cả người lớn khó tánh nhất cũng phải hài lòng và bật cười: “ Những ai chồng bỏ, chồng chê, ăn đồng kẹo kéo, chồng mê tới già” “ Ông tây mà lấy bà đầm, thấy hàng kẹo kéo chạy ầm ra mua” “ Ông kia mắt kẻm kèm nhèm, ăn đồng kẹo kéo, mắt sáng hơn đèn xe hơi”…
Còn nhiều món ăn, nhiều dịch vụ khác nữa, tiếng rao hàng vang vọng khắp đường lớn, hẻm nhỏ, đã tạo cho Sài thành hoa lệ một loại văn hóa đặc thù .Thế mà rất tiếc ngày nay đã bị mai một .
Trước ngày trở lại Mỹ, tôi biết mình sẽ rất khó ngủ. Ra lan can, ngồi nhìn lên bầu trời, tôi cố tìm một ánh sao đêm để hình dung như ngày xưa, khi tôi nhìn những đóm hỏa châu mà lòng lo lắng cho người thân nơi chốn địa đầu, nhưng tôi đã không thể nhìn thấy bất cứ một vì sao nào. Lạc lõng, cô đơn, ngay giữa lòng thành phố Saigon thân yêu này, tôi thấy mình xa lạ với nó vô cùng. Những con đường ngày xưa, những mái nhà ngày xưa không còn nữa, mà ngay cả con người ngày xưa cũng chẳng còn gì, thậm chí ngôn ngữ đến cách dùng cũng khác lạ luôn, nghe thật chói tai. “Chị cho em liên hệ với cô ta” liên lạc thì cho được, chứ liên hệ làm sao cho? Liên hệ huyết thống làm sao cho? Biết sai thì phải sửa, nhưng biết sai vẫn cứ dùng vì lý do dùng quen rồi, bó tay.
Dù Saigon có đổi thay như thế nào đi nữa, nhưng tôi hằng luôn tin tưởng trong lòng những người dân miền Nam Việt Nam vẫn còn có tình người, vẫn biết chia cơm xẻ áo cho nhau qua những bát cơm từ thiện, qua những bình nước uống miễn phí, qua những ổ bánh mì không phải trả tiền, mà những nơi khác, giàu sang, phú quý hơn Saigon, không làm được.
“Saigon ơi, ta mất người như người đã mất tên…
… Nay còn gì đâu.
Tiếng hát Khánh Ly trong Saigon Niềm Nhớ Không Tên của Nguyễn Đình Toàn giống như một tiếng nấc nghẹn ngào của những người yêu Saigon, một thành phố nay đã mất tên.
Tường Thúy
Tucson – AZ - 9/6/2025

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét