Tình Hình Xứ Đàng Trong Dưới Thời Các Chúa Nguyễn:
Dầu lịch sử vùng Nam Kỳ hãy còn quá mới mẻ so với chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam đã trải qua gần 5.000 năm dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, mảnh đất mang tên Nam Kỳ Lục Tỉnh, miền cực Nam tổ quốc, vựa lúa nuôi sống nhân dân cả nước trong nhiều thế kỷ nay đã đến với Việt Nam chỉ qua một biến cố lịch sử thật tình cờ trong gia đoạn cuối cùng của nhà Hậu Lê. Đó là sự xuất hiện của Nguyễn Hoàng, một nhân vật lịch sử đã làm thay đổi cục diện lịch sử Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XVII. Nguyễn Hoàng, một truyền nhân của Nguyễn Bặc, Nguyễn Trãi và Nguyễn Kim. Sau khi cha là Nguyễn Kim qua đời và anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm bức hại, Nguyễn Hoàng đã phải xuôi Nam tỵ nạn, rồi do sự tình cờ của lịch sử, Nguyễn Hoàng đã phải chống lại áp lực của chúa Trịnh bằng cách củng cố thế lực của mình qua sách lược Nam Tiến. Chính sự phát triển lực lượng của Nguyễn Hoàng từ năm 1611 đến năm 1653 đã là một sức ép mãnh liệt khiến cho vương quốc Champa đã phải co cụm lại trong một phạm vi nhỏ từ Nha Trang đến Phan Thiết. Các chúa Nguyễn đã không dừng lại tại vùng Nha Trang hay Phan Thiết, mà các ngài còn dòm ngó đến vùng Thủy Chân Lạp ngay từ đầu thế kỷ thứ XVII, vì vào thời kỳ nầy vương triều Chân Lạp đã bước vào giai đoạn suy yếu trầm trọng. Kỳ thật, giai đoạn suy yếu của vương triều Khmer đã kéo dài từ thế kỷ thứ XIII, sau hơn 10 thế kỷ cực thịnh(1) dưới ảnh hưởng của Ấn Độ Giáo. Trong suốt 10 thế kỷ nầy vương quốc Chân Lạp đã mất rất nhiều đất đai vào tay người Xiêm La. Và trong 2 thế kỷ, XVII và XVIII, Chân Lạp lại để mất vùng Thủy Chân Lạp vào tay xứ Đàng Trong qua hình thức dâng hiến để đền ơn đáp nghĩa.
Lịch sử triều Nguyễn đã sang trang trên nửa thế kỷ nay, đáng lý ra tôi không cần phải đề cập gì đến tên của người đã khai sinh ra một triều đại mà theo tôi là triều đại đã mang lại một tương lai đen tối nhất cho dân tộc Việt Nam thời đó, và hệ quả tai hại của nó vẫn còn âm ỉ cho đến ngày nay. Là con dân Nam Kỳ, không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được công lao của các chúa Nguyễn. Chén cơm chúng ta đang ăn, nguồn nước chúng ta đang uống, mảnh vườn đang cho chúng ta cây trái xum xuê... không có thứ nào là không bàng bạc công ơn của các chúa nhà Nguyễn. Chính những kế hoạch khôn ngoan và sự hy sinh của các chúa tiên triều nhà Nguyễn đã đem về cho đất nước chúng ta một vùng đất bao la trù phú miền Nam, vựa lúa lớn nhất cho dân chúng cả nước. Tuy nhiên, đã nói đến Nam Kỳ, đã nhắc nhiều đến công lao của các chúa nhà Nguyễn trong công cuộc mở đất về phương Nam, mà không nói đến Nguyễn Ánh và những di hại mà vị vua ấy đã mang đến cho dân tộc Việt Nam thì cũng là một thiếu sót. Thật tình mà nói, thiết tưởng tưởng không cần phải nói nhiều, có lẽ ai trong chúng ta cũng đều biết thực trạng của đất nước Việt Nam trong suốt 153 năm vương triều nhà Nguyễn, tính từ năm 1802 sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi và lấy hiệu là Gia Long cho đến khi Bảo Đại bị truất phế vào năm 1955.
Phải nói lịch sử Việt Nam vào hậu bán thế kỷ thứ XVIII quả là rối ren và phức tạp nhất trong suốt tiến trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam, vì trong thời kỳ này trong khi bên trời Âu đang nổ ra cuộc cách mạng Pháp, thì ngay tại đất nước Việt Nam cũng đang xuất hiện một phong trào cách mạng. Đó là cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn, một trong những cuộc khởi nghĩa thần kỳ nhất trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của Việt Nam. Vào hậu bán thế kỷ thứ XVIII, dù vẫn còn vua Lê, nhưng đất nước chúng ta đã phải trải qua hàng trăm năm bị xâu xé bởi hai dòng họ lớn là Trịnh và Nguyễn. Bên cạnh đó, dòng họ Mạc ở Cao Bằng vẫn còn manh nha muốn làm một cuộc quật khởi mong lấy lại những gì mà họ cho là của họ. Thử hỏi đất nước Việt Nam chúng ta đã đi về đâu nếu không có sự xuất hiện của vị anh hùng áo vải đất Qui Nhơn? Không cần phải đưa ra câu trả lời cho câu hỏi này, ai trong chúng ta cũng dư biết vào hậu bán thế kỷ thứ XVIII, không có lực lượng nào có thể đối đầu với đại quân nhà Thanh khi họ tràn qua Việt Nam như nước vỡ bờ. Họ Trịnh hay họ Mạc ở phương Bắc có thể cầm cự được với quân Thanh hay không? Chắc chắn là không rồi, vì trong suốt hàng mấy trăm năm, quân đội nhà Trịnh chưa từng tỏ ra được khả năng chống ngoại xâm, quân nhà Mạc thì đã tan tác từ lâu lắm rồi. Trong khi đó ở phương Nam, quân nhà Nguyễn do Nguyễn Ánh chỉ huy, ngoài việc ra lệnh gửi quân lương ra giúp cho giặc Thanh, Nguyễn Ánh chưa hề thảo ra kế hoạch nào, hoặc chưa từng đề cập đến việc đưa quân chống lại nhà Thanh. Sự xuất hiện của vị anh hùng áo vải đất Qui Nhơn và phong trào khởi nghĩa Tây Sơn dù thoạt kỳ thủy mang tính địa phương, nhưng sau đó, nó bộc phát khắp nơi như một cuộc tổng khởi nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã nghiền nát 2 dòng họ phong kiến đã từng thống trị lâu đời trên 2 miền Nam Bắc Việt Nam. Chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã đào thải chiếc ngai vàng không ngai của thời Lê Mạt. Và cũng chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã mang lại khí thế ngất trời cho toàn dân Việt Nam trong chiến thắng Đống Đa. Phong trào Tây Sơn khởi lên từ một địa phương hẻo lánh tại đất Qui Nhơn, với một lực lượng thật khiêm nhường, thế mà chẳng bao lâu sau đó, họ đập tan quân chúa Nguyễn ở Nam Hà. Rồi từ Nam họ đã kéo quân ra Bắc phá tan thành quách của phong kiến nhà Trịnh. Tuy nhiên, họ không thẳng tay với chiếc ngai vàng không ngai của vua Lê, có thể vì ngay sau khi đánh đổ quân chúa Trịnh, người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã trở thành con rể của vua Lê, mà cũng có thể họ lưỡng lự vì sự ủng hộ vua Lê vẫn còn đó với thành kiến địa phương. Trong khi người anh hùng áo vải đất Qui Nhơn đang phải trăm bề thọ địch thì Nguyễn Ánh ở phương Nam đã nhân cơ hội này bám chặt lấy gót giày của Xiêm vương và một số giáo sĩ Tây phương nhằm tạo thanh thế cho cuộc khôi phục lại chiếc ngai vàng mà ông ta cho rằng thuộc về dòng họ nhà Nguyễn. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà Tây Sơn đã viết lên một trang sử vẻ vang cho đất nước, triều đại Tây Sơn chưa có đủ thì giờ để xây dựng một đất nước Việt Nam đúng theo mô hình mà vua Quang Trung đã phác họa. Những khó khăn của Tây Sơn khởi lên ngay từ khi phong trào ấy bắt đầu, vì đây là phong trào được mệnh danh là của nông dân, của những người áo vải, nên ngay từ buổi hồng hoang của phong trào, họ đã bị nhóm sĩ phu ngoảnh mặt quay lưng, không hợp tác. Kỳ thật họ không hề có ý định bỏ rơi nho sĩ hay không đề ra chánh sánh bạc đãi nông nghiệp và thương nghiệp như một số sử gia triều Nguyễn đã công kích. Nguyên nhân chính phải nói ở đây là sự yểu mệnh của vua Quang Trung đã kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt những chương trình mà vị vua này đã vạch ra cho đất nước Việt Nam. Như vậy, phải nói sự yểu mệnh của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã góp phần không nhỏ trong việc đưa Nguyễn Ánh trở lại Phú Xuân, dựng lại một triều đình một lần đã bị toàn dân Việt Nam đứng lên hợp sức với Tây Sơn lật đổ.
Chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã nghiền nát 2 dòng họ phong kiến đã từng thống trị lâu đời trên 2 miền Nam Bắc Việt Nam. Chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã đào thải chiếc ngai vàng không ngai của thời Lê Mạt. Và cũng chính cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã mang lại khí thế ngất trời cho toàn dân Việt Nam trong chiến thắng Đống Đa. Phong trào Tây Sơn khởi lên từ một địa phương hẻo lánh tại đất Qui Nhơn, với một lực lượng thật khiêm nhường, thế mà chẳng bao lâu sau đó, họ đập tan quân chúa Nguyễn ở Nam Hà. Rồi từ Nam họ đã kéo quân ra Bắc phá tan thành quách của phong kiến nhà Trịnh. Tuy nhiên, họ không thẳng tay với chiếc ngai vàng không ngai của vua Lê, có thể vì ngay sau khi đánh đổ quân chúa Trịnh, người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã trở thành con rể của vua Lê, mà cũng có thể họ lưỡng lự vì sự ủng hộ vua Lê vẫn còn đó với thành kiến địa phương. Trong khi người anh hùng áo vải đất Qui Nhơn đang phải trăm bề thọ địch thì Nguyễn Ánh ở phương Nam đã nhân cơ hội này bám chặt lấy gót giày của Xiêm vương và một số giáo sĩ Tây phương nhằm tạo thanh thế cho cuộc khôi phục lại chiếc ngai vàng mà ông ta cho rằng thuộc về dòng họ nhà Nguyễn. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà Tây Sơn đã viết lên một trang sử vẻ vang cho đất nước, triều đại Tây Sơn chưa có đủ thì giờ để xây dựng một đất nước Việt Nam đúng theo mô hình mà vua Quang Trung đã phác họa. Những khó khăn của Tây Sơn khởi lên ngay từ khi phong trào ấy bắt đầu, vì đây là phong trào được mệnh danh là của nông dân, của những người áo vải, nên ngay từ buổi hồng hoang của phong trào, họ đã bị nhóm sĩ phu ngoảnh mặt quay lưng, không hợp tác. Kỳ thật họ không hề có ý định bỏ rơi nho sĩ hay không đề ra chánh sánh bạc đãi nông nghiệp và thương nghiệp như một số sử gia triều Nguyễn đã công kích. Nguyên nhân chính phải nói ở đây là sự yểu mệnh của vua Quang Trung đã kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt những chương trình mà vị vua này đã vạch ra cho đất nước Việt Nam. Như vậy, phải nói sự yểu mệnh của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã góp phần không nhỏ trong việc đưa Nguyễn Ánh trở lại Phú Xuân, dựng lại một triều đình một lần đã bị toàn dân Việt Nam đứng lên hợp sức với Tây Sơn lật đổ.
Nguyễn Ánh Là Ai? Tại Sao Ông Lại Căm Thù Tây Sơn Đến Tận Xương Tủy Và Tại Sao Ông Được Làm Truyền Nhân Chính Thống Của Dòng Họ Nguyễn?
Nguyễn Ánh, tức Nguyễn Phúc Ánh, còn có tên là Noãn và Chủng, sanh năm 1762, con trai thứ ba của Nguyễn Phúc Luân(2) với Hiếu Khang hoàng hậu. Lúc chúa Võ Vương còn ở ngôi chúa, có ý nhường ngôi lại cho người con thứ chín là Phúc Hạo, nhưng Phúc Hạo chết năm 1760. Vì thế Võ Vương muốn truyền ngôi lại cho Phúc Luân. Tuy nhiên, sau khi Võ Vương mất vào năm 1765, Trương Phúc Loan chuyên quyền, giả mạo di chúc của Võ Vương, lập người con thứ 16 của Võ Vương là Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi chúa. Theo sử quan triều Nguyễn thì Phúc Luân vì buồn mà mang bệnh rồi chết, nhưng có một số tài liệu ngoại sử thì nói Trương Phúc Loan đã giam Nguyễn Phúc Luân cho đến chết. Lúc ấy Nguyễn Ánh mới 3 tuổi đầu. Dầu Phúc Luân vì buồn hay bị giam mà chết, thì Nguyễn Ánh cũng phải chịu tang cha lúc tuổi còn quá nhỏ. Sau khi cha mất, Nguyễn Ánh đã phải trải qua những năm tháng rong ruổi trong tủi nhục từ Trung vô Nam, rồi từ Nam ra các đảo ngoài khơi vịnh Xiêm La, rồi qua Xiêm... với biết bao nhiêu hiểm nguy chực chờ. Tuy nhiên, Nguyễn Ánh rất được Duệ Tông Phúc Thuần yêu thương, nhờ vậy mà ông đã theo Duệ Tông chạy vào Nam để lánh quân Tây Sơn đang truy đuổi. Chính nhờ những năm tháng lưu vong với Phúc Thuần, mà Nguyễn Ánh đã lấy lòng Phúc Thuần, nên về sau nầy khi quần thần nhà Nguyễn ngỏ ý muốn Duệ Tông nhường ngôi cho Đông cung Phúc Dương, lúc đầu Duệ Tông có ý muốn từ chối, vì ông không thấy ở Phúc Dương những tài năng và đức độ của một vì vua. Ngược lại, những thứ đó ông thấy được nơi Nguyễn Ánh. Tuy nhiên, khi bị Lý Tài ép gắt thì Duệ Tông mới chịu nhường ngôi cho Phúc Dương. Từ đó Duệ Tông lên làm Thái Thượng Vương và Phước Dương làm Tân Chính Vương. Nguyễn Ánh có 5 anh em trai, thì 4 người kia đã chết trong các trận chiến với Tây Sơn. Người anh lớn nhất tên Hạo, làm đến chức Cai Cơ, bị quân Tây Sơn giết chết. Người anh thứ hai tên Đồng, làm chức Đội trưởng, cũng bị Tây Sơn bắt giết tại Long Xuyên cùng một lượt với Nguyễn Phúc Thuần vào năm 1777. Người em kế của Nguyễn Ánh thì chết lúc còn nhỏ. Người em kế nữa tên Mân, chết đuối khi bị quân Tây Sơn chặt đứt cầu phao trong trận Đồn Cá Trê vào năm 1783. Người em trai nữa của Nguyễn Ánh tên là Nguyễn Điển(3) bị quân Tây Sơn bắt giết ở Hòn Đá Chồng vào năm 1783. Nguyễn Ánh có bốn chị em gái. Chị lớn là công chúa Long Thành Ngọc Tú(4), được gả cho Cai Cơ Lê Phước Điển(5). Người chị thứ hai là công chúa Phước Lộc Ngọc Du, được gả cho Võ Tánh(6) vào năm 1779. Người em kế Nguyễn Ánh là công chúa Minh Nghĩa Ngọc Tuyền, năm 1779 được gả cho Cai cơ Nguyễn Hữu Thoại, năm 1782 khi Hữu Thoại qua Xiêm cầu viện cho Nguyễn Ánh, bà bị Tây Sơn bắt ở vùng Đồng Nai, trên đường giải về Sài Gòn, bà đã nhảy xuống sông tự tử, lúc mới 19 tuổi. Em gái út của Nguyễn Ánh là công chúa Ngọc Uyển(7). Năm 1774, lưu lạc ra vùng Thanh Hóa vì chiến tranh. Bao nhiêu người trong gia đình dòng họ của Nguyễn Ánh đã chết về tay Tây Sơn, nên bản thân ông, ông rất căm thù Tây Sơn. Và cũng chính vì thế mà cuộc chiến do ông khởi động với Tây Sơn mang đậm nét thù hằn hơn là ý thức chính trị của một người yêu nước. Tuy nhiên, phải công tâm mà nói, để đạt được mục đích là chiếm lại chiếc ngai vàng cho dòng họ Nguyễn, ngoài lòng căm hận Tây Sơn, ngoài tài năng và trí năng thiên bẩm, phải thành thật mà nói, chắc chắn Nguyễn Ánh phải là một con người có nhiều nghị lực, và cũng phải là một con người biết ‘dụng nhân như dụng mộc’ lắm mới lôi kéo về phía mình quá nhiều tướng tài trong cuộc chiến với Tây Sơn.
Như trên đã nói, trước khi Nguyễn Ánh được tôn xưng, triều đình xứ Đàng Trong đã trải qua một chuỗi dài khủng hoảng và tranh chấp về việc phế lập trong triều. Lộng thần Trương Phúc Loan không theo di chúc của chúa Võ Vương, không chịu lập Phúc Luân lên ngôi, mà lại lập Duệ Tông Phúc Thuần lên ngôi. Tuy nhiên, sau đó bị quân Tây Sơn truy đuổi quá gắt, Nguyễn Ánh đã theo Duệ Tông chạy vào Nam để lánh quân Tây Sơn đang truy đuổi. Nhờ được theo sát bên cạnh Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần, nên nhờ đó mà quần thần lưu vong nhà Nguyễn ai cũng đều biết Nguyễn Ánh, dầu lúc ấy dòng họ Nguyễn vẫn còn một số thất lạc ra Thuận Hóa trong cuộc chiến tranh với quân Tây Sơn. Cũng chính nhờ được theo sát bên Duệ Tông mà vào năm 1777, khi Duệ Tông và Đông cung Phúc Dương bị Tây Sơn bắt giết, thì Nguyễn Ánh nghiễm nhiên trở thành người kế thừa hợp pháp và hợp tình nhất, vì trước tiên Nguyễn Ánh cũng là dòng đích của họ Nguyễn, mặc dầu dòng họ Nguyễn cũng còn những người lưu lạc khác, nhưng biết đâu mà tìm, trong khi hoàng gia trong miền Nam chỉ còn có Nguyễn Ánh sống sót, nên sẵn đó tôn Nguyễn Ánh lên làm ‘Đại Nguyên Soái Nhiếp Quốc Chính’ là tiện đôi bề. Năm 1780, Nguyễn Ánh tự xưng là Nguyễn Vương. Từ đó Nguyễn Ánh trở thành người kế nghiệp các chúa Nguyễn một cách hợp pháp và không còn bất cứ sự tranh chấp nào nữa.
Tây Sơn Truy Kích Nguyễn Ánh Trên Vùng Đất Nam Kỳ:
Năm 1774, khi quân của chúa Trịnh kéo vào đánh Phú Xuân thì Nguyễn Ánh mới 13 tuổi, theo chân Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định, rồi sau đó phải bỏ chạy về vùng Ba Giồng ở Định Tường để dựa lưng vào quân Đông Sơn của Đỗ Thành Nhân. Phải nói đất Gia Định là nơi mà Nguyễn Ánh dùng làm căn cứ địa an toàn để lẩn trốn Tây Sơn trong suốt thời gian ông bôn tẩu. Sở dĩ Nguyễn Ánh có thể dung thân được nơi miền đất xa lạ này là vì vùng đất này được các chúa tiên triều nhà Nguyễn cho phép các nhóm di thần nhà Minh đến Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XVII đến khai phá. Ở vùng Đông Phố (Biên Hòa) có Trần Thượng Xuyên, ở Mỹ Tho có Dương Ngạn Địch, và ở vùng Hà Tiên có Mạc Cửu. Họ là những con người mang nặng lễ giáo Khổng Mạnh, nên lúc nào họ cũng tự xem mình mang nặng ơn mưa mốc từ các chúa nhà Nguyễn. May mắn hơn Tây Sơn, Nguyễn Ánh ở Gia Định có những điều kiện để lôi kéo thương nhân người Hoa, vì họ là hậu duệ của những người đã từng chịu ơn của các chúa Nguyễn, nên khi Nguyễn Ánh cần gì và nói gì họ đều hưởng ứng. Bên cạnh đó, các giáo sĩ Tây phương với ý đồ biến Việt Nam thành một quốc gia Thiên Chúa giáo nên họ đã không từ bỏ bất cứ hành động nào để đạt được mục tiêu của họ, ngay cả việc can dự vào chánh trị của xứ Đàng Trong. Chính giám mục D’Adran đã cho chúng ta thấy rõ ý đồ của các giáo sĩ trong một bức thư đề ngày 26 tháng 7 năm 1779 như sau: “Hai chiếc tàu từ Macau đến Bassac trong năm nay để buôn bán... Một người Trung hoa đưa ý kiến với ông lớn của xứ Cochinchine, cho ông ta biết rằng tàu chứa đầy đại bác, diêm, tiêu, lưu quỳnh và các thứ khí giới, đạn dược khác. Ông quan mà tôi rất quen đó đương hết sức cần các thứ hàng hóa này, vội vã bắt tôi viết thư cho các quan coi tàu yêu cầu họ bán cho ông hết hay một phần. Hay nếu có thể, họ đem tàu giúp xứ Cochinchine, đổi lại, họ được hưởng quyền ghé bến và những quyền lợi khác.” Chính vì thế mà tại vùng Gia Định, dù xa lạ với Nguyễn Ánh, nhưng đi đâu đến đâu, ông cũng được sự che chở và giúp đỡ của quan, quân và dân địa phương.
Năm 1777, khi Nguyễn Huệ mang quân vào đánh Gia Định và bắt được Nguyễn Phúc Thuần thì Nguyễn Ánh bỏ chạy ra đảo Thổ Châu. Có thể nói cả dòng họ nhà Nguyễn sau biến cố Ba Vác và Long Xuyên, nghĩa là sau khi Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn truy đuổi và bắt, thì hầu như không còn ai có thể đứng lên hoạt động chống lại Tây Sơn, ngoại trừ Nguyễn Ánh. Những người chú khác còn lại của Nguyễn Ánh như Tôn thất Chất thì chết năm 1777, Tôn thất Xuân chạy sang Xiêm với Mạc Thiên Tứ, còn Tôn thất Thăng thì lẩn trốn tại Phú Xuân. Như vậy phải nói nếu sau biến cố năm 1777 mà Nguyễn Ánh không còn, có lẽ cục diện Việt Nam cũng đã khác đi, vì sau cuộc càn quét này của quân Tây Sơn, lực lượng duy nhất còn lại tại Nam Kỳ là quân Đông Sơn của Đỗ thành Nhân mà thôi. Sau khi Gia Định tạm ổn định, Nguyễn Huệ phải kéo quân về Thuận Hóa để bình định tình hình bất ổn tại miền Bắc cũng như đối phó với Lê Chiêu Thống, vị vua cuối cùng của nhà Lê, lúc nào cũng chực chờ cho sứ thần sang cầu viện với nhà Thanh. Nghĩa là lúc đó Nguyễn Huệ không thể ở lại miền Nam để tiêu diệt toàn bộ vây cánh của Nguyễn Ánh, dù ngài biết rằng Nguyễn Ánh luôn là một di họa cho đất nước. Sau khi kéo quân về Phú Xuân, Nguyễn Huệ phải chiêu mộ thêm quân sĩ để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh có thể xảy ra với quân Thanh bất cứ lúc nào. Chính vì thế mà Nguyễn Huệ chỉ cho lưu lại vùng Gia Định một lực lượng thật nhỏ để duy trì an ninh trật tự trong vùng mà thôi, và cũng chính vì vậy mà Nguyễn Ánh đã nhân cơ hội này từ đảo Thổ Châu trở về Long Xuyên chiêu mộ quân sĩ để tiến đánh vùng Sa Đéc. Sau đó Nguyễn Ánh lại hợp cùng với Chưởng Dinh Đỗ Thành Nhân, Cai Đội Lê văn Quân, Thống Nhung Nguyễn văn Hoằng, Chưởng dinh Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Điều Khiển Dương Công Trừng, và Cai Cơ Hồ văn Lân tiến quân đánh dinh Long Hồ, rồi tiến đánh Sài Gòn. Trong khi ngoài Bắc thì Lê Chiêu Thống đang chuẩn bị cầu viện với nhà Thanh nhằm tiến đánh quân Tây Sơn ở Thăng Long, thì trong Nam Nguyễn Ánh cùng các tướng sĩ của ông ta đang mưu đồ chiêu quân hầu lấy lại chiếc ngai vàng cho dòng họ nhà Nguyễn. Đầu năm 1778, ở Gia Định, Đỗ thành Nhân hợp các tướng khác suy tôn Nguyễn Ánh làm Đại Nguyên Soái Nhiếp Quốc Chánh, năm ấy Nguyễn Ánh mới 17 tuổi, cai trị toàn vùng Nam Kỳ. Năm 1779, trong khi triều đình Chân Lạp có cuộc âm mưu soán ngôi Nặc Vinh, nên Đỗ Thành Nhân cùng Hồ văn Lân theo lệnh của Nguyễn Ánh đem quân tiến đánh Chân Lạp, sau đó lưu Hồ văn Lân ở lại làm quan Bảo Hộ xứ này. Nguyễn Ánh ra lệnh vơ vét hầu hết tài nguyên của xứ Chân Lạp đem về tích trữ tại thành Gia Định. Nguyễn Ánh cho xây thành đắp lũy ở các vùng Sài Côn, Gia Định, Trấn Biên, Phiên Trấn, và Long Hồ để chiêu mộ quân sĩ và tích trữ lương thực, chuẩn bị cho cuộc chiến tranh lâu dài với quân Tây Sơn. Đồng thời, Nguyễn Ánh cũng cho tiến hành chánh sách thông hiếu với Xiêm La, những mong nước nầy sẽ giúp mình trong việc chiến tranh với nhà Tây Sơn. Về mặt hành chánh, Nguyễn Ánh cho tổ chức lại việc cai trị đất Gia Định. Sau khi bình định miền Nam, Đại Nguyên Soái Nguyễn Ánh chia vùng Nam Kỳ ra làm 3 dinh: dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn, và dinh Long Hồ. Sau đó Nguyễn Ánh lại cho nâng Đạo Trường Đồn, thuộc tỉnh Định Tường, Mỹ Tho hay Tiền Giang ngày nay, lên làm Dinh Trường Đồn vì địa điểm trọng yếu của nó. Dinh Trường Đồn có một huyện là Kiến An với 3 tổng là Kiến Đăng, Kiến Hưng và Kiến Hòa.
Đến năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương, nhưng vẫn giữ niên hiệu nhà Lê trong các chiếu chỉ của triều đình, và dùng chiếc ấn mang tên “Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bửu.” Mùa hè năm 1781, Bá Đa Lộc đã cùng Nguyễn Ánh tổ chức một cuộc duyệt binh tại Gia Định với hơn 30.000 quân, 80 thuyền đi biển, 3 chiến thuyền loại lớn. Cùng năm đó, để dễ bề cai trị, dinh Trường Đồn được đổi ra làm dinh Trấn Định. Mỗi dinh đều đặt chức Lưu Thủ cai trị, và các quan Lưu Thủ có nhiệm vụ chiêu mộ quân sĩ cũng như tích trữ lương thực theo quy định nuôi quân của Nguyễn Ánh. Có thể nói trong lịch sử Nam tiến của Việt Nam, chưa có thời kỳ nào mà nhân dân ta phải đồ thán như thời kỳ Nguyễn Ánh cai trị đất Nam Kỳ, vì một phần do chiến tranh với Tây Sơn, phần khác Nguyễn Ánh đặt sưu thuế rất nặng hầu có đủ lương thực và vũ khí cho cuộc chiến tranh với Tây Sơn. Cùng năm đó, vì nghi kỵ sức mạnh và ý đồ của Đỗ Thành Nhân mà Nguyễn Ánh đã sát hại công thần vào bậc nhất của mình ngay khi còn đang chiến tranh với nhà Tây Sơn. Nguyên Đỗ thành Nhân là thủ lãnh nhóm Đông Sơn, đã theo phục vụ Nguyễn Ánh từ hồi Nguyễn Ánh còn bôn ba lẩn trốn nhà Tây Sơn. Thành Nhân được Nguyễn Ánh cho nắm giữ những chức vụ rất cao trong triều đình ở Gia Định, nhưng sau bị Tống Phước Thiêm mật bẩm với Nguyễn Ánh xin giết Nhân để trừ hậu họa về sau này(9).
Sau khi Đỗ Thành Nhân đã bị Nguyễn Ánh sát hại, tháng 3 năm 1782, vua Thái Đức Nguyễn Nhạc cùng Long Nhượng Tướng Quân Nguyễn Huệ cất binh vào đánh Nguyễn Ánh. Nguyễn Huệ đem quân vào cửa Cần Giờ, rất nhiều binh tướng Đông Sơn theo về với quân Tây Sơn. Trước khí thế của quân Tây Sơn, quân Nguyễn Ánh chưa đánh đã bỏ chạy, nên Nguyễn Ánh phải lui về vùng Tam Phụ, nhưng sau đó lại bị quân Tây Sơn truy nã quá gắt nên Nguyễn Ánh phải trốn về vùng Hậu Giang. Khi tới Trấn Giang, nay là vùng Cái Răng, thuộc tỉnh Cần Thơ, Nguyễn Ánh bèn sai Nguyễn hữu Thụy(10) và Trần xuân Trạch theo đường Chân Lạp qua Xiêm cầu cứu, nhưng trời bất dung gian, nhóm Hữu Thụy bị người Chân Lạp chận đánh tan tác và giết hại gần hết. Nguyễn Ánh bỏ Hậu Giang, băng tắt đường rừng đến Rạch Giá. Tại đây Nguyễn Ánh lại bị 30 chiến thuyền của người Chân Lạp đuổi bắt, may nhờ một viên tướng hết lòng phò tá đã giúp cho Ánh chạy thoát ra đảo Phú Quốc. Sau khi dẹp tan quân của Nguyễn Ánh, vua Thái Đức giao cho tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập và Hộ Bộ Bá cùng 3.000 quân ở lại giữ thành Gia Định, và triệu Nguyễn Huệ về Qui Nhơn. Tháng 7 năm 1782, Châu văn Tiếp cùng Thiếu Phó Nguyễn Phước Mân đem quân từ Phú Yên vào đánh Đỗ Nhàn Trập. Sau khi chiếm thành Gia Định, Châu văn Tiếp cho thỉnh Nguyễn Ánh về Sài Côn. Trên đường trở về Sài Côn, Nguyễn Ánh cho người sang Xiêm cầu cứu vì biết thế nào quân Tây Sơn cũng sẽ vào đánh lấy lại Gia Định. Như sự dự đoán của Nguyễn Ánh, tháng 2 năm 1783, Tiết Chế Nguyễn Lữ và Long Nhượng Tướng Quân Nguyễn Huệ đem quân vào cửa Cần Giờ, tiến đánh Gia Định. Quân Nguyễn Ánh đại bại, Nguyễn Phước Mân tử trận, Dương Công Trừng bị bắt, Châu văn Tiếp đưa Nguyễn Ánh chạy về vùng Tầm Bôn (nay là Tân An). Nguyễn Huệ tiếp tục truy kích tàn quân Nguyễn Ánh. Quân của Ánh phải bỏ chạy về trốn trong vùng Ba Giồng, Đại Phố Mỹ Tho, rồi họp binh lại ở Đồng Tuyên định tiếp tục chống cự với Tây Sơn, nhưng Nguyễn Huệ lại đập nát cánh quân ở Đồng Tuyên. Sau đó quân Tây Sơn lại tiếp tục truy kích gắt hơn, nên Nguyễn Ánh phải cho quân đưa hoàng gia ra đảo Phú Quốc trước, còn tự mình thì trốn ở Hòn Chông (Điệp Thạch), rồi trốn ra Côn Sơn, nhưng cũng bị quân Tây Sơn bao vây quá gắt, nên Ánh phải chạy ra đảo Cổ Long, sau đó lại di chuyển qua Cổ Cốt. Trong khi ấy quân của phò mã Trương văn Đa tiếp tục truy kích Nguyễn Ánh. Tuy nhiên, nhờ một cơn bão lớn nên quân Tây Sơn phải rút về Rạch Giá. Nhờ đó mà Nguyễn Ánh thoát nạn.
Bá Đa Lộc, Ông Là Ai?
Trong bối cảnh lịch sử của thế giới kể từ thế kỷ thứ XVI đến cuối thế kỷ thứ XVIII, các xứ kỹ nghệ tiên tiến bên Âu châu đang tìm kiếm thị trường và lúc nào cũng mong chiếm đoạt tài nguyên của các quốc gia chậm tiến khác trên thế giới. Trong khi đó bán đảo Đông Dương nói chung, và Đại Việt nói riêng đang là những mục tiêu nóng của thực dân châu Âu. Tuy nhiên, hồi nầy một số vua chúa và quan lại xứ Đàng Trong vẫn nhắm mắt làm ngơ trước những động thái rất đáng nghi ngờ của các vị Tây dương đạo trưởng, nên thay vì mở cửa cho tất cả các quốc gia tiên tiến vào làm ăn buôn bán để tự họ làm những đối trọng với nhau mà không dám lăm le xâm lấn người bản xứ như ở Nhật Bản và Thái Lan, thì thời đó Nguyễn Ánh lại ngả hẳn về với Pháp qua trung gian của những Tây dương đạo trưởng để mong được nước nầy trợ giúp trong chiến tranh với Tây Sơn. Thậm chí Nguyễn Ánh đã để cho Bá Đa Lộc thay mình toàn quyền quyết định trong việc ký kết những hiệp ước với nước Pháp. Làm như vậy có khác nào Nguyễn Ánh tự mở cửa nhà mình cho giặc tự do muốn vào ra thế nào cũng được. Qua những tài liệu trong văn khố Pháp, chúng ta thấy không chỉ Bá Đa Lộc khuyên Pháp hoàng nên đánh lấy các xứ Đông Dương, mà hầu như Tây dương đạo trưởng nào cũng muốn Âu châu chiếm lấy các xứ mà họ đang truyền giảng đạo Ki Tô, có thể việc trước mắt là làm cho họ được dễ dàng truyền đạo. Một thí dụ điển hình là giáo sĩ Huc, một tay du lịch bốn phương trời, đã không ngần ngại viết thơ cho Napoléon III để nhắc hoàng đế nhớ rằng nước Pháp cần chiếm đóng Việt Nam. Một điều cần chú ý là ông giáo sĩ nầy chưa hề đặt chân lên đất Việt Nam bao giờ, không biết một chút gì về xứ sở nầy. Nhưng với ông thì có sao đâu, không những ông ta tự coi mình là kẻ có đủ tư cách bàn bạc chuyện đó, mà bởi ông ta là giáo sĩ cho nên cuộc vận động của ông ta đã được hoàng đế xem như một đề nghị tối quan trọng; nếu đề nghị ấy do một người khác đưa ra thì chắc chắn là chẳng bao giờ được chuyển đến tay hoàng đế(11).
Trong cuộc chinh chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, phải thành thật mà nói, chưa một lần nào Nguyễn Ánh có thể đương đầu trực diện với Nguyễn Huệ. Chính vì luôn thất bại trước Tây Sơn mà Nguyễn Ánh đã tự để cho mình rơi vào sợi dây thòng lọng của các Tây dương đạo trưởng như vừa mới nói ở phần trên bằng cách luôn nghĩ tới chuyện cầu cứu với ngoại bang, hết Xiêm, tới Pháp, rồi tới ngay cả Bồ Đào Nha và Hòa Lan. Tuy nhiên, vì chuyện Nguyễn Ánh đưa con trai lớn của mình là hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc làm con tin đưa sang Pháp quá nổi bật đã làm lu mờ đi những sự kiện quan trọng khác trong giai đoạn nầy. Vậy Bá Đa Lộc là ai mà được Nguyễn Ánh tin tưởng đến như vậy? Phải thật lòng mà nói, lúc đó dầu bất cứ người ngoại quốc nào đến và nói với Nguyễn Ánh rằng ‘tôi sẽ giúp ông về nhân lực, vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, tàu chiến, vân vân, để đánh đổ nhà Tây Sơn’ là lập tức Nguyễn Ánh sẽ ngã vào vòng tay của người đó, chứ không nhất thiết phải là Bá Đa Lộc. Bá Đa Lộc là tên Việt Nam của vị giám mục người Pháp tên Monseigneur Pigneau de Béhaine, còn có tên là Pierre Pigneau, sanh ngày 2 tháng 9, năm 1741, tại làng Origny-en-Thiérache, thuộc địa phận Aisne, vùng Picardie, phía Bắc nước Pháp. Bá Đa Lộc Monseigneur Pigneau de Béhaine là con của ông Georges Pigneau và bà Marie-Louise Nicaut, là con trưởng trong một gia đình có 19 người con. Sau khi học xong bậc sơ học tại quê nhà, ông tòng học tại một chủng viện tại Paris, đến năm 1765, tức là năm ông 24 tuổi, thì ông rời Paris để đi truyền đạo tại Cochinchine. Riêng theo thiển ý, tôi không bao giờ tin rằng giám mục Bá Đa Lộc đã từng làm gián điệp cho Tòa Thánh, nước Pháp, hay bất cứ quốc gia Âu châu nào, ông chỉ phục vụ cho lý tưởng Ki Tô hóa toàn cầu của giáo hội La Mã mà thôi. Vì dầu là giám mục, ông lại rất giỏi về múa gươm và bắn súng, và rất giỏi về quân sự, nhất là việc tuyển mộ binh lính, thương lượng mua bán vũ khí... để giúp cho những lãnh chúa nào chịu Ki Tô hóa lãnh địa của họ. Ông đến xứ Đàng Trong tại vùng Mang Khảm vào năm 1767, tuy nhiên, đến năm 1768 thì ông bị Mạc Thiên Tứ bắt giam vì tội che chở cho một hoàng thân Xiêm La, hai tháng sau đó ông được thả ra. Năm 1769, ông trở thành linh mục giám đốc chủng viện Hòn Đất. Khi chủng viện Hòn Đất bị đốt cháy, ông và linh mục Morvan cùng 13 người khác rời bỏ Việt Nam để đi Malacca bên Mã Lai, sau đó vào năm 1770, ông đi đến Pondichéry bên Bengale thuộc Ấn Độ. Năm 1771, ông được giáo hoàng Clément XIV tấn phong giám mục Adran, làm phụ tá cho giám mục Guillaume Piguel. Năm 1774, ông được tấn phong làm giám mục tông tòa Đàng Trong. Tháng 3 năm 1776, Bá Đa Lộc được Đô đốc Mạc Thiên Tứ cấp cho một lô đất ở vùng Cây Quao, phía Nam Hà Tiên để lập họ đạo Pigneau và giao cho linh mục Morvan điều khiển. Trong khi đó triều đình chúa Nguyễn của xứ Đàng Trong đang bị lung lay tận gốc rễ sau những cuộc càn quét quyết liệt của đại quân Tây Sơn. Đầu năm 1775, sau khi quân Tây Sơn bắt được hoàng thân Dương, chúa Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần phải cùng Nguyễn Ánh và hoàng gia bỏ chạy vào Gia Định. Đến năm 1776, hoàng thân Dương trốn thoát cũng chạy theo vào Gia Định. Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương làm Tân Chính Vương, còn mình thì làm Thái Thượng Vương.
Hoàn Cảnh Nào Đã Đưa Đẩy Nguyễn Ánh Gặp Bá Đa Lộc?
Đối với thế giới và dân Pháp, có lẽ cái tên Bá Đa Lộc đã chìm sâu vào quên lãng, nhưng đối với lịch sử và nhân dân Việt Nam, cái tên ấy nó vẫn còn in đậm trong tâm tưởng như một vết hằn đau đớn, một vết sẹo chưa lành, hay một vết thương vẫn còn rỉ máu... vì chính ông đã khiến cho cục diện Việt Nam thay đổi hoàn toàn. Thật tình mà nói, nếu thế giới nầy chưa từng có tên Bá Đa Lộc, có lẽ cục diện Việt Nam sẽ không như ngày hôm nay. Như trên đã nói, trong cuộc chinh chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, phải thành thật mà nói, chưa một lần nào Nguyễn Ánh có thể đương đầu trực diện với Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, một mặt vì thù nghĩa quân Tây Sơn đã giết hại dòng họ của mình, mặt khác vì lúc nào cũng ôm mộng lấy lại cho bằng được chiếc ngai vàng, nên Nguyễn Ánh không từ nan bất cứ chuyện gì, ngay cả chuyện rước voi về dày mả tổ. Cũng chính vì vậy mà Nguyễn Ánh đã đặt quyền lợi đất nước sau chuyện trả thù và khôi phục lại chiếc ngai vàng cho dòng họ. Ông luôn nghĩ tới chuyện cầu cứu với ngoại quốc, hết Xiêm, tới Pháp, rồi tới Bồ Đào Nha và Hòa Lan. Ngay cả cái việc giao đứa con trai mới 4 tuổi của mình cho Bá Đa Lộc để làm con tin, Nguyễn Ánh cũng không từ, thì thử hỏi chuyện gì mà Nguyễn Ánh không làm được? Tệ hại hơn nữa, chính Nguyễn Ánh đã giao trọn quyền cho Bá Đa Lộc khi thương thuyết với chánh phủ Pháp trong việc ký kết hiệp ước Versaille vào năm 1787. Trong hiệp ước nầy, Nguyễn Ánh sẵn sàng dâng đất dâng biển cho Pháp, nhất là việc nhượng đứt cho Pháp phố cảng Hội An và quần đảo Côn Sơn, để được người Pháp giúp ông binh lính, vũ khí và quân trang quân dụng trong chiến tranh đối đầu với nghĩa quân Tây Sơn. Trong khi đó, về phía giám mục Bá Đa Lộc, động lực nào đã xui khiến vị giám mục nầy lại trở nên quá gắn bó với triều đình xứ Đàng Trong như vậy? Tưởng cũng nên nhắc lại, vào những thế kỷ thứ XV, XVI, XVII, XVIII, và XIX, Giáo Hội La Mã đã tung ra các đoàn truyền giáo Tây phương viễn du khắp nơi trên hoàn vũ với mục đích duy nhất là đem giáo lý đạo Ki Tô giáo hóa những người mà họ cho là hãy còn man di mọi rợ. Qua những đoàn truyền giáo nầy, họ muốn Ki Tô hóa toàn cầu, và sự xuất hiện của giám mục Bá Đa Lộc tại xứ Đàng Trong cũng nằm trong chương trình Ki Tô hóa toàn cầu nầy. Theo Việt Nam Giáo Sử của linh mục Phan Phát Huờn, năm 1774, Bá Đa Lộc được tấn phong Giám mục tại Madras, Ấn Độ. Đến năm 1775, Tổng trấn Mạc Thiên Tứ mời ông về Hà Tiên (?) và nhường cho ông một khu đất khá rộng gần thành phố để có thể tiện việc truyền giáo. Các giáo hữu tụ họp ở đây rất đông đảo, vì giặc giã đói khát họ đã từ khắp các tỉnh Nam Việt đến Hà Tiên tỵ nạn. Các thừa sai ước lượng số tỵ nạn lên đến ngàn người. Bá Đa Lộc lập họ đạo Pigneau ở Hà Tiên. Chính lúc nầy ông gặp Nguyễn Ánh và đã cho Nguyễn Ánh trốn tại nhà. Sau một tháng trú ngụ trong nhà của Bá Đa Lộc,
Nguyễn Ánh đem mẹ và những người nghĩa thiết trốn trên một cù lao hiu quạnh ở vịnh Thái Lan(12). Có lẽ từ đó Nguyễn Ánh đã để ý đến Bá Đa Lộc, vì sau những lúc đàm luận với vị giám mục nầy Nguyễn Ánh nghĩ rằng người nầy có thể là nhịp cầu nối liền Nguyễn Ánh với Pháp hoàng trong việc cầu viện sự giúp đỡ của Pháp về mặt quân sự để đánh lại với nghĩa binh Tây Sơn.
Tháng 9 năm 1777, quân Tây Sơn bắt sống Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương tại vùng Ba Vác và cả hai đều bị xử tử tại thành Gia Định vào tháng 10 năm 1777. Năm 1780, sau khi Nguyễn Huệ rút đại quân Tây Sơn về Qui Nhơn, Nguyễn Ánh lại quay trở về tái chiếm Gia Định và cho lập ra Kinh Gia Định hay Tân Triều. Bá Đa Lộc chính là linh hồn của cuộc chiến đấu chống Tây Sơn của Nguyễn Ánh, vì ông vừa là quân sư, vừa là tham mưu hành quân, mà cũng vừa là người đã thảo ra những sách lược ngoại giao của ‘Kinh Gia Định’ trong khi Nguyễn Ánh còn bôn tẩu tại miền Nam. Và chính con người nầy đã giúp cho Nguyễn Ánh lập nên cơ nghiệp nhà Nguyễn về sau nầy. Kỳ thật, dầu trước đó Nguyễn Ánh đã có liên lạc với Bá Đa Lộc, nhưng sự thân thiện giữa Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc chỉ thật sự xảy ra sau khi Nguyễn Ánh tái chiếm thành Gia Định vào năm 1780 và cho phép ông này hoạt động truyền giáo tự do tại các vùng do Nguyễn Ánh kiểm soát. Đến tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ kéo đại quân vào đánh lấy lại thành Gia Định, thì Nguyễn Ánh phải bỏ trốn ra Phú Quốc, còn Bá Đa Lộc thì trốn sang Cao Miên. Đến tháng 10 năm 1782, sau khi Nguyễn Huệ rút quân về Qui Nhơn, Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc lại kéo quân về định chiếm thành Gia Định, nhưng không xong, nên sau đó, Bá Đa Lộc về vùng Mặc Bắc, thuộc huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh, để xây dựng giáo xứ Mặc Bắc. Đến đầu năm Quí Mão, 1783, Châu văn Tiếp mang quân từ Bình Thuận vào giúp Nguyễn Ánh đánh chiếm Gia Định, nhưng một tháng sau đó, vào tháng 2 năm 1783, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại mang quân vào tái chiếm thành Gia Định, Nguyễn Ánh lại phải bỏ chạy ra Phú Quốc lần nữa. Lần nầy quân Tây Sơn ở lại lâu hơn để truy kích Nguyễn Ánh. Trong suốt khoảng thời gian từ năm 1771 đến năm 1799, Nguyễn Ánh đã từng cầu cứu với người Bồ Đào Nha và Hòa Lan, nhờ họ giúp đỡ về vũ khí và nhân lực nhằm lấy lại chiếc ngai vàng cho dòng họ Nguyễn, nhưng giám mục Bá Đa Lộc đã tìm cách ngăn chặn và lôi kéo Nguyễn Ánh về phía nước Pháp, vẫn với hy vọng Ki Tô hóa ông chúa nhà Nguyễn nầy cũng như toàn bộ lãnh địa xứ Đàng Trong, nên ông đã không ngần ngại làm bất cứ điều gì để đạt được mục đích của mình. Về phía Nguyễn Ánh, khi bị quân Tây Sơn truy đuổi gắt gao trong khu vực các đảo quanh Phú Quốc vào cuối tháng 2 năm 1783, ông đã cho người đưa hoàng tử Cảnh(13) đi theo giám mục Bá Đa Lộc làm con tin để xin cầu viện với người Pháp. Trong vấn đề cầu viện với triều đình bên Pháp, Nguyễn Ánh chẳng những cử Bá Đa Lộc làm sứ giả của mình qua Pháp cầu viện, mà ông còn giao cho Bá Đa Lộc con trai của mình, và ấn tín của vương triều nhà Nguyễn, đồng thời ông còn cho Phó vệ úy Phạm văn Nhơn và Cai Cơ Nguyễn văn Liêm tháp tùng theo Bá Đa Lộc và Đông cung Cảnh. Thấy như thế cũng đủ biết mộng bá đồ vương của Nguyễn Ánh được đặt lên trên bất cứ thứ gì.
Vào tháng 2 năm 1785, Bá Đa Lộc đưa hoàng tử Cảnh sang Pondichéry, thuộc xứ Bengale, Ấn Độ, nhưng phải đợi đến năm 1786 ông mới bắt đầu đi Pháp được. Tháng 2 năm 1787, Bá Đa Lộc về đến Pháp, ông này ra sức tuyên truyền với triều đình Pháp về mối lợi tại Việt Nam khi nắm được con cờ Nguyễn Ánh trong tay. Sau đó, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh được vua Louis XVI tiếp kiến vào ngày 6 tháng 5 năm 1787. Trong buổi hội kiến nầy, Bá Đa Lộc đã báo cáo lên Pháp hoàng về những thuận lợi khi giúp Nguyễn Ánh lấy lại chiếc ngai vàng cho dòng họ Nguyễn, nhưng chính vua Louis XVI và hoàng hậu Marie-Antoinette cũng đang bị rắc rối với dân chúng Pháp, nên nhà vua và triều thần đã không chấp thuận cuộc viễn chinh nầy. Tuy nhiên, Pháp Hoàng lại đồng ý cho một vị Bộ trưởng của ông là Công tước Montmorin ký với Bá Đa Lộc một hiệp ước tại Versaille vào ngày 28 tháng 11 năm 1787. Trong hiệp ước nầy, Bá Đa Lộc được toàn quyền quyết định mọi điều khoản thay cho Nguyễn Ánh. Hiệp ước gồm 10 khoản, trong đó Pháp sẽ gởi quân sang giúp Nguyễn Ánh để khôi phục lại chiếc ngai vàng cho nhà Nguyễn, gồm 4 tàu chiến, 1.200 quân, 200 khẩu pháo cùng trợ giúp vũ khí, quân trang và quân phí. Để đổi lại Nguyễn Ánh sẽ nhường đứt cho Pháp chủ quyền và sở hữu hải cảng Hội An và đảo Côn Lôn, người Pháp được độc quyền về thương mại trên toàn cõi Việt Nam, và hải quân Pháp cũng được phép sử dụng hải phận và các cảng khác của Việt Nam khi được hai bên thỏa thuận. Hiệp ước cũng cho phép các giáo sĩ Tây phương hoàn toàn tư do đi lại và truyền giáo trên khắp các miền đất nước Việt Nam. Bản hiệp ước được ký tại Versailles ngày 28 tháng 11 năm 1787 thể hiện rõ ràng ý đồ bao vây và xâm lược Việt Nam của Pháp ngay hồi hậu bán thế kỷ thứ XVIII.
Trong khi chờ đợi sự trợ giúp của quân Pháp theo như hiệp ước Versailles, Nguyễn Ánh vẫn sống lưu vong trên đất Xiêm và mặt khác cho người về Gia Định chiêu mộ quân sĩ để chuẩn bị cuộc chiến tranh lâu dài với Tây Sơn. Ngày 2 tháng 12 năm 1787, vua Louis XVI đã gửi cho viên tổng chỉ huy quân sự Pháp tại Ấn Độ, kiêm Toàn quyền Pháp tại Pondichéry là bá tước De Conway một bảng ghi nhớ mô tả tình trạng nguy ngập của Nguyễn Ánh và giao phó cho De Conway trách nhiệm thi hành hiệp ước Versaille. Mặc dầu theo ước tính của Bá Đa Lộc là chỉ tốn khoảng 100.000 quan Pháp cho kinh phí chiến tranh với Tây Sơn, nhưng sau khi ký kết hiệp ước Versailles với Bá Đa Lộc, cũng cùng ngày 2 tháng 12 năm 1787, Bộ trưởng Montmorin đã gửi cho viên Toàn Quyền Pháp ở Pondichéry một lá thư với chỉ thị mật về tình trạng kiệt quệ tài chánh của triều đình Pháp lúc bấy giờ. Bộ trưởng Montmorin giao cho De Conway tùy nghi định đoạt trong việc thi hành hiệp ước Versaille. Tuy nhiên, theo Montmorin, nếu muốn thi hành hiệp ước, Pháp phải thiết lập một ngân quỹ đặc biệt lên tới 200 ngàn quan Pháp cho chiến tranh của Nguyễn Ánh với Tây Sơn. Đây là việc mà De Conway chống đối quyết liệt. Trong khi chờ đợi sự quyết định của bá tước De Conway, Bá Đa Lộc bèn tự mình đứng ra vận động một số tư bản Pháp cũng như quyên góp từ các giáo xứ và thương nhân giàu có một số tiền khoảng 15.000 quan Pháp thời đó, và ông đã đứng ra mua vũ khí, súng ống, đạn dược, chiến thuyền và quân trang quân dụng cho quân đội Nguyễn Ánh. Đến ngày 27 tháng 12 năm 1787, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh lên đường trở lại Việt Nam trên chiến thuyền La Dryade. Tháng 9 năm 1788, tàu Dryade chở 1000 khẩu súng đến Côn Lôn. Cuối năm 1788, tàu Garonne chở súng đại bác và nhiều quân trang quân dụng đến Gia Định. Ngoài ra, Bá Đa Lộc còn chiêu mộ được một số người Pháp sang gia nhập quân đội của Nguyễn Ánh. Trong số đó có các ông Chaigneau và Vannier mà sau này được phong quan tước trong triều Gia Long. Theo ông Taboulet trong cuộc nói chuyện với Vannier thì vào năm 1789, quân đội của Nguyễn Ánh đã có 14 sĩ quan và 80 binh sĩ người Pháp. Trong khoảng thời gian nầy Bá Đa Lộc thường qua lại giữa xứ Đàng Trong và Pondichéry nhằm đốc thúc quyết định của bá tước De Conway, nhưng mối bất đồng giữa Bá Đa Lộc và De Conway ngày một gay gắt hơn. Sau thời gian chờ đợi sự quyết định của bá tước De Conway mà không thấy có kết quả, ngày 14 tháng 6 năm 1788, Bá Đa Lộc bèn viết thư cho bá tước De Conway chỉ xin ông nầy trợ giúp chiếc tàu La Dryade mà thôi, nhưng đã bị De Conway thẳng thừng từ chối. Sau đó, ngày 15 tháng 6 năm 1789, Bá Đa Lộc lên tàu La Méduse cùng với bốn chiếc tàu khác trở lại xứ Đàng Trong. Khi đến nơi, một số sĩ quan trên tàu đã bỏ tàu tình nguyện ở lại giúp Nguyễn Ánh, trong đó có Jean Phillipe Vannier (Nguyễn văn Chấn), Olivier de Puymanel, Dayot, Le Brun, De ForVant, vân vân. Đây là những người được Bá Đa Lộc thuyết phục ở lại giúp cho Nguyễn Ánh sau khi hiệp ước Versaille không thi hành được. Sau đó, ngày 14 tháng 7, năm 1789, cách mạng Pháp bùng nổ, kéo theo bi kịch của nhiều người, trong đó có hoàng đế Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette, và chánh phủ mới tại Pháp đã quyết định không thi hành hiệp ước này.
Nói về sự cầu cứu với người Hòa Lan của Nguyễn Ánh, thì Bá Đa Lộc đã viết lại rất rõ trong một bức thư gởi về Paris đề ngày 6 tháng 7 năm 1785 như sau: “Trước khi ra khỏi vịnh Thái Lan, tôi gặp vị vua đang chạy trốn mà tôi đã rời xa từ một năm rưỡi nay. Sau đủ chuyện với quân Thái Lan, ông quyết định đi sang với người Hà Lan đang hứa giúp ông. Nếu tôi không tới đó đúng lúc để ngăn chặn, thì cũng có lẽ ông đã ở Batavia.” Về phía người Bồ Đào Nha, Nguyễn Ánh đã ký với họ một thỏa ước ở Băng Cốc vào ngày 5 tháng 12 năm 1786, nhưng sau đó không được thi hành. Đến cuối năm 1788, trong khi quân Tây Sơn đang chuẩn bị kéo vào Nam tiêu diệt quân đội ngoại nhập của Nguyễn Ánh mới được Bá Đa Lộc thành lập với những vũ khí tối tân(14), nhưng Nguyễn Huệ lại được tin cấp báo là Lê Chiêu Thống đã chạy sang Tàu cầu viện với nhà Thanh, và vua Càng Long đang cho đại quân tiến vào Thăng Long. Thế là Nguyễn Huệ phải dồn hết nỗ lực để dẹp giặc phương Bắc. Chỉ trong vòng 6 ngày đầu xuân 1789, quân Tây Sơn đã đánh tan gần 30 vạn quân Thanh và tái chiếm Thăng Long. Sau khi dẹp tan giặc Thanh ở phương Bắc, vì không muốn nhân dân tiếp tục đồ thán vì các cuộc chiến tranh nên Nguyễn Huệ không muốn tiếp tục đánh vào Gia Định. Trong khi đó, Nguyễn Ánh và tàn quân của ông co cụm lại để đánh chiếm Gia Định vào năm 1788, và ngày 24 tháng 7 năm 1789, đoàn chiến thuyền Méduse của Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh cập bến Vũng Tàu với rất nhiều vũ khí và đạn dược, cùng 20 sĩ quan và 300 binh sĩ trong quân đội Pháp sẽ phục vụ trong quân đội của Nguyễn Ánh(15). Trong khi Nguyễn Ánh đang củng cố quân sự tại Kinh Gia Định thì Bá Đa Lộc cũng lập Trung Tâm Giáo Phận xứ Đàng Trong tại Lái Thiêu, nhưng đến tháng 6 năm 1792, ông ta cho di chuyển trung tâm nầy ra Kinh Gia Định, kinh đô của Nguyễn Ánh thời bấy giờ. Nguyễn Ánh ban cho Bá Đa Lộc một đội ngự lâm quân gồm 200 người, lúc đó Bá Đa Lộc đang đảm nhiệm chức vụ Đặc Ủy viên của vua Pháp, Nguyễn Ánh lại phong cho Bá Đa Lộc làm cố vấn chiến tranh kiêm ngoại giao cho Nguyễn Ánh. Đến tháng 9 năm 1792, vua Quang Trung phát động chiến dịch ‘Nam Tiến’, nhưng vận nước đảo điên khiến cho vị hoàng đế bách chiến bách thắng nầy yểu mệnh, khiến cho chẳng những kế hoạch ‘Nam Tiến’ không bao giờ trở thành hiện thực, mà những ước mơ cải cách đất nước của vua Quang Trung cũng không được thực hiện. Tưởng cũng nên nhắc lại, ngay khi vừa mới lên ngôi, ngoài việc chiêu hiền đãi sĩ, vua Quang Trung còn chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế, và cương quyết không ‘bế quan tỏa cảng’; tuy nhiên, chỉ tiếc rằng hoàng đế Quang
Trung băng hà khi chưa thực hiện được ước mơ làm cho dân giàu nước mạnh của mình(16). Vua Quang Trung băng hà vào ngày 15 tháng 9 năm 1792. Kể từ giây phút đó, coi như thế cờ Việt Nam đã nghiên hẳn về phía Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc. Khi Bá Đa Lộc chết vào năm 1799, chính Nguyễn Ánh đã chủ tọa đọc điếu văn, và chính Nguyễn Ánh đã cho xây dựng một lăng mộ thật nguy nga trong khu vực Chí Hòa, thuộc tỉnh Gia Định, cách Kinh Gia Định thời bấy giờ khoảng 3 cây số, chứ không phải là vị trí của ngôi mộ ‘Lăng Cha Cả’ mà chúng ta thấy sau nầy.
Tại Sao Nhân Dân Nam Kỳ Không Hỗ Trợ Phong Trào Tây Sơn?
Ai trong chúng ta cũng đều biết rằng chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà Tây Sơn đã viết lên một trang sử vẻ vang cho đất nước. Tuy nhiên, triều đại Tây Sơn chưa có đủ thì giờ để xây dựng một đất nước Việt Nam đúng theo mô hình mà vua Quang Trung đã phác họa. Thêm vào đó, vận nước đã khiến xui cho vua Quang Trung băng hà khi ngài vừa tròn 40 tuổi, cái tuổi hãy còn quá trẻ cho một đời người. Bên cạnh đó, những khó khăn của Tây Sơn khởi lên ngay từ khi phong trào ấy bắt đầu, vì đây là phong trào được mệnh danh là của nông dân, của những người áo vải, nên ngay từ buổi hồng hoang của phong trào, họ đã bị nhóm sĩ phu ngoảnh mặt quay lưng, không hợp tác. Kỳ thật họ không hề có ý định bỏ rơi nho sĩ hay không đề ra chánh sánh bạc đãi nông nghiệp và thương nghiệp như một số sử gia triều Nguyễn đã công kích. Nguyên nhân chính phải nói ở đây là sự yểu mệnh của vua Quang Trung đã kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt những chương trình mà vị vua này đã vạch ra cho đất nước Việt Nam. Như vậy, phải nói sự yểu mệnh của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã góp phần không nhỏ trong việc đưa Nguyễn Ánh trở lại Phú Xuân, dựng lại một triều đình một lần đã bị toàn dân Việt Nam đứng lên hợp sức với Tây Sơn lật đổ.
Tưởng cũng nên nhắc lại một nguyên nhân khác đã góp phần không nhỏ trong việc sĩ phu xứ Nam Kỳ không hỗ trợ cho phong trào Tây Sơn, đó là tâm trạng ‘ăn trái nhớ kẻ trồng cây’ của người dân Nam Kỳ. Đối với nhân dân Việt Nam nói chung, và nói riêng với nhân dân miền Nam, không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được công lao quá lớn của các chúa Nguyễn trong công cuộc mở cõi về phương Nam. Đa số những người dân miền Nam đều là những lưu dân nghèo khổ từ các vùng Thuận Hóa và Ngũ Quảng, bỏ xứ xuôi Nam tìm sinh lộ. Các chúa tiền triều nhà Nguyễn đã khéo léo, đã dày công mở cõi, cũng như đưa ra những chánh sách dễ dãi khiến cho họ được an cư lạc nghiệp. Chính vì lý do đó nên khi con cháu của các chúa lâm vào thế cùng sức cạn, bị Tây Sơn truy đuổi, phải trốn chạy vào miền Nam, không có người con dân miền Nam nào nỡ đành ngoảnh mặt làm ngơ với Nguyễn Ánh. Ngay cả các sĩ phu miền Nam, dầu họ biết triều đình chúa Nguyễn thời lộng thần Trương Phúc Loan là một triều đình thối nát, mặc dầu họ biết Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa vì chính nghĩa, vì lợi ích cho cả dân tộc, nhưng họ cũng không theo, mà ngược lại lúc nào họ cũng một lòng hỗ trợ Nguyễn Ánh. Những người Minh Hương cũng cùng có một tâm trạng với nhân dân miền Nam, tổ tiên họ đã mang ơn các chúa, nên tâm trạng của họ là phải ‘ăn trái nhớ kẻ trồng cây’. Chính vì thế mà họ không hỗ trợ Tây Sơn. Một lý do khác nữa khiến cho người Hoa tại miền Nam chẳng những không theo mà còn căm ghét Tây Sơn, đó là biến cố ‘Cù Lao Phố’ năm 1776(17).
Tại Sao Quân Tây Sơn Không Quyết Liệt Đánh Và Giữ Lấy Đất Nam Kỳ?
Không phải Tây Sơn không quyết liệt trong việc đánh chiếm và giữ lấy đất Nam Kỳ, nhưng nhiều lý do đã khiến cho Tây Sơn cứ phải vào đánh Gia Định; đánh xong rồi lại phải rút về Qui Nhơn. Sau khi Tây Sơn rút quân về Qui Nhơn, thì Nguyễn Ánh lại kéo quân về tái chiếm Gia Định, rồi Tây Sơn vào đánh, rồi rút, rồi đánh... cứ thế mà Tây Sơn và Nguyễn Ánh phải giằng co với nhau trong xứ Gia Định đến năm lần, cho đến khi Nguyễn Huệ phải rút quân về chuẩn bị đánh quân Thanh vào năm 1789. Phải thành thật mà nói, phong trào Tây Sơn khởi đi từ Qui Nhơn trong lúc triều đình nhà Nguyễn xứ Đàng Trong đang trong tình trạng thối nát, lớp thì tham quan ô lại, lớp thì lộng thần Trương Phúc Loan nắm giữ hết mọi quyền bính trong tay. Chính vì thế mà khi Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa, ban đầu có rất nhiều tướng tài về theo. Đến khi quân Tây Sơn kéo ra xứ Bắc Hà, họ lấy danh nghĩa ‘Phù Lê Diệt Trịnh’, nên sĩ phu Bắc Hà dầu không theo cũng không chống đối một cách quyết liệt. Chính vì thế mà quân Tây Sơn có chánh nghĩa rõ ràng tại xứ Bắc Hà, và họ đã diệt nhà Trịnh không mấy khó khăn. Đến khi họ kéo quân vào Nam Kỳ đánh triều đình xứ Đàng Trong, đối với nhân dân miền Nam, ngoài việc đứng lên diệt lộng thần Trương Phúc Loan, phong trào Tây Sơn không tìm ra được một lý do nào khác có tánh thuyết phục được nhân dân miền Nam. Chính vì vậy mà sau khi Tây Sơn đã diệt xong được Trương Phúc Loan, người dân miền Nam coi như Tây Sơn đã làm xong bổn phận của ‘con dân’. Đối với họ, Tây Sơn không còn lý do chính đáng để tiếp tục đánh phá triều
đình nhà Nguyễn nữa. Riêng việc tôn phù chính thống đối với dòng họ Nguyễn trong
Nam, ban đầu Tây Sơn cũng lấy chiêu bài tôn phù Hoàng Tôn Dương, nhưng sau khi quân Tây Sơn tìm bắt Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương(18), và giết đi, thì ngay lập tức tướng Châu văn Tiếp rời bỏ hàng ngũ Tây Sơn để về với Nguyễn Ánh. Đó là những trở ngại lớn cho quân Tây Sơn ở miền đất Nam Kỳ
Thêm vào đó, đối với Tây Sơn thời đó, như trên đã nói, vì phong trào Tây Sơn khởi lên từ một địa phương nhỏ tại vùng Qui Nhơn, nên rất có thể họ không xem vùng đất Nam Kỳ là một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, vì ý thức quốc gia đối với những người trong phong trào không vượt lên trên được tâm lý địa phương. Chính vua Thái Đức Nguyễn Nhạc cũng chỉ an phận với vùng Qui Nhơn, nên luôn tìm mọi cách củng cố triều đình Qui Nhơn. Nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy rõ ràng mỗi khi phải kéo quân vào Nam, các tướng lãnh Tây Sơn chỉ xem đó như là những cuộc chinh phạt vì nhu cầu quân sự mà thôi. Với họ là phải đánh nhanh và đánh mạnh, lấy được thứ gì cho việc xây dựng quân đội và kinh thành (Qui Nhơn) thì lấy, xong rồi rút về Qui Nhơn, chứ không muốn ở lại vùng đất ấy. Chính vì thế mà mỗi lần Tây Sơn kéo quân vào Nam, họ đánh như vũ bão, bách chiến bách thắng, nhưng họ quên rằng trong chiến tranh, hạ được thành không hẳn là thắng, mà phải giữ cho được thành mới gọi là thắng. Việc nầy Tây Sơn không làm được ở miền đất Nam Kỳ nếu không có hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ. Mà thật vậy, sau khi Nguyễn Huệ mất, chẳng những Tây Sơn không chiếm được Nam Kỳ, mà lần lượt những phần đất miền Trung, miền Bắc, và ngay cả Phú Xuân cũng phải rơi vào tay Nguyễn Ánh, và cuối cùng, ấu chúa Tây Sơn phải bị xử trảm dưới bàn tay của Nguyễn Ánh.
Bên cạnh đó, trong một đất nước quân chủ phong kiến như Việt Nam, thì việc tạo dựng sự chính thống cho một vương triều vẫn là ưu tư hàng đầu cho những người khởi nghiệp. Riêng đối với triều đại Tây Sơn, dầu đã chiến thắng gần 30 vạn quân Thanh vào năm 1789, nghĩa quân Tây Sơn vẫn chưa tìm ra được một khẩu hiệu nào thích ứng cho sự khởi nghiệp chính đáng của triều đại, nhằm khả dĩ có thể đối đầu với một đối thủ như Nguyễn Ánh, một nhân vật vốn đã có truyền thống về sự khởi nghiệp của dòng họ mình gần 200 năm. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất của Tây Sơn mỗi lần cất quân vào đánh Gia Định. Tây Sơn phải dựa vào sự sai lầm nghiêm trọng của Nguyễn Ánh mới có thể bố cáo với thần dân Nam Kỳ về sự cất quân của mình một cách có chính nghĩa, điển hình là lần Nguyễn Ánh cầu viện quân Xiêm La mang quân sang dày xéo bờ cõi Việt Nam, lần đó Nguyễn Huệ đã mạnh dạn cáo tri với thần dân Nam Kỳ về sự cất quân đánh đuổi quân xâm lược của mình. Ngoài lần đó ra, dưới mắt thần dân Nam Kỳ, họ luôn xem Tây Sơn là một phong trào địa phương tại vùng Qui Nhơn, chỉ khởi lên nhằm soán đoạt ngôi vị của dòng họ Nguyễn, một dòng họ mà họ xem là chính thống từ gần 2 thế kỷ nay.
Còn một lý do phát khởi từ sự chia rẽ trong nội bộ Tây Sơn cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc Tây Sơn không quyết liệt đánh và giữ lấy đất Nam Kỳ. Sau năm 1785, Nguyễn Huệ vừa đánh chiếm Phú Xuân, theo lời cố vấn của Nguyễn Hữu Chỉnh, đem quân ra đánh Bắc Hà. Nguyễn Nhạc vì sợ Nguyễn Huệ chuyên quyền, nên vội vã mang quân ra Bắc và ép buộc Nguyễn Huệ phải rút quân về Phú Xuân. Từ đó đã có mâu thuẫn trong nội bộ giữa hai anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, đến nỗi Nguyễn Huệ phải mang quân vào vây thành Qui Nhơn, nhưng rồi họ cũng tạm thời giảng hòa được với nhau. Tuy nhiên, kể từ đó, quyền bính đã được phân định rõ ràng: Nguyễn Nhạc làm Trung Ương Hoàng Đế, cai quản từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận; Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cai quản từ Quảng Nam ra Bắc; và Đông Định Vương Nguyễn Lữ cai quản từ Bình Thuận vào Hà Tiên. Chính sự phân chia quyền hành nầy đã gây ra một lỗ hỏng quân sự lớn tại miền Nam, vì Đông Định Vương Nguyễn Lữ chưa bao giờ là đối thủ của Nguyễn Ánh, và có lẽ trong đời của Nguyễn Ánh, ông ta chỉ khiếp sợ mỗi một mình Nguyễn Huệ mà thôi. Cũng chính sự phân chia quyền hành nầy đã đẩy Nguyễn Huệ đi xa cái vùng cần sự có mặt của Nguyễn Huệ nhiều nhất, đó là vùng đất phía Nam, nơi có sự cát cứ của Nguyễn Ánh. Và có lẽ cũng chính sự phân chia quyền hành nầy đã cô lập các lực lượng thiện chiến của Tây Sơn và hậu quả cuối cùng là sự sụp đổ của Tây Sơn vào năm 1802.
Nguyễn Ánh Cầu Viện Xiêm La Về Đánh Đất Nam Kỳ:
Thấy binh lực của Nguyễn Ánh đã hoàn toàn kiệt quệ nên Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ rút quân về Qui Nhơn, để phò mã Trương văn Đa ở lại giữ thành Gia Định. Trong khi Nguyễn Ánh đang lẩn trốn trên đảo Thổ Châu thì tàn quân của ông ta vẫn tiếp tục hoạt động tại vùng Gia Định. Đầu năm Giáp Thìn 1784, phò mã Trương văn Đa mở cuộc hành quân tảo thanh tàn quân Nguyễn Ánh tại vùng Tân Hòa (Gia Định), các tướng của Nguyễn Ánh bị đại bại nên phải trốn sang Xiêm bằng đường bộ. Trong khi đó thì Châu văn Tiếp đã có mặt tại Xiêm để cầu cứu đến sự trợ giúp của Xiêm vương. Vua Rama I đồng ý gửi quân sang đánh Tây Sơn với điều kiện Nguyễn Ánh phải đích thân qua chầu vua Xiêm. Vừa được chiếu chỉ của Xiêm vương, Tiếp băng đường bộ về Việt Nam để báo tin cho Nguyễn Ánh. Đầu năm 1784, vua Xiêm lại sai tướng Thát Sỉ Đa đem thủy quân đến Hà Tiên, lấy cớ là để đưa Nguyễn Ánh sang Xiêm, nhưng thực chất là thị uy cái vương triều thối nát của Nguyễn Ánh, buộc Nguyễn Ánh phải sang chầu vua Xiêm như một nước chư hầu. Thấy không thể đương cự được với Tây Sơn, nên tháng 2 năm 1784, Nguyễn Ánh đã đích thân trốn sang Xiêm để cầu viện với Xiêm vương, nhưng thực chất là để chầu vua Xiêm La như một nước chư hầu, mong được Xiêm vương chấp thuận đưa quân sang đánh Việt Nam. Tháng 6 năm 1784, Xiêm vương sai 2 tướng Chiêu Sương và Chiêu Tăng(19) đem 20.000 thủy binh với 300 chiến thuyền, cùng với 30.000 lính bộ binh sang đánh Tây Sơn với danh nghĩa là giúp Nguyễn Ánh, thực chất thời đó lúc nào Xiêm La cũng mong thôn tính trọn vẹn vùng đất Nam Kỳ mầu mỡ nầy. Nguyễn Ánh cử Châu văn Tiếp làm Bình Tây Đại Đô Đốc, chỉ huy các đạo quân của Nguyễn Ánh. Tháng 7 năm 1784, quân Xiêm tiến chiếm Rạch Giá, Trấn Giang, Ba Thắc, Trà Ôn, Sa Đéc. Tuy nhiên, vừa đến Mân Thít thì Châu văn Tiếp tử trận. Quân Xiêm đến Việt Nam với thái độ trịch thượng của một mẫu quốc, chúng thẳng tay cướp bóc và tàn sát dân lành. Phò mã Trương văn Đa biết thế mình yếu hơn, không thể lấy 1 chọi 5, nên một mặt ông đã cho lui quân về Gia Định để bảo toàn lực lượng, một mặt cấp báo về Qui Nhơn. Tháng 12 năm 1784, Long Nhượng Tướng Quân Nguyễn Huệ đem quân vào Nam cứu ứng. Vào đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785, dù quân số ít hơn một phần tư quân số của Xiêm La và Nguyễn Ánh, nhưng vị tướng bách chiến bách thắng này đã đánh phủ đầu quân Xiêm một trận để đời tại vùng Rạch Gầm Xoài Mút, thuộc tỉnh Mỹ Tho bây giờ. Trong trận này, quân Xiêm chết trên một vạn rưỡi. Chiêu Sương và Chiêu Tăng phải thu góp tàn quân chạy theo đường bộ về Xiêm La, còn Nguyễn Ánh phải trốn chạy về vùng Trấn Giang (vùng Cần Thơ ngày nay). Trận chiến thắng vẻ vang của quân Tây Sơn tại Rạch Gầm Xoài Mút như thế ấy mà sử thần triều Nguyễn lại chép rằng: “Khi tới nơi, Huệ đánh vài trận không được, có ý muốn lui binh, nhưng nhờ có phản thần bày kế, Huệ mới mai phục tại Sầm Giang và ở Xoài Mút, rồi dụ quân Xiêm tới đánh. Quân Xiêm do không rành địa thế, lại ỷ thắng trận nên bị lọt vào vòng phục kích của hai đạo quân thủy bộ của Nguyễn Huệ. Chiêu Tăng và Chiêu Sương gom quân sống sót còn được vài ngàn, nhắm nẻo Chân lạp mà chạy.” Tuy nhiên, chính sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện cũng phải thừa nhận về vị anh hùng Nguyễn Huệ như sau: “Nguyễn Huệ bốn lần vào đánh Gia
Định, mỗi khi ra trận đều dẫn đầu các sĩ tốt, hiệu lệnh rất nghiêm, quân binh đều nể phục.”(20)
Sau khi tàn quân Xiêm La bỏ chạy về nước, Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh cũng phải chạy trốn ra các đảo nhỏ trong vịnh Xiêm La. Trong cơn tuyệt vọng, Nguyễn Ánh đã thúc giục Bá Đa Lộc đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp với nhiều điều kiện thuận lợi cho cả Pháp lẫn Bá Đa Lộc trong việc truyền đạo tại Việt Nam. Sau trận Rạch Gầm-Xoài Mút, nghĩa quân Tây Sơn truy kích tàn quân Nguyễn Ánh một cách ráo riết, nên Nguyễn Ánh lại phải bỏ chạy ra đảo Thổ Châu, nhưng rồi cũng bị quân Tây Sơn truy nã quá gắt, phải chạy sang đảo Cổ Cốt. Tháng 3 năm 1785, tên Cai Cơ Trung đem 200 quân cùng 5 chiếc thuyền của giặc Xiêm đến đón Nguyễn Ánh sang chầu Xiêm vương tại Vọng Các. Xiêm vương Rama I, không cho Nguyễn Ánh vào thành nên Ánh và đoàn tùy tùng phải trú ngụ ở Long Kỳ, ngoại ô thành Vọng Các.
Nguyễn Ánh Tái Chiếm Nam Kỳ:
Tháng 4 năm 1785, Long Nhượng Tướng Quân Nguyễn Huệ rút quân về Qui Nhơn, giao Gia Định lại cho Đô Úy Đặng văn Trấn. Tháng 5 năm 1786, Long Nhượng Tướng Quân chiếm thành Phú Xuân, rồi tiến thẳng ra Thăng Long tiêu diệt họ Trịnh. Vua Thái Đức phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương. Kể từ khi họ Trịnh ở phương Bắc đã bị tiễu trừ, Bắc Bình Vương vẫn để cho vua Lê trị vì phương Bắc, nhưng vua Lê Chiêu Thống lại sợ cảnh chúa Trịnh tái diễn nên đã sang Tàu cầu cứu với nhà Thanh. Trong khi về mặt Bắc, quân Tây Sơn phải dồn hết nỗ lực đánh bại quân Trịnh, rồi lại phải đương đầu với giặc Mãn Thanh, nên không còn lực lượng đâu nữa để mà trấn giữ thành Gia Định. Tuy vậy vua Thái Đức vẫn phong cho Tiết Chế Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương và giao cho trấn thủ thành Gia Định với một số quân khiêm nhường(21).
Sau hơn một năm trời chầu chực mà vẫn không được sự trợ giúp của Xiêm vương, nên tháng 7 năm 1787, Nguyễn Ánh cùng đoàn tùy tùng của ông đang đêm bỏ trốn về nước. Khi về nước, Nguyễn Ánh lại gặp dịp may là quan Chưởng Cơ của Tây Sơn ở Long Xuyên là Nguyễn văn Trương đem quân về qui thuận với Nguyễn Ánh. Như vậy, không đánh mà đã chiếm được vùng Long Xuyên. Sau đó chính Nguyễn văn Trương dẫn quân đi đánh Tây Sơn tại các vùng Trà Ôn, Cần Giờ... Đông Định Vương nghe tin các tướng của mình làm phản theo về với Nguyễn Ánh nên rút quân về Trấn Biên, rồi sau đó rút lui về Qui Nhơn. Trong ba anh em nhà Tây Sơn, thì Đông Định Vương Nguyễn Lữ không có khiếu về quân sự. Ông chỉ có cốt cách của một nhà tu, không chủ trương sát hại sinh linh, nên ông không tha thiết mấy với việc tranh hùng với Nguyễn Ánh. Chính vì thế mà Nguyễn Ánh mới có đất dụng võ ở phương Nam. Nếu tài năng của Nguyễn Lữ chỉ cần bằng phân nửa của Nguyễn Huệ thì có lẽ cục diện thành Gia Định đã khác. Dù Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ biết rõ nguy cơ phục hồi của Nguyễn Ánh cũng như những việc làm bất kể hậu quả lâu dài cho dân tộc Việt Nam về sau này của Nguyễn Ánh, nhưng hiện tình ngoài Bắc bấy giờ cần sự lo lắng của vua Quang Trung hơn, nên ngài không còn đủ nhân lực vật lực để tiêu diệt Nguyễn Ánh trong giai đoạn này.
Năm 1788, Nguyễn Ánh gả công chúa Ngọc Du cho Võ Tánh khi ông này mang theo hơn một vạn quân đến với Nguyễn Ánh. Tháng 2 năm 1788, Nguyễn Ánh đánh chiếm 4 đồn tại vùng Vĩnh Trấn, rồi tháng 8 năm 1788, Nguyễn Ánh chiếm lại thành Gia Định. Như vậy, tính đến năm 1789, trong khi quân đội Tây Sơn đang ráo riết chuẩn bị chống ngoại xâm từ phương Bắc, thì Nguyễn Ánh đã nhân cơ hội này cầu viện với Xiêm và với Pháp để mua vũ khí và huấn luyện quân đội đánh chiếm thành Gia Định. Nguyễn Ánh muốn nhân cơ hội này củng cố và biến thành Gia Định thành một căn cứ hậu cần vững chắc cho cuộc chiến với Tây Sơn. Hơn thế nữa, đầu năm 1789, khi hay tin quân Thanh đang tràn sang xâm chiếm nước ta theo lời cầu viện của Lê Chiêu Thống, Nguyễn Ánh bèn sai sứ thần Phan văn Trọng và Lâm Đề mang quốc thư cùng 50 vạn cân gạo sang trợ giúp cho quân xâm lăng. Lại một lần nữa, trời bất dung gian, chưa tới nơi thì đoàn chở lương cho giặc Thanh bị bão đánh chìm. Thế là Nguyễn Ánh không được Thanh triều ghi công trong cuộc xâm lăng này. Đã vậy, sau khi bại trận, Thanh triều chẳng những không phục thù mà còn tỏ ra hòa hoãn với Tây Sơn bằng cách phong vương cho Nguyễn Huệ.
Vào ngày 14 tháng 7, năm 1789, trong chuyến trở lại Việt Nam, Bá Đa Lộc dẫn đường cho một số võ quan Pháp qua đầu quân với Nguyễn Ánh theo sự sắp xếp của Bá Đa Lộc và bộ Viễn Chinh Pháp. Thành Sài Gòn do Nguyễn Ánh ra lịnh xây vào năm 1790 là do Olivier de Puymanuel đứng chỉ huy xây dựng, với chiều cao khoảng 4.80 mét, toàn bằng đá ong Biên Hòa, có hình lục lăng. Tuy nhiên, đến năm 1835, sau khi đánh dẹp được nghĩa binh Lê văn Khôi, vua Minh Mạng đã cho san bằng thành này. Như vậy một cái thành kiên cố và tốn kém như vậy chỉ được xử dụng có 45 năm mà thôi. Không biết vua Minh Mạng nghĩ gì khi ngài giận cá chém thớt như vậy, chỉ vì giận “giặc Khôi,” mà ngài nỡ phá bỏ thành lũy phòng thủ của vùng đất mà mới vài chục năm trước chính cha của ngài đã được người dân tại đây che dấu và bảo vệ. Sau khi phá bỏ thành Gia Định thỉ ngài chỉ xây lại một cái thành gọi là “lấy có”, chứ quy mô thì nhỏ hơn thành Gia Định trước nhiều. Chính vì thế mà khi quân
Pháp tiến đánh Gia Định, chúng không bị một trở ngại nào trong việc đánh chiếm ngôi thành mới này. Theo Trương Vĩnh Ký thì trung tâm phế thành Gia Định là khoảng khu nhà thờ Đức Bà vì khi đào móng xây nhà thờ Đức Bà, người ta bắt gặp một lớp tro, cây, gạch và đá cháy lụn vụn có bề dày trên 3 tấc, có lẽ đây là kho lương thực của nghĩa binh Lê văn Khôi bị quân của vua Minh Mạng đốt vào năm 1835. Trong đống tro vụn này có rất nhiều tiền điếu, tiền kẽm bị lửa cháy quyện lại thành khối, nhưng vẫn còn thấy nhiều đồng tiền chưa bị tan chảy hoàn toàn. Vào năm 1926, thợ đào móng xây nhà lầu ở đường Catinat (đường Tự Do bây giờ), có gặp dưới bề sâu khoảng 5 hay 6 thước, một nền đá ong hình lục lăng. Vào năm 1935, thợ xây cất đào thấy ở nhà thương Đồn Đất, góc đường La Grandière (đường Gia Long sau này) và đường Lafont (đường Chu Mạnh Trinh), mớ đá ong hình lục lăng. Theo nhà khảo cổ Charles Lemire thì đường Lagrandière chính là con đường đắp trên hào của phế thành Gia Định ngày trước. Hiện những tảng đá ong lục lăng này vẫn còn được lưu trữ trong Bảo Tàng Viện trong vườn Bách Thảo Thị Nghè.
Dưỡng Hổ Di Họa:
Sau khi đã đánh đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi, quần thần đề nghị vua Quang Trung nên nhân cơ hội khí thế quân sĩ đang lên và nhân dân đang náo nức được gom về một mối dưới sự lãnh đạo sáng suốt của vua Quang Trung nên mang quân đánh thẳng vào Gia Định tiêu diệt mối di họa Nguyễn Ánh, nhưng vua Quang Trung đã không làm như vậy. Ngài đã nói: “Tiêu diệt một lực lượng vọng ngoại và không có thực lực của Nguyễn Ánh đối với ta không khó. Tiêu diệt Nguyễn Ánh bây giờ thật dễ như bẻ gãy cành khô củi mục. Ta có thể đem quân từ Thăng Long vào thẳng Gia Định và diệt gọn Nguyễn Ánh. Tuy nhiên, như các khanh thấy đó, nhân dân ta đã đồ thán vì thù trong giặc ngoài này quá lâu rồi. Nay vừa qua cơn binh lửa với nhà Thanh, ta không nỡ nào đẩy dân tộc mình vào một cuộc chiến tranh khác với Nguyễn Ánh ngay trong lúc này. Thôi, hãy cho nhân dân ta hưởng thái bình vài năm rồi hẳn tính.”
Vì hạnh phúc và sự an nguy của nhân dân mà vua Quang Trung đã không mang quân đánh thẳng vào Gia Định sau khi tiêu diệt quân Thanh, nhưng Nguyễn Ánh thì ngược lại, ông ta đã nhân cơ hội này mà vào tháng 3 năm 1790 cho xây lại thành Gia Định. Thành được xây theo kiểu hình bát giác, chung quanh có hào sâu bao bọc. Phải nói ngay khi còn ở bên Xiêm thì người của Nguyễn Ánh đã chiêu mộ được tại Gia Định một số khá đông binh sĩ, và việc chiêu mộ này vẫn kéo dài liên tục, cho đến năm 1790 thì Nguyễn Ánh đã có trên 30.000 quân tại Gia Định. Để dự trữ lương thực và quân nhu cho chiến tranh, Nguyễn Ánh đã ra lệnh cho nhân dân miền Nam phải giao nộp hàng năm. Nếu ai nộp được nhiều thì được miễn đi ra trận, hoặc miễn đi lao dịch tại chiến trường. Ngoài ra, năm 1790, trong khi quân đội chờ đợi ra mặt trận, Nguyễn Ánh sử dụng lực lượng quân lính này để cày cấy thu hoạch thêm lúa thóc. Về giao thương với nước ngoài tại thương cảng Gia Định, Nguyễn Ánh buộc các tàu buôn ngoại quốc chỉ bán các thứ sắt, gang, chì và lưu huỳnh cho nhà nước mà thôi.
Sau khi đã dàn xếp xong cuộc bang giao với nhà Thanh, đầu năm 1792, vua Quang Trung quyết định mở cuộc tấn công lớn tiêu diệt toàn bộ lực lượng của Nguyễn Ánh ở Gia Định. Theo kế hoạch, nhà vua dự tính mở cuộc hành quân với khoảng 30 vạn quân, tảo thanh toàn bộ lực lượng vọng ngoại của Nguyễn Ánh. Ngài sẽ cho bộ binh theo đường núi vào đánh Gia Định, còn thủy quân sẽ vào trấn đóng Côn Sơn, Phú Quốc, rồi đổ bộ lên Hà Tiên, rồi theo đường Kiên Giang, qua Long Xuyên để đánh lên Sài Gòn. Còn vua Quang Trung và Nguyễn Nhạc sẽ đem quân thủy bộ đánh thẳng xuống Biên Hòa và Gia Định. Lần này vua Quang Trung quyết tiêu diệt mối di hại “Cõng rắn căn gà nhà” của Nguyễn Ánh nên Ngài quyết bao vây và tiêu diệt triệt để toàn bộ lực lượng của Nguyễn Ánh. Trong khi đó tại Gia Định, Nguyễn Ánh luôn thập thò lo sợ và mất ăn mất ngủ trước kế hoạch hành quân qui mô của vua Quang Trung, và con người chuyên “cõng rắn cắn gà nhà” ấy lại một lần nữa viết thư qua cầu cứu với Xiêm vương, yêu cầu quân Xiêm đánh vào Nghệ An để chia bớt lực lượng bách chiến bách thắng của vua Quang Trung. Tháng 8 năm 1792, vua Quang Trung truyền hịch cho nhân dân các vùng Quảng Ngãi và Qui Nhơn, nói rõ đầu năm 1793, quân Tây Sơn sẽ hành quân tiêu diệt quân Nguyễn Ánh. Vua Quang Trung khuyên nhân dân các vùng này không nên lo sợ về sự đồn đại về bọn giặc Xiêm cũng như nhóm người Tây dương đang trợ giúp cho Nguyễn Ánh. Nhà vua yêu cầu nhân dân hai phủ Quảng Ngãi và Qui Nhơn hãy vì quyền lợi của đất nước, hãy sẵn sàng yểm trợ quân Tây Sơn tiến đánh Gia Định. Tuy nhiên, định mệnh khắc nghiệt với Quang Trung Đại Hoàng Đế và khắc nghiệt luôn cả với nhân dân Việt Nam khi vị hoàng đế bách chiến bách thắng, một đời chỉ biết đến dân đến nước này phải yểu mệnh. Vua Quang Trung băng hà vào ngày 16 tháng 9, năm 1792, để lại sự thương tiếc và ngậm ngùi cho dân chúng cả nước. Trước khi qua đời, Ngài vẫn còn tỏ ra lo lắng cho vận mệnh của đất nước, vì biết rằng bản chất cố hữu của Nguyễn Ánh là sẵn sàng đem các thế lực ngoại bang về dày xéo đất nước, sẵn sàng dâng đất dâng biển cho ngoại bang để lấy lại chiếc ngai vàng cho dòng họ, bất kể sự an nguy của dân tộc.
Kể từ sau khi vua Quang Trung băng hà, ấu chúa Tây Sơn không phải là đối thủ với con cáo già Nguyễn Ánh, thế nhưng Nguyễn Ánh phải mất đến 10 năm sau mới hạ được ấu chúa Tây Sơn. Năm 1793, ngay sau khi vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Ánh cùng các bộ tướng Võ di Nguy, Nguyễn văn Trương, Võ Tánh, Nguyễn huỳnh Đức, Nguyễn văn Thành, và Lê văn Duyệt đem binh thuyền ra đánh Qui Nhơn, không chiếm được Qui Nhơn, nhưng quân của Nguyễn Ánh chiếm được các vùng Phú Yên, Bình Khương, Diên Khánh, Bình Thuận. Nguyễn Ánh cho quân tiếp tục vây thành Qui Nhơn, nhưng đánh mãi mà không lấy được thành. Cuối năm 1793, vua Cảnh Thịnh sai Thái Úy Phạm Công Hưng cùng Hộ giá Nguyễn văn Huấn, Tư lệ Lê Trung, và Tư mã Ngô văn Sở đem 17.000 quân cùng 80 thớt voi, hợp cùng với Đô đốc Hổ, Chưởng cơ Thiêm đem hơn 30 chiến thuyền vào cứu viện Qui Nhơn. Nguyễn Ánh thấy thế không chống nổi nên đã rút quân về Gia Định. Năm 1798, Nguyễn Ánh cử Đông Cung Thị Học Ngô Nhân Tĩnh và Ký lục Vĩnh Trấn là Phạm Thận đi sứ sang Tàu gặp vua Lê Chiêu Thống để cùng nhau cầu viện với nhà Thanh với hy vọng sẽ được vua Lê đồng ý cùng với phái bộ cầu viện đến cầu viện với vua nhà Thanh, nhưng qua tới Quảng Đông thì được biết vua Lê đã mất, nên phái bộ cầu viện đành phải quay trở về. Hồi này Bá Đa Lộc đã quay trở lại Đông Dương, nhưng không mang lại kết quả nào từ Pháp Hoàng, nên Bá Đa Lộc đã tự ý quyên góp tiền bạc và mua súng ống tàu bè cho Nguyễn Ánh. Tháng 11 năm 1794, Tổng quản Trần quang Diệu và Tư lệ Lê Trung đem quân vào đánh các thành Diên Khánh, Phan Rang và Phan Rí, quân của Nguyễn Ánh thua phải chạy trở về Gia Định. Năm 1795, Nguyễn Ánh giao cho Đông cung Cảnh ở lại giữ thành Gia Định còn mình thì mang quân ra đánh Diên Khánh, nhưng không phá được. Đến năm 1796, với sự trợ giúp về vũ khí và tiền bạc của Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh cho đóng thêm tàu chiến và tăng cường quân đội. Tháng 4 năm 1797, Nguyễn Ánh và Đông cung Cảnh cất quân đánh Qui Nhơn, tuy nhiên, quân lương từ Gia Định ra bị gió ngược, đến tiếp tế không kịp, nên Nguyễn Ánh phải rút quân về.
Tháng 2 năm 1799, Nguyễn Ánh sai Khâm sai Thống binh Cai cơ Nguyễn văn Thoại và Cai Đội Lưu Phước Tường đem quốc thư sang cầu viện với Xiêm vương. Vua Xiêm nhân cơ hội này muốn đánh chiếm Việt Nam nên cho một vị Đại tướng Xiêm điều động quân qua hai ngã: từ Chân Lạp qua và từ Vạn Tượng qua đường Nghệ An đánh xuống Phú Xuân. Tuy nhiên, không thấy sử liệu của Xiêm La nói về cuộc xâm lăng này. Trong khi đó triều đình của ấu chúa Tây Sơn rất rối ren, các tướng chia rẽ và tìm cách hãm hại lẫn nhau. Một số các tướng đang đóng quân vùng phía Nam Qui Nhơn lần lượt kéo ra về hàng với Nguyễn Ánh. Cuối năm 1799, Nguyễn Ánh tiến chiếm Qui Nhơn, và cũng cùng năm ấy, Bá Đa Lộc đang cùng đi viễn chinh với Nguyễn Ánh tại Qui Nhơn bị bệnh mà mất. Nguyễn Ánh kéo quân về Gia Định và lưu Võ Tánh cùng Ngô Tòng Châu ở lại giữ thành Qui Nhơn. Năm 1800, Trần quang Diệu và Võ văn Dũng đem quân vào vây thành Qui Nhơn. Nhân cơ hội này, Nguyễn Ánh lưu Nguyễn văn Thành ở lại cầm cự với quân của Trần quang Diệu, sai các tướng Nguyễn văn Trương và Phạm văn Nhân đem thủy binh ra đánh cửa Thuận An, cùng Hoàng văn Tự và Bạch văn Đoài theo đường bộ ra đánh Phú Xuân. Ấu chúa Tây Sơn đích thân đem quân ra nghinh chiến nhưng bị thua phải chạy ra Bắc Hà. Ngày mồng 3 tháng 5 năm 1801, Nguyễn Ánh kéo quân vào Phú Xuân.
Phải thật tình mà nói, người dân xứ Nam Kỳ lúc nào cũng là những con người có nhân có nghĩa, chính vì vậy mà lúc nào họ cũng nhớ ơn các chúa Nguyễn đã dày công mở cõi. Và cũng chính vì vậy mà trong cuộc tranh chấp giữa Tây Sơn và các chúa Nguyễn, người dân Nam Kỳ lúc nào cũng ngã hẳn về phía chúa Nguyễn. Sau khi Tân Chính Vương và Thái Thượng Vương đã bị quân Tây Sơn giết chết, họ đồng lòng suy tôn Nguyễn Ánh lên ngôi Nguyên Soái, và vì thế hễ ở đâu nghe nói có Nguyễn Ánh bôn tẩu tới là họ đều tới giúp. Chính vì vậy mà chúng ta thấy trên bước đường lưu vong của Nguyễn Ánh, bên cạnh ông ta luôn có nhiều tướng tài theo phò tá như Nguyễn văn Thoại(22), Nguyễn hữu Thoại, Trần xuân Trạch, Cao Phước Trí, Tông thất Hội, Tôn thất Huy, Hồ văn Lân, Trương Phúc Giáo, Lưu văn Trung, Lê
Thượng, Nguyễn văn Thành, Bùi văn Khoan, Nguyễn văn Hội, Nguyễn văn Huấn, Trần văn Xạ, Trần phúc Giai, Tô văn Đoài, Nguyễn văn Trị, Nguyễn văn Tồn(23),
Nguyễn văn Bình, Nguyễn văn Trương, Phạm văn Liêm, Nguyễn văn Nhơn, Đỗ Thành Nhân, Châu văn Tiếp, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Tống Phước Đạm(24), Tống Phước Thiêm, Tống Phước Ngoạn, Dương công Trừng (Cà Mau), Nguyễn phước Mân, Lê Thượng, Đỗ văn Hựu, Lê văn Duyệt, Mạc Tử Sanh, Nguyễn đức Xuyên, Lê văn Quân, Võ di Nguy, Nguyễn tiến Cảnh(25), Mai đức Nghị, Đoàn văn Khoa, Trương phúc Dinh, Trương phúc Luật, Nguyễn văn Định, Nguyễn văn Nhàn(26), Nguyễn tấn Lượng(27), vân vân. Nhưng đây cũng chưa phải là điểm then chốt giúp Nguyễn Ánh lấy lại chiếc ngai vàng cho dòng họ Nguyễn. Điểm then chốt ở đây là người anh hùng áo vải đất Tây Sơn, nguyễn Huệ, đã ra đi khi tuổi còn quá trẻ, ngài đã ra đi khi nhân dân và đất nước rất cần ngài. Chính sự ra đi của hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ đã dẫn đến sự sụp đổ của nhà Tây Sơn, đã đưa Nguyễn Ánh trở lại chiếc ngai vàng, và cuối cùng đã đưa đất nước Việt Nam vào một khúc quanh mới: đúng 60 năm sau ngày Nguyễn Ánh lên ngôi, cũng là ngày mà Pháp quân bắt đầu làm chủ vùng đất đã từng dung chứa Nguyễn Ánh khi xưa.
Triều đại nhà Tây Sơn đã mang lại một sinh khí mới cho dân tộc Việt Nam với vị vua bách chiến bách thắng: Quang Trung Đại Hoàng Đế, nhưng vận nước lại không may lại sản sanh ra một con người như Nguyễn Ánh. Dù triều đại Tây Sơn không dài lắm, nhưng cũng đủ mang lại cho dân tộc Việt Nam một thời kỳ đổi mới với những cải cách thực tiễn của vua Quang Trung, nhưng sự yểu mệnh của Đại Đế Quang Trung đã khiến cho lịch sử tàn bạo của thời Trương Phúc Loan có cơ tái diễn. Chế độ quân chủ cực kỳ hà khắc đã được Nguyễn Ánh tái lập từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Nếu nhìn lại trào lưu tiến hóa của các quốc gia Tây Âu và Nhật Bản thời bấy giờ thì chúng ta sẽ thấy triều đại Nguyễn Gia Long hoàn toàn đi ngược lại. Thêm vào đó, nạn cướp đoạt ruộng đất và sức lao động của nông dân từ các cường hào ác bá được triều đình nhà Nguyễn bảo trợ đã xô đẩy đất nước Việt Nam đến chỗ bế tắt nghèo cùng. Chính vương triều nhà Nguyễn bắt đầu từ thời Gia Long đã bao che cho giai cấp thống trị trở thành cường hào ác bá hà hiếp dân lành. Dưới thời nhà Nguyễn, giai cấp địa chủ đã cậy quyền ỷ thế bóc lột nông dân đến tận xương tủy. Kẻ giàu thì quá giàu, giàu một cách bất bình thường; trong khi người nghèo thì quá nghèo, cũng nghèo một cách rất bất bình thường. Nói chung, dưới thời nhà Nguyễn, cuộc sống của nhân dân cùng khổ, lòng người ly tán và oán hận quan quân Nguyễn triều đến tột độ. Đó là chưa kể đến thiên tai bão lụt, rồi giặc giã nổi lên khắp nơi những mong đánh đổ chế độ thối nát vừa mới được Nguyễn Ánh giựt dậy. Ngay khi Nguyễn Ánh vừa cướp lại ngôi báu từ tay ấu chúa Tây Sơn, năm 1807, một ông quan Tây dưới triều
Gia Long tên Chaigneau đã viết như sau: “Đệ nhất ngũ niên kỷ niệm ngày Gia Long lên ngôi cũng là ngày kỷ niệm sự đói nghèo của dân chúng chưa từng có trong lịch sử triều Nguyễn. Dân chúng khắp nơi vô cùng đói khổ, vua quan bóc lột thậm tệ, công lý là món hàng mua bán, kẻ giàu có thể công khai sát hại người nghèo và tin chắc rằng với thế lực đồng tiền, lẽ phải sẽ ở trong tay họ.” Không biết nói thế nào đây để cho cạn, hay viết cho cùng về những cay nghiệt mà Nguyễn Ánh đã mang lại cho nhân dân Việt Nam nói chung, và cho nhân dân Nam Kỳ nói riêng. Nhất là những dịp thu thuế là cơ hội cho quan quân nhà Nguyễn bóc lột dân chúng đến tận xương tủy, đến nỗi năm 1811, Gia Long phải ban hành một chiếu chỉ qui định: “Đến kỳ nộp thuế, các quan ở các doanh trấn phải cử một người giám thu, nghiêm cấm lại dịch và người giữ kho kiếm cớ làm khó dễ hay yêu sách dân chúng. Nếu để tai hại cho dân thì phải tội chết không tha.” Dân tình đã vậy mà Nguyễn Ánh vẫn cứ đối xử với các công thần một cách tàn tệ chỉ vì nơm nớp lo sợ cho sự an nguy của chiếc ngai vàng. Năm 1817, vì vụ Nguyễn văn Thuyên làm một bài thơ ngông nghênh của nhà nho có khẩu khí, mà Nguyễn Ánh ép buộc Nguyễn văn Thành phải tự vẫn. Đến năm 1827, vua Minh Mạng cũng phải ra một đạo dụ thống thiết hơn về nạn hà hiếp dân lành trong vấn đề thu góp lúa gạo và thuế má. Đến năm 1847, Tham tri Trương Quốc Dụng lại dâng thư lên vua Tự Đức xin nhà vua xuống chỉ ra lệnh cho quan quân địa phương bớt hà hiếp dân chúng, giảm thiểu những giấy tờ không cần thiết, giảm thuế và giảm bớt những công trình xây cất lăng tẩm cung điện của nhà vua. Chính
Nguyễn Ánh và các vua nhà Nguyễn biết rõ hơn ai hết, chính họ là nguyên cớ đưa đất nước tới chỗ bế tắt và nghèo cùng, nhưng với họ, chiếc ngai vàng cho dòng họ nhà Nguyễn là trên hết, nên chẳng những không thiết thực cải tổ guồng máy cai trị khắc nghiệt của họ, mà họ còn tiếp tay và bao che cho quan lại tiếp tục hà hiếp dân lành. Năm 1828, chính Nguyễn Công Trứ đã dâng lên vua Minh Mạng tờ sớ trình về thực trạng xã hội Việt Nam như sau: “Đất nước đang bị 2 cái tai hại: một là cái hại từ quan lại, họ là quan của triều đình, ăn bổng lộc triều đình, mà còn dùng quyền uy để đòi tiền hối lộ, cắt xén bớt tiền thuế trước khi gởi về triều. Bên cạnh đó, cái nạn cường hào ác bá còn độc hại hơn nhiều. Chính bọn cường hào ác bá đã khiến cho cha xa con, vợ xa chồng, con cái phải mồ côi, vợ chồng phải khánh tận.” Thêm vào đó, nhà Nguyễn đã đặt ra đủ loại thuế, cộng thêm 2 tháng lao dịch khiến đời sống của dân chúng sau cuộc chiến tranh dài đăng đẳng giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn đã cơ cực, nay càng cơ cực hơn. Năm 1818, một người Pháp tên Borel đã viết trong chuyến đến nước ta như sau: “Tại Phú Xuân, nhà vua, tức vua Gia Long, đã điều động hàng trăm ngàn(28) lao dịch từ khắp nơi đến kinh thành để xây dựng cung điện và lăng tẩm.
Từng đoàn, từng đoàn người đang chuyên chở vật liệu, rất nhiều lán trại, gạch đá, xưởng rèn... tất cả tạo thành một cảnh tượng rất khó hình dung nếu không chứng kiến tận mắt.” Khi lên ngôi, Minh Mạng đã hạ chiếu với những lời lẽ vô cùng thống thiết mà người mới nghe tưởng rằng Minh Mạng rất yêu thương thần dân trong xứ của mình: “Trẫm nghĩ rằng trời đã vì dân mà đặt ra vua thì kẻ làm vua phải coi dân như con... chưa rét đã lo cho mặc, chưa đói đã lo cho ăn, há lại đợi khóc oe oe đòi bú mới cho con ăn ư? Trẫm từ khi lên ngôi, không ngày nào không lo cho dân cư đông đúc, được mùa.” Cũng như Nguyễn Ánh, Minh Mạng chỉ nói bằng đầu môi chót lưỡi hay chỉ viết trên văn tự giấy tờ, còn trên thực tế thì Minh Mạng vẫn tiếp tục chế độ lao dịch được vua cha truyền lại, vẫn tiếp tục làm khổ dân chúng cả nước. Đến đời Thiệu Trị, dân chúng lại phải nay lưng ra xây lăng Minh Mạng, lăng Thiên Thụ(29) trên núi
Thuận Sơn. Rồi đến đời Tự Đức, dân chúng phải lao dịch nặng nề hơn với Khiêm Lăng cho chính ông vua này. Chánh sách lao dịch dưới thời Tự Đức khắc nghiệt đến độ trong dân gian đã có những câu vè ta thán như sau:
“Vạn niên là vạn niên nào
Thành xây xương lính, hào trào máu dân.”
Hoặc:
“Từ ngày Tự Đức lên ngôi
Cơm chẳng đầy nồi, trẻ khóc như ri Bao giờ Tự Đức chết đi
Thiên hạ thái bình thì mới dễ làm ăn.”
Theo sách sử nhà Nguyễn, cho rằng Tự Đức là ông vua nhân từ hiếu đạo, tuy nhiên, năm 1856, qua cung cách hạ chỉ quở mắng dân chúng của ông ta sau khi nghe những câu vè ta thán về mình cũng đủ biết cung cách nhân hậu của Tự Đức như thế nào:
“Thói dân điêu ngoa, không trừng trị lũ ấy thì bao giờ cho hết được.” Cái tai hại không lường được qua chánh sách vơ vét nhân lực và tài lực của dân chúng dưới thời các ông vua đầu triều Nguyễn đã làm cho dân chúng trên toàn quốc bị cạn kiệt. Cũng chính sự nhận xét của Borel như sau: “Nhà vua trong khi nghĩ rằng sự cơ cực sẽ giam hãm nhân dân trong cảnh tôi mọi và đời sống nhọc nhằn của dân chúng mới bảo đảm được sự cai trị dễ dàng cho triều đình... đã phá hoại mọi tiềm lực của đất nước và kềm hãm mọi khả năng phát triển của nông nghiệp.” Chưa có thời kỳ nào đất nước Việt Nam lại bị lâm vào hoàn cảnh đen tối như thời kỳ Gia Long khai mở nên triều Nguyễn và các ông vua đầu trào. Người nông dân luôn bị quan quân triều Nguyễn áp bức và bóc lột, khiến cho cuộc sống ngày càng cơ cực hơn. Bên cạnh đó, điều kiện sinh sống của dân chúng rất tồi tệ. Năm 1820, bệnh dịch tại miền Bắc, chỉ trong vòng 3 tháng từ mùa Thu qua mùa Đông đã giết chết trên 200 ngàn người. Đến năm 1840, nạn dịch lại bộc phát ở miền Bắc làm thiệt mạng gần 70 ngàn người nữa. Trong 2 năm 1849 và 1850, bệnh dịch tả hoành hành từ Bắc chí Nam làm hơn 600 ngàn người mất mạng, riêng tại Vĩnh Long đã có tới 43 ngàn người chết trên tổng số 50 ngàn dân(30). Trong một bức thư viết về La Mã, một giáo sĩ đã viết như sau: “Năm 1849, bệnh thổ tả tàn sát dân An Nam trong khắp cả vương quốc. Kinh thành và các vùng phụ cận chẳng mấy chốc phơi bày một cảnh tượng rùng rợn. Ngay từ lúc đầu, xung quanh thành và lối vào các làng, người ta nhìn thấy những đám ma nối đuôi nhau. Không bao lâu, các cỗ quan tài đã hết, người ta ném các xác chết vào những hố được đào vội vã. Sau cùng, người sống không còn đủ để chôn người chết nữa, các tử thi bị vứt bỏ lăn lóc trong đồng ruộng, trên đường đi, ở bất cứ chỗ nào người ta tống các xác chết đi được.” Dân tình đã cạn kiệt như vậy, thế mà triều đình nhà
Nguyễn lại hạ chỉ thông báo cho dân chúng vay mượn lúa cứu đói, nhưng với một điều kiện cũng không kém phần khắc nghiệt như cái chế độ: “Chỉ cho những người có ruộng được vay, ai có ruộng nhiều thì được vay nhiều, ai có ruộng ít thì được vay ít.” Trời hỡi! Như vậy thì người không có ruộng sẽ không được vay lúa cứu đói của triều đình! Thử hỏi trên đời này có cái triều đình nào khắc nghiệt như cái triều đình được Nguyễn Ánh khai sáng này hay không? Năm 1819, chỉ riêng 50 ngàn dân Gia Định đã có tới 16 ngàn là hạng “cùng đinh.” Hạng cùng đinh là hạng không nhà không cửa, không ruộng đất, không có công ăn chuyện làm, phải rày đây mai đó làm thuê làm mướn để kiếm sống. Chính vì thế mà trong 18 năm dưới thời Gia Long làm vua, đã có 90 cuộc nổi dậy của nông dân. Trong 20 năm trị vì của Minh Mạng, đã có trên 230 cuộc nổi dậy, trong đó cuộc nổi loạn của Lê văn Khôi vào năm 1833 là lớn nhất. Trong 7 năm ngắn ngủi của Thiệu Trị, đã có 58 cuộc nổi dậy và 25 năm dưới thời Tự Đức, đã có hơn 350 cuộc nổi dậy từ khắp nơi. Thời Tự Đức, dân chúng không còn chịu nổi sự cai trị quá khắc nghiệt của quan quân nhà Nguyễn, nên ở đâu cũng nổi lên làm giặc, chỉ mong làm được một cái gì đó hầu thoát khỏi kiếp sống quá cơ cực của mình. Trong đó phải kể những cuộc nổi loạn có tầm cỡ lớn như của Phan bá Vành, Nồng văn Vân, Lê duy Lương, Cao Bá Quát, vân vân. Ngay trong hoàn cảnh loạn lạc, cạn kiệt về nhân lực và tài lực ấy thì bọn thực dân Pháp xuất hiện như một anh khổng lồ, đè bẹp và nghiền nát đất nước Việt Nam dưới gót giày viễn chinh của họ. Hàng hậu bối chúng ta nên xem cái gương tác hại của Nguyễn triều để tránh cảnh lịch sử tái diễn. Bất cứ ai, nếu có cơ may lãnh đạo đất nước hãy cố gắng hết sức mình đem lại cho nhân dân một cuộc sống thật sự có tự do, dân chủ, và quyền làm người, cũng như sự an cư lạc nghiệp và thanh bình thịnh vượng, chứ đừng dẫm lại vết xe đổ của Nguyễn trào là ‘quy lụy và đầu phục ngoại bang’, ‘hèn với gặc, ác với dân’, nuôi dưỡng bọn tham quan ô lại, và gây cảnh bất công xã hội khiến cho những ai giàu thì quá giàu, còn những ai nghèo thì quá nghèo, vân vân, để xô đẩy người dân đến cảnh đi làm giặc và đất nước đến chỗ loạn lạc triền miên. Mà thật vậy, một khi dân chúng bị xô đẩy đến cảnh mất tất cả thì họ không còn gì nữa để mất, chắc chắn họ sẽ vùng lên. Nếu họ không vùng lên được thì họ cũng không ưng hổ trợ cho chánh quyền một khi có biến, lúc đó chắc chắn không riêng gì anh khổng lồ hiếu chiến phương Bắc, mà bất cứ một thế lực ngoại bang nào cũng có thể đi vào đè bẹp và nghiền nát đất nước Việt Nam dưới gót giày viễn chinh của họ.
Nguyễn Ánh Và Những Ân Nghĩa Chóng Quên Với Đất Nam Kỳ:
Nói về Nguyễn Ánh thì vùng đất Nam Kỳ có rất nhiều kỷ niệm và ân nghĩa với con người này. Năm 1774, trong khi xứ Đàng Trong đang rối ren với Trương Phúc Loan chuyên quyền và nghĩa binh Tây Sơn nổi lên đánh chiếm vùng Quy Nhơn, thì Bắc quân nhà Trịnh khởi binh vượt sông Gianh tiến vào Thuận Hóa. Chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần cùng gia quyến phải bỏ trốn vào Quảng Ngãi, nhưng Bắc quân lại mở cuộc truy kích quyết tâm tâm tiêu diệt hậu duệ nhà Nguyễn, nên Nguyễn Phúc Thuần và cháu là Nguyễn Ánh phải xuống thuyền dong buồm xuôi Nam. Từ đó cho mãi đến năm 1802, hầu như không có nơi nào mà Nguyễn Ánh không chịu ơn người dân miền Nam, từ Đồng Nai, Gia Định, Bến Tre, Hàm Luông, Cổ Chiên, Vĩnh Long, Côn Sơn, Bạc Liêu, U Minh Hạ, Cà Mau, U Minh Thượng, Tân Bằng, Cán Gáo, Chắc Băng, Cạnh Đền, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc, Thổ Châu...
Đối với vương triều nhà Nguyễn, miền Nam chẳng những là hậu cần lớn mà còn là miền đất ơn nghĩa của dòng họ này. Người dân miền Nam đã hy sinh cả tài sản lẫn sinh mạng của mình để nuôi quân, che chở và bảo vệ cho Nguyễn Ánh. Đi đâu đến đâu Nguyễn Ánh cũng đều gặp những con người nhân hậu chất phác và hết lòng với vương triều của ông. Nhưng khi đã đạt được mục đích, đã giành lại được chiếc ngai vàng từ tay ấu chúa Tây Sơn thì Nguyễn Ánh đã ngoảnh mặt làm ngơ với nhân dân miền Nam. Nguyễn Ánh đã hành sử với các bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn một cách tệ bạc. Trường hợp quan Tổng Trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành bị Nguyễn Ánh bách hại thật là vô lý và ngu xuẩn. Nguyễn văn Thành đã theo phò Nguyễn Ánh từ những ngày Nguyễn Ánh còn lao đao lận đận nơi các hoang đảo miền Nam. Thế mà chỉ vì một bài thơ của người con trai của ông là Nguyễn văn Thuyên, Nguyễn Ánh đã nghi kỵ và bức tử Nguyễn văn Thành(31). Tại miền Nam,
Nguyễn Ánh đã giết Đỗ Thành Nhân, một khai quốc công thần đã vào sanh ra tử, không kể gì đến an nguy của mình khi phục vụ dưới trướng Nguyễn Ánh. Năm 1776 khi đại quân Tây Sơn kéo vào truy lùng Nguyễn Ánh thì chính Đỗ Thành Nhân đã đem nghĩa quân Đông Sơn về với Nguyễn Ánh để tạo ra một thế quân sự ngang ngửa với quân Tây Sơn, thế mà chỉ vì những lời xu nịnh vô căn cứ mà Nguyễn Ánh đã thẳng tay bức tử Đỗ Thành Nhân. Vương triều nhà Nguyễn chẳng những vong ân bội nghĩa với người dân miền Nam mà còn tìm đủ mọi cách ngăn chặn không cho vùng đất ấy phát triển đúng mức của nó chỉ vì sợ rằng nhân dân vùng ấy sẽ đủ mạnh để tách rời khỏi cái vương triều thối nát ấy. Trường hợp Tả Quân Lê Văn Duyệt là một thí dụ điển hình khác. Chính vì thấy Gia Định Thành dưới thời Tả Quân là một miền đất trù phú thịnh vượng với một sức mạnh quân sự đáng kể nên vua Minh Mạng đã tìm đủ mọi cách phá vỡ vùng đất ấy, nhưng ông đã không làm được lúc Tả Quân còn sanh tiền, mà phải đợi đến lúc Tả Quân vừa nằm xuống ông bèn hạ chiếu hủy bỏ chức Tổng Trấn Gia Định Thành và chia miền Nam ra làm 6 tỉnh để dễ bề cai trị. Chẳng những thế, Minh Mạng còn mở ra vụ án Lê văn Duyệt và chính vụ xử xiềng mã Đức Tả Quân đã gây bất mãn trong dân chúng cũng như người con nuôi của Đức Tả Quân tên Lê văn Khôi, nên Lê văn Khôi đã đứng lên kêu gọi nhân dân miền Nam khởi loạn chống lại triều đình, gây ra cảnh núi xương sông máu cho nhân dân thành Gia Định lần nữa.
Chính Nguyễn Ánh và các vị vua kế tục ông ta đã đưa đất nước đi vào một giai đoạn lịch sử đen tối nhất. Không phải Nguyễn Ánh không biết ý đồ của Xiêm vương cũng như của Pháp, nhưng hình ảnh chiếc ngai vàng của nhà Nguyễn luôn lấn lướt tất cả những viễn cảnh về hình ảnh của một đất nước bị ngoại bang đô hộ. Chính vì thế mà ngay khi còn dựa vào các giáo sĩ và người Pháp để đánh Tây Sơn, trong thâm tâm Nguyễn Ánh cũng rất sợ người Pháp và các giáo sĩ đang vây quanh ông ta, và cũng chính vì thế mà ngay sau khi lên ngôi, dù không thể đoạn tuyệt và trở mặt ngay lập tức với người Pháp, nhưng bên trong Nguyễn Ánh đã dứt khoát xa lánh và cự tuyệt giao thương với nước Pháp. Nếu để ý một chút chúng ta sẽ thấy sự xa lánh và cự tuyệt người Pháp qua việc phế bỏ dòng chính, tức là phế bỏ con của hoàng tử Cảnh, là cháu nội đích tôn của Nguyễn Ánh, để lập dòng thứ lên nối ngôi. Bởi vì dòng chính Nguyễn Phước Cảnh và cả gia đình của ông ta đã từng có mối quan hệ quá đậm đà với nước Pháp. Chính vì lẽ đó mà Nguyễn Ánh đã chọn Minh Mạng lên nối ngôi vì biết chắc Minh Mạng không ưa người Tây dương, và biết chắc Minh Mạng sẽ làm được những việc mà ông chưa làm được. Nhưng làm sao được đây hỡi con người vong bản? Chính sự lựa chọn Minh Mạng đã đưa đến những cuộc binh biến tại Phú Xuân giữa hai dòng chánh thứ, và cũng chính sự lựa chọn này đã đưa đến những cuộc tàn sát đẫm máu những giáo dân vô tội, họ bị sát hại chỉ vì tín ngưỡng mà họ tin, để rồi đưa đến sự can thiệp quân sự của người Pháp vào giữa thế kỷ thứ 19. Và Nguyễn Ánh nào có biết rằng chính những tài liệu mà Bá Đa Lộc và các giáo sĩ của ông ta đã mang về Pháp, cũng như những tài liệu mà các ông quan Pháp làm việc cho Gia Long sau này đã hành sử như những tấm bản đồ quân sự quyết định trong việc Pháp đánh Nam Kỳ và bảo hộ toàn cõi Việt Nam về sau này.
Chú Thích:
(1) Từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ XIII.
(2) Phúc Luân là con trai thứ hai của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát.
(3) Cùng mẹ với Nguyễn Ánh.
(4) Cùng mẹ với Nguyễn Ánh.
(5) Năm 1783, Lê Phước Điển đã mặc áo hoàng bào chịu chết thay cho Nguyễn Ánh trong trận đánh ở Hòn Đá Chồng.
(6) Năm 1801, Võ Tánh cùng Ngô Tùng Châu tự thiêu trong thành Qui Nhơn.
(7) Con của bà vợ họ Tống của Phúc Luân.
(8) Dinh Trấn Biên, tức vùng Biên Hòa ngày nay. Dinh Phiên Trấn, tức vùng Gia Định và Định Tường sau này. Dinh Long Hồ, tức vùng Bến Tre, Vĩnh Long và An Giang ngày nay. Lúc đó dinh Trấn Biên có một huyện là Phước Long gồm 4 tổng là Tân Chính, Bình An, Long Thành và Phước An. Dinh Phiên Trấn có một huyện Tân Bình gồm 4 tổng là Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc, và Bình Thuận. Dinh Long Hồ được đổi ra làm dinh Hoằng Trấn, sau đó lại đổi làm Vĩnh Trấn với châu Định Viễn và 3 tổng là Bình An, Bình Dương, và Tân An.
(9) Đỗ Thành Nhân là một tướng tài và có công rất lớn với nhà Nguyễn nói chung và Nguyễn Ánh nói riêng. Nguyễn Ánh đã cho Thành Nhân giữ những chức vụ cao nhất trong triều, nhưng vì tánh tự phụ, Thành Nhân đã làm nhiều điều quá đáng, vượt qua quyền hạn của Nguyễn Ánh. Sau khi nhận được mật bẩm của Tống Phước Thiêm, Nguyễn Ánh cho gọi Thành Nhân đến gặp mình, rồi sai võ sĩ giết chết. Sau đó Nguyễn Ánh chia binh Đông Sơn ra làm 4 đạo, rồi giao cho bốn vị tướng khác chỉ huy. Vì bất mãn trước việc làm tàn độc của Nguyễn Ánh nên một số tướng lãnh Đông Sơn như Võ Nhàn và Đỗ Bảng đã bỏ Nguyễn Ánh mà rút về giồng Tam Phụ. Về sau nầy Nguyễn Ánh phải vất vả lắm mới dẹp yên được các tướng Đông Sơn nầy.
(10) Nguyễn hữu Thụy hay Nguyễn hữu Thoại, khác với một vị tướng tên Thoại Ngọc Hầu Nguyễn văn Thoại.
(11) Theo Nguyễn Xuân Thọ trong “Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở
Việt Nam (1858-1897)”, Santa Ana – USA, 1994, tr. 85.
(12) Theo Linh Mục Phan Phát Huờn trong “Việt Nam Giáo Sử”, Quyển I, NXB Cứu Thế, Sài Gòn,
1965, tr. 227-240.
(13) Hoàng tử Cảnh tên thật là Nguyễn Phước Cảnh, con trai trưởng của Nguyễn Ánh, lúc đó chỉ mới 4 tuổi. Hoàng tử Cảnh sanh ngày 6 tháng 4 năm 1780 tại Gia Định, con của Nguyễn Phúc Ánh và bà Tống thị Lan, con gái quan Chưởng Doanh Tống Phúc Khuông.
(14) Sau quá nhiều lần thất bại trước nghĩa quân Tây Sơn dầu đã được sự hổ trợ của quân đội Xiêm La, năm 1782, Nguyễn Ánh quyết định cầu viện quân Pháp để đánh đổ cho bằng được nhà Tây Sơn. Đây chính là quyết định đưa tới khúc quanh lịch sử thảm hại nhất của Nguyễn Ánh nói riêng và của triều đại nhà Nguyễn nói chung. Ngày 18 tháng 8 năm 1782, Nguyễn Ánh đã ra một bản quyết nghị 14 điểm nhằm trao toàn quyền cho Bá Đa Lộc trong việc ký hiệp ước nhượng đứt cảng Hội An (nhưng theo tài liệu của Pháp thì nói là cảng Tourane, nghĩa là cảng Đà Nẳng) và quần đảo Côn Sơn cho Pháp. Ngoài ra Nguyễn Ánh còn giao cả hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh mới lên 4 tuổi cho Bá Đa Lộc để làm con tin, chỉ với một điều kiện là Pháp giúp cho Nguyễn Ánh 1.500 quân lính cùng một số quân trang quân dụng cần thiết khác. Theo Phan Khoang trong “Việt Nam Pháp Thuộc Sử”, NXB Sống Mới, Arizona, USA, 1990, tr. 74, thấy De Conway dùng dằng việc thi hành hiệp ước Versailles, giám mục Bá Đa Lộc đứng ra một mình lo liệu việc giúp Nguyễn Ánh. Nhờ có số tiền 15.000 quan Pháp của gia đình ông và số tiền do nhóm thương nhân Pháp ở các đảo bên Pháp và tại thành Pondichéry bỏ ra giúp vì muốn làm ăn với xứ Đàng Trong, Bá Đa Lộc đã mua rất nhiều tàu chiến, vũ khí và súng đạn cho Nguyễn Ánh. Không ai có thể biện minh cho hành động nầy của Nguyễn Ánh. Đây rõ ràng là hành động bán nước, vì nguyễn Ánh sẵn sàng dâng đất, dâng hải cảng, hải đảo và biển cho giặc chỉ với một mục đích làm lợi cho dòng họ mình. Có người biện minh rằng ví dầu Nguyễn Ánh không cầu viện với Pháp đi nữa thì chuyện người Pháp đánh Việt Nam vào giữa thế kỷ thứ XIX cũng xãy đến vì nhu cầu chiếm đất làm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu châu thời đó. Đây chỉ là một lối lý luận xu thời và vô căn cứ, vì hãy nhìn vào vương quốc Xiêm La thì sẽ thấy chủ nghĩa thực dân có động vào được sự khôn ngoan của vương triều Thái Lan thời đó đâu? Thời đó Việt Nam nếu thứ nhất vua Quang Trung không yểu mệnh, thứ nhì nếu Nguyễn Ánh không mở đường cho thực dân đi vào Việt Nam, và thứ ba nếu các vua chúa đầu triều Nguyễn không u mê bế quan tỏa cảng và sát hại người theo đạo Ki Tô thì chuyện người Pháp đánh chiếm Việt Nam không phải là chuyện dễ dàng như trở bàn tay như đã xãy ra dưới thời Tự Đức. Thật tình mà nói, dầu có muốn tìm đủ mọi cách để biện minh cho hành động của Nguyễn Ánh, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng chính hành động của Nguyễn Ánh đã mở đường cho thực dân Pháp trong âm mưu thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam.
(15) Sau nầy nhiều vị sĩ quan Pháp nầy đã trở thành quan của Nguyễn Ánh, như ông Jean Marie Dayot hay Ông Trí, lãnh đạo đội thủy quân; ông Philippe Vannier hay Ông Chấn, chỉ huy chiến thuyền Le Dongnai, Ông De Forsans hay Ông Lăng, chỉ huy chiến thuyền LAigle; ông Jean Baptiste Chaigneau chỉ huy chiến thuyền Le Dragon; ông Julien Girard de l’Isle Sallé chỉ huy chiến thuyền
Le Prince de la Cochinchine; ông Laurent Barisy hay Ông Mân, coi về huấn luyện; ông Olivier de Puymanuel hay Ông Tín, chỉ huy bộ binh, pháo binh và phụ trách xây thành; các ông Desperles, Despiau, Théodore, Lenuen, và Guilloux là những bác sĩ giải phẫu cho quân đội, phụ trách y tế và thương binh.
(16) Theo Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn trong “Lịch Sử Việt Nam”, TPHCM: NXB TPHCM,
2005, tr. 296-310.
(17) Vì người Minh Hương chẳng những không theo Tây Sơn mà còn theo Nguyễn Ánh đánh lại Tây Sơn nên Nguyễn Nhạc đã cho lệnh tàn phá Cù Lao Phố vào năm 1776, nên từ đó người Hoa trở nên căm ghét Tây Sơn nhiều hơn.
(18) Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương.
(19)Theo ‘Mạc Thị Gia Phả’ của Vũ Thế Dinh, do Nguyễn văn Nguyên dịch và chú thích, NXB Thế
Giới, Hà Nội, 2006, tr. 70, ghi hai tướng Xiêm La là Chiêu Tằng và Chiêu Trương là cháu ruột của Xiêm Vương, trong khi Đại Nam Thực Lục và Gia Định Thành Thông Chí ghi tên hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương.
(20) Theo Quốc Sử Quán Triều Nguyễn trong “Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện”, NXB Giáo Dục,
2007, mục Ngụy Tây, sơ tập, quyển 30, tờ 17b.
(21) Lúc đó quân của Đông Định Vương Nguyễn Lữ tại Gia Định chưa tới 5.000 quân.
(22) Nguyễn văn Thoại đã hai lần sang cầu cứu Xiêm, lần thứ nhất vào năm 1784, và lần thứ nhì vào năm 1785 ở lại Xiêm đến năm 1787 mới về lại Việt Nam.
(23) Quan Điều Bát Nguyễn Văn Tồn, gốc người Khmer. Hiện còn đền thờ ông ở quận Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.
(24) Tống Phước Đạm sang Xiêm vào năm 1787 để báo cho Nguyễn Ánh biết về việc quân Tây Sơn phải rút về Trung chuẩn bị chiến tranh với nhà Thanh.
(25) Nguyễn tiến Cảnh là người phụ trách đóng chiến thuyền bên Xiêm.
(26) Nguyễn văn Nhàn vâng lệnh Nguyễn Ánh sang cầu cứu với Xiêm La vào năm 1794.
(27) Sau chuyến cầu cứu thất bại của Nguyễn văn Nhàn vào năm 1794. Năm 1796, Nguyễn Ánh lại sai Nguyễn tấn Lượng qua Xiêm cầu cứu lần nữa.
(28) Có sách viết là 80.000.
(29) Lăng mẹ của vua Thiệu Trị.
(30) Nghĩa là dân chúng ở Vĩnh Long thời đó chết gần hết.
(31)Theo Đại Nam Liệt Truyện Chánh Biên, Sơ Tập, Quyển 21: “Nguyễn văn Thành gốc người Thừa
Thiên nhưng sanh trưởng trong miền Gia Định. Năm 15 tuổi, Thành theo cha là Nguyễn văn Hiền theo phò chúa Nguyễn để chống lại với quân Tây Sơn. Sáu năm sau, ông là một trong những chỗ dựa đáng tin cậy nhất của Nguyễn Ánh. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, ông được bổ nhậm làm Tổng trấn Bắc Thành. Ông cũng là một trong những người được Gia Long giao cho trách nhiệm soạn thảo bộ luật cho triều Nguyễn. Trong suốt thời kỳ chiến tranh với Tây Sơn, Nguyễn văn Thành lúc nào cũng một mực trung thành với Nguyễn Ánh.” Xét lại hành trạng của những người theo phò Nguyễn Ánh, chỉ có một vài người được leo lên đến tột đỉnh vinh quang như Nguyễn văn Thành và Lê văn Duyệt, vv... Tuy nhiên, bản chất cố hữu của Nguyễn Ánh là nghi kỵ và luôn hành sử với các bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn một cách tệ bạc ngay từ thời ông chưa lấy lại được chiếc ngai vàng như trường hợp của Đỗ Thành Nhân. Riêng về trường hợp Nguyễn văn Thành, nhân vụ con trai ông là Nguyễn văn Thuyên làm bài thơ hai câu: Thử hồi nhược đắc sơn trung đế. Tá ngã kinh luân chuyển hóa cơ. Có nghĩa là thời nay nếu có được vị chúa ở trong núi kia ở bên cạnh để ta lo sắp đặt thì có thể xoay chuyển được cơ trời. Vua Gia Long cho bắt giam Nguyễn văn Thành và các con ở Quân xá Thị trung để xét tội. Nguyễn văn Thành vì uất ức mà uống thuốc độc tự tử. Trong khi đó, theo Huỳnh Cư & Đỗ Đức Hùng trong“Các Triều Đại Việt Nam”, Hà Nội: NXB Thanh Niên, 1995, tr. 309-310, những tai tiếng và gần như là căn bệnh của mọi vua chúa sáng nghiệp gian nan và lâu dài là sát hại công thần. Những người có công như Nguyễn văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị sát hại giữa lúc Gia Long đang trị vì. Nguyễn Văn Thành nguyên gốc người Thừa Thiên, theo Nguyễn Ánh từ những ngày đầu và chịu muôn nỗi gian truân cùng chủ tướng. Nguyễn Văn Thành có tài và lập được nhiều công lớn, đứng đầu hàng công thần. Gia Long lên ngôi giao cho Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc Thành. Qua mấy năm cai quản của Nguyễn văn Thành, tình hình đất Bắc đã yên ổn sau nhiều năm loạn lạc liên miên. Sau đó Thành được triệu về kinh giữ chức Trung Quân, làm Tổng tài bộ Quốc Triều Hình Luật và biên soạn Quốc Sử. Vì vụ con trai là Nguyễn văn Thuyên làm một bài thơ mà mà cả hai cha con Nguyễn văn Thành đều bị hạch tội đến nỗi Thành phải tự vẫn trong khi bị thẩm tra.
Người Long Hồ Anaheim ngày 3 tháng 8 năm 2011
Copyright © 2012 by Ngoc Tran. All rights reserved.
10/Đất Phương Nam I - Vùng Đất Cochinchine Và Công Nữ Ngọc Vạn
11/Đất Phương Nam I - Kas Krobei Hay Prei Nokor Là Sài Gòn?
Nhấp vào Links:
1/ Cựu Giáo Sư Nguyễn Thanh Liêm Giới Thiệu Vể Tác Giả Người Long Hồ
2/ Đất Phương Nam (Tập I) - Lời Đầu Sách
3/Đất Phương Nam - Đôi Nét Về Tác Giả Người Long Hồ & Mục Lục
4/ Đất Phương Nam - Công Nghiệp Của Các Chúa Nguyễn Đối Với Vùng Đất Nam Kỳ
5/ Đất Phương Nam - Theo Dòng Thời Gian
6/ Đất Phương Nam - Tiến Trình Nam Tiến
7/ Đất Phương Nam I - Thu Phục Champa
8/Đất Phương Nam I - Thu Phục Thủy Chân Lạp
9/ Đất Phương Nam I - Cộng Đồng Những Cư Dân Bản Địa Trên Đất Nam Kỳ Xưa2/ Đất Phương Nam (Tập I) - Lời Đầu Sách
3/Đất Phương Nam - Đôi Nét Về Tác Giả Người Long Hồ & Mục Lục
4/ Đất Phương Nam - Công Nghiệp Của Các Chúa Nguyễn Đối Với Vùng Đất Nam Kỳ
5/ Đất Phương Nam - Theo Dòng Thời Gian
6/ Đất Phương Nam - Tiến Trình Nam Tiến
7/ Đất Phương Nam I - Thu Phục Champa
8/Đất Phương Nam I - Thu Phục Thủy Chân Lạp
10/Đất Phương Nam I - Vùng Đất Cochinchine Và Công Nữ Ngọc Vạn
11/Đất Phương Nam I - Kas Krobei Hay Prei Nokor Là Sài Gòn?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét