Âu Dương Tu ( 歐陽修, sinh ngày 1 tháng 8, 1007 mất ngày 22 tháng 9, 1072), tự là Vĩnh Thúc, hiệu "Tuý Ông", là nhà thơ kiêm nhà sử học nổi tiếng thời Tống ở Trung Quốc).
Quê ông ở Lư Lăng (nay thuộc tỉnh Giang Tây). Năm Thiên Thánh thứ 7 (1030), ông đỗ đầu khoa thi tiến sĩ; từng giữ các chức quan Hàn lâm học sĩ, Xu mật viện phó sứ, Tham tri chính sự... Dưới thời vua Tống Thần Tông, làm Binh bộ Thượng thư, khi mất được đặt tên thụy là Văn Trung.
Âu Dương Tu là một nhà vân nổi tiếng, một nhà thơ lớn, một nhà sử học, chính trị gia và đồng thời là một nhà làm từ xuất sắc đời Tống. Ông là người khai sáng ra thể loại “thi thoại" (bình luận và ghi chép lại các cuộc bàn luận của các thi nhân,...), cuốn "Lục Nhất thi thoại" là cuốn thi thoại đầu tiên của Trung Quốc. Ông còn viết những bài rất nổi tiếng như Túy Ông đình ký. Mai Thánh Du thi tập, Thu Thánh Phú. Bằng đảng luận. Vì thế, Âu Dương Tu tự xưng mình là "Lục nhất cư sĩ" (cư sĩ với sáu cái "một": một vạn quyển sách, một ngàn thạch văn, một cây đàn, một bàn cờ, một bầu rượu và một thân già).
Thuở thiếu thời
Khi Âu Dương Tu mới 4 tuổi, cha bị bệnh mất, bà mẹ dẫn ông đến Tùy Châu (nay là huyện Tùy, Hồ Bắc) dựa vào người chú để mưu sinh. Mẹ Âu Dương Tu quyết tâm cho ông học hành, nhưng nhà nghèo, không có tiền mua giấy bút. Bà thấy trong cái ao trước nhà có mọc nhiều cói, liền dùng cọng cói thay bút dạy Âu Dương Tu viết chữ trên đất bùn. Cậu bé Âu Dương Tu được mẹ giáo dục từ nhỏ nên sớm yêu thích đọc sách.
Khi lên 10 tuổi, Âu Dương Tu thường xuyên đến 1 nhà có nhiều sách trong làng mượn sách đọc và chép lại những đoạn thấy hứng thú. Một lần, ông đến mượn sách của nhà họ Lý, phát hiện thấy trong đống giấy cũ 1 cuốn sách nhàu nát. Ông giở xem, thấy đó là văn tập của Hàn Dũ, 1 nhà văn nổi tiếng đời Đường, liền mượn chủ nhà, đem về đọc.
Đầu đời Tống, trong xã hội có xu hướng ưa chuộng lời văn hào nhoáng mà coi nhẹ nội dung. Vì vậy, văn phong thời này chú trọng sự đẹp đẽ của ngôn từ nhưng rất trống rỗng, nghèo nàn về nội dung. Âu Dương Tu sau khi đọc tản văn của Hàn Dũ , thấy văn chương lưu loát, lập luận thấu triệt khác hẳn với văn chương thịnh hành đương thời. Ông ra sức nghiền ngẫm, học tập văn phong của Hàn Dũ. Khi trưởng thành, ông tới Đông Kinh thi tiến sĩ, đỗ đầu 3 vòng thi. Khi mới hơn 20 tuổi, tiếng tăm của Âu Dương Tu đã vang dội trên văn đàn.
Làm quan
Sau khi Phạm Trọng Yêm cải cách chính trị thất bại, bị gạt bỏ khỏi triều đình, biếm trích xuống phương nam, người cộng sự của ông là Phú Bật, Hàn Kỳ cũng bị cách hết quan chức. Những người đồng tình không dám ra mặt bênh vực họ Phạm. Chỉ có mình Âu Dương Tu dám dâng sớ lên Tống Nhân Tông, nói: "Từ xưa tới nay, kẻ xấu hãm hại người tốt, đều vu cáo người tốt là bè đảng, chuyên quyền. Phạm Trọng Yêm là nhân tài quan trọng của quốc gia, cớ sao lại bị bãi miễn. Nếu bệ hạ tin theo lời kẻ xấu thì chỉ khiến kẻ xấu đắc ý, quân thù vui mừng". Âu Dương Tu tuy không giữ chức quan cao, nhưng rất quan tâm đến triều đình và mạnh dạn can gián hoàng đế.
Cao Nhược Nạp cho rằng Phạm Trọng Yêm bị biếm trích là đúng. Âu Dương Tu rất phẫn nộ, viết 1 lá thư kịch liệt công kích hắn là kẻ không biết liêm sỉ. Vì việc đó, ông bị giáng chức, điều về địa phương, 4 năm sau mới được trở lại kinh thành. Lần này, Âu Dương Tu lại đứng ra bênh vực tân chính của Phạm Trọng Yêm, khiến bọn quyền quý trong triều nổi giận. Chúng tìm mọi chứng cớ vu vơ, gán cho Âu Dương Tu một số tội danh. Triều đình lại biếm Âu Dương Tu đi Từ Châu (nay là huyện Từ, An Huy).
Từ Châu là nơi có phong cảnh đẹp, 4 xung quanh là núi. Đến Từ Châu, ngoài những giờ làm việc công, Âu Dương Tu thường du lãm sơn thủy. Có tòa đình trên Lang Nha Sơn làm nơi nghỉ cho du khách. Âu Dương Tu thường tới tòa đỉnh đó uống rượu. Ông tự xưng là "Túy ông" (ông già say) và đặt tên cho tòa đình đó là "Túy Ông đình". Bài tản văn "Túy Ông đình ký" của ông là 1 kiệt tác được người đời truyền tụng, đến cả Tống Nhân Tông cũng vô cùng yêu thích văn chương của ông.
Cải cách văn phong đương thời, phát hiện nhân tài
Âu Dương Tu làm quan địa phương hơn 10 năm trời. Sau Tống Nhân Tông vì quá mến mộ văn tài, mới triệu về kinh thành, phong làm Hàn lâm học sĩ. Sau khi nhận chức, Âu Dương Tu ra sức đề xướng việc cải cách văn phong.
Một lần, kinh thành tổ chức khoa thi tiến sĩ, ông được cử làm chủ khảo. Thấy đây là 1 cơ hội để cải cách văn phong lựa chọn nhân tài. Âu Dương Tu đọc kĩ các quyển thi, thấy quyển nào chỉ có hình thức hào nhoáng mà nội dung trống rỗng thì đánh trượt hết. Kết quả khóa thi, một số người không đỗ rất căm tức Âu Dương Tu. Một hôm, ông cưỡi ngựa đi ra đường, bị 1 đám thí sinh bị đánh trượt ngăn lại, ồn ào chửi mắng và gây sự. Sau nhờ có lính tuần tra đến giải tán, ông mới được vô sự.
Qua việc đó, văn phong trong thi cử nhờ đó mà có biến chuyển lớn. Mọi người đều theo xu hướng viết những bài văn có nội dung sâu sắc, lời lẽ giản dị. Âu Dương Tu không những chỉ ra sức cải cách văn phong, mà còn chú trọng phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Rất nhiều người vốn không nổi tiếng lắm, nhờ được ông tán thưởng và tiến cử, đều trở thành những danh gia, như: Tăng Củng, Vương An Thạch, Tô Tuân (và hai con là Tô Triệt và Tô Đông Pha).
Trong lịch sử văn học, người ta ghép Âu Dương Tu và 5 người trên cùng với Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên thời Đường thành 1 danh sách, gọi là "Đường Tống bát đại gia" (8 tác gia văn xuôi lớn đời Đường - Tống).
Nguyên tác Dịch âm
豐樂亭遊春其一 Phong Lạc Đình Du Xuân Kỳ 1
綠樹交加山鳥啼 Lục thụ giao gia sơn điểu đề, 晴風蕩漾落花飛 Tình phong đãng dạng lạc hoa phi. 鳥歌花舞太守醉 Điểu ca hoa vũ thái thú tuý, 明日酒醒春已歸 Minh nhật tửu tinh xuân dĩ quy.
Chú giải
Bài thơ này là một trong một chuỗi ba bài Lạc Phong đình du xuân 1, 2, 3.
加 gia: chất thêm, như vũ tuyết giao gia 雨雪交加 mưa tuyết cùng chất thêm lên.
蕩 đãng: lay động.
漾 dạng: nước sóng sánh.
* Gió tạnh: gió lúc trời tạnh mưa
** 太守 thái thú**: chữ đời Hán dùng chỉ quan đứng đầu một quận, đời Đường gọi là thứ sử, đời Tống gọi là tri châu. Ở đây tác giả mượn chữ đời Hán để gọi một chức quan của đời Tống (tri huyện).
Dịch nghĩa
Phong Lạc Đình Du Xuân Kỳ 1
Cây xanh giao cành chim núi kêu, Trời tạnh, nước sóng sánh, gió lay làm hoa rụng bay. Chim ca, hoa múa, quan thái thú say rượu, Ngày mai, khi tỉnh rượu, xuân đã qua mất rồi.
Dịch thơ
Phong Lạc Đình Du Xuân Kỳ 1
Cây biếc giao cành chim núi ca, Nước nhăn gió tạnh* thổi bay hoa. Chim ca hoa múa thái thú** khướt, Sáng mai tỉnh rượu xuân đã qua./.
Lời bàn trích trong Thi Viện
Phong Lạc đình ở dưới núi Đại Phong, cách thành Trừ một dặm về phía tây, do Âu Dương Tu xây khi làm tri châu tại Trừ Châu, thời đó là một thắng cảnh của Trừ Châu. Khi đình xây xong, tác giả còn viết một bài Phong Lạc đình ký trong kể nhân tình và phong thổ của đất này như sau: “Đất Trừ nằm vào giữa Giang Hoài, nơi thuyền xe buôn bán của khách bốn phương; nếu khách bốn phương không đến, dân sống không bằng gì khác, cơm áo yên vào đồng ruộng mương máng, để sống thì vui chết thì đưa”. (Hết trích. Coi như Âu Dương Tu quảng cáo cho Phong Lạc đình)
Con Cò bàn thêm:
Hai câu 1 & 2 vẽ sơ qua một cảnh gồm những cây xanh mọc sát cạnh nhau (giao cành); có chim núi đậu hót; có gió tạnh (gió xuân nhưng không có mưa) làm nhăn mặt nước và thổi bay hoa.
Hai câu 3 & 4 phác họa một cảnh rất thanh thoát: hãy tưởng tượng một ông quan thái thú (quan tri châu xứ Trừ Châu họ Âu) rất lạc quan, tay cầm bầu rượu, vừa uống vừa du xuân thâu đêm trong cảnh hoa bay như múa, chim kêu như ca; tới khi tỉnh rượu thấy xuân đã hết rồi.
Bài thơ này không chỉ chứa đựng những thứ ấy. Nó còn cho biết ông quan thái thú này tính tình rất phóng khoáng: trong tình trạng bị biếm mà không buồn nản, lại còn xây ở địa phương một Phong lạc đình và lo tới cơm áo của dân trong huyện. Hình ảnh của họ Âu trong bài Du Xuân ở đình phong lạc kỳ 1 bao gồm: Một ông quan thái thú thân dân; một người lạc quan trong mọi hoàn cảnh; một thi sĩ có nghệ sĩ tính; hình như có ẩn ý (dân cùng say với thái thú)
Con Cò
***
Nguyên tác: Phiên âm:
豐樂亭遊春其一 Phong Lạc Đình Du Xuân Kỳ 1
歐陽修 Âu Dương Tu
綠樹交加山鳥啼 Lục thụ giao gia sơn điểu đề
晴風蕩漾落花飛 Tình phong đãng dạng lạc hoa phi
鳥歌花舞太守醉 Điểu ca hoa vũ thái thú túy
明日酒醒春已歸 Minh nhật tửu tinh xuân dĩ quy
Sách xưa nhất đời Tống, Tống Nghệ Phố Tập - Minh - Lý Cổn 宋藝圃集-明-李蓘 , đăng chỉ có 2 thủ. Sách đời Thanh, Ngự Tuyển Tống Kim Nguyên Minh Tứ Triêu Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御選宋金元明四朝詩-清-聖祖玄燁 đăng 3 thủ. Sách Tống Thi Sao - Thanh - Ngô Chi Chấn 宋詩鈔-清-吳之振 đăng đủ 3 thủ và cho nhiều dị bản.
Phong Lạc Đình Du Xuân Kỳ 2
Phong Lạc Đình Du Xuân Kỳ 3
Ghi chú:
Phong Lạc Đình: vị trí là dưới chân Phong Sơn (nay là Lang Nha Sơn狼牙山) Trừ Châu, An Huy, do Âu Dương Tu xây cất. Theo trang Bách Khoa Bách Độ Phong Lạc Đình_Baidu Bách Khoa, Đình Phong Lạc nằm bên cạnh suối Tử Vi dưới chân núi Phong Sơn thuộc khu du lịch Lang Nha Sơn, thành phố Trừ Châu, tỉnh An Huy, được xây dựng khi Bắc Tống Âu Dương Tu làm Thái thú Trừ Châu. Trang Phong Lạc Đình Ký (arteducation.com.tw) viết Phong Lạc Đình được Âu Dương Tu xây dựng ở phía bắc thành phố Trừ Châu, tỉnh An Huy sau khi ông bị giáng chức đến làm việc ở đây. Như thế Âu Dương Tu xác nhận chính ông xây Phong Lạc Đình.
Giao gia: thêm vào như nêm gia vị
Đãng dạng: nhấp nhô như trên mặt nước
Thái thú: chữ đời Hán dùng chỉ quan đứng đầu một quận, đời Đường gọi là thứ sử, đời Tống gọi là tri châu. Ở đây tác giả dùng thái thú để chỉ chính mình, không chính thức chỉ một chức quan đời Tống.
Dịch nghĩa:
Viếng Đình Phong Lạc Mùa Xuân Kỳ 1
Cây cối xanh tươi xen lẫn tiếng chim hót líu lo,
Gió xuân thổi những cánh hoa rơi bay khắp nơi dưới bầu trời trong xanh .
Chim hót, hoa bay, quan thái thú say rượu (khung cảnh mùa xuân tươi đẹp),
Mãi đến hôm sau khi tỉnh rượu mới nhận ra mùa xuân sắp hết.
Dịch thơ:
Viếng Đình Phong Lạc Mùa Xuân Kỳ 1
Cây cỏ xanh tươi chim hót vang,
Trời trong gió thổi lá lang thang
Chim ca hoa múa người say xỉn.
Tỉnh lại hôm sau xuân sắp tàn.
Spring Visit to Feng Le Pavilion by Ou Yang Xiu
Vegetation was lush green, intertwined with the chirping of mountain birds,
Under the clear blue sky, winds blew fallen petals in all directions.
Birds sang, flowers danced, and I, magistrate of Chuzhou, was drunk,
Not until waking up the next day, did I realize that spring was coming to an end.
Phí Minh Tâm
***
Đi chơi xuân ở đình Phong Lạc.
1/
Chim hót rừng cây lá thắm dày,
Trời trong sóng gợn gió hoa bay.
Chim ca hoa múa quan say sỉn,
Tỉnh rượu xuân tàn lúc sớm mai.
2/
Chim núi hót cây xanh tiếp nối,
Gió trong lành sóng nổi hoa bay.
Chim ca hoa múa quan say,
Sớm mai tỉnh rượu mới hay xuân tàn.
Mỹ Ngọc
Nov.23/2023.
***
Viếng Xuân Bên Đình Phong Lạc (Kỳ 1)
Chim hót, cây xanh cành chạm nhau
Gió lay hoa rụng, nước nhăn nhàu
Chim/hoa ca hát, quan nâng rượu
Sáng tỉnh xuân phai, rượu cạn bầu
Kiều Mộng Hà
Nov23rd2023
***
Chơi Xuân Ở Đình Phong Lạc, Kỳ Nhất
Cây biếc giao nhau, chim núi ca,
Trời trong, gió nhẹ cuốn bay hoa,
Chim kêu, hoa múa, quan say khướt,
Mai sáng, rượu tàn, xuân đã qua.
Bát Sách.
(Ngày 24/11/2023)
***
Du Xưân Đình Phong Lạc, Kỳ 1
Cây biếc giao cành chim núi kêu
Gió lay hoa rụng cánh bay nhiều
Chim ca, hoa múa, quan say khướt
Tỉnh rượu sớm mai xuân đã tiêu!
Lộc Bắc
***
Tiếc Nuối Xuân Sang
Cây cành đan kết biếc xanh,
Núi rừng thiên điểu tiếng thanh vang lừng.
Xuân phong xao động ngoài bưng,
Muôn huê rơi rụng, khắp cùng xác bay.
Hoa lay, chim hót đắm say,
Rượu nồng, thái thú ngất ngây quên đời.
Chừng mai, hết xỉn tỉnh rồi,
Chúa Xuân khuất dạng - gót dời từ khuya...
Khánh-Hưng
***
Xuân Trôi
Chim vui ca hót cỏ xanh tươi
Gió thổi hoa bay lượn khắp trời
Xuân đẹp say tình quan thái thú
Hôm sau tỉnh rượu thấy Xuân trôi
Thanh Vân
***
Tiếc Xuân...Cây xinh hòa lẫn chim ca
Trong lành gió hát lá hoa lay cành
Rơi rơi khắp chốn trời xanh
Quan say ngất ngưởng thâu canh rượu tàn
Sớm mai tỉnh giấc ngỡ ngàng
Ngày đi tiếc nuối xuân tàn vụt qua.
Kim Oanh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét