Thứ Năm, 4 tháng 12, 2025

Bạn Cũ Tình Xưa

Trường Y Khoa đường Trần Quý Cáp.

Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò. Câu này lúc nào

cũng đúng, cả với sinh viên y khoa. Khi ra đời, các y sĩ có hai bộ mặt: nghiêm trang, đạo mạo khi hành nghề, và khôi hài tinh nghịch khi họp mặt bạn bè. Lớp tôi có gần 200 người, khoảng 10% là phái nữ. Suốt sáu năm học, thực tập, trực gác, đi chơi chung, những kỷ niệm kể không bao giờ hết. Lần này tôi viết về những biệt danh (surnom) của một số bạn bè cùng lớp, hy vọng rằng các bạn có dịp nhớ những ngày vui xưa.

Muốn diễn nghĩa gốc tích của những biệt danh này, có khi tôi phải thổ lộ một vài bí mật của thời son trẻ, mong các bạn thông cảm, và các phu nhân đừng lấy đó làm lý do để đay nghiến đức lang quân. Những biệt danh này đôi khi không được thanh nhã, có thể sẽ bị một vài vị chê trách, nhưng tôi xin thưa ngay rằng, cái tục lệ đặt biệt danh ở trường Y khoa là do Giáo sư Nguyễn Hữu, vị thầy khả kính của chúng ta khơi mào, khi Thầy gọi bác sĩ Trần Sĩ Đôn là “Đôn Lò” và chúng tôi cứ thế mà khai triển.

Tôi xin mở đầu bài này với Vũ Thế Hùng và Trần Mộng Lâm, sau đó sẽ nhắc tới các bạn khác theo thứ tự ABC cho tiện việc. Thủa đó, ở Cầu Muối, có hai tay anh chị nổi danh là Hùng mụn và Lâm thợ điện. Sau một trận đại chiến, cả hai đều thiệt mạng, xác được đưa vào Cơ thể học viện ngâm formol để sinh viên thực tập. Vì vậy mà:

VŨ THẾ HÙNG biến thành “Hùng mụn ”. Hùng cao lớn đẹp trai, chả có “mụn” gì cả, rất nhiều đào. Anh này có tật hay chê, cô thì gót chân nhám, cô thì nút ruồi quá lớn ở....dưới rốn. Được tu nghiệp ở Mỹ, anh trốn sang Canada, lấy vợ đầm. Tuy ở Montréal, nhưng Hùng không liên lạc với anh em.

Chị ruột của Hùng là VŨ LAN ANH, cũng học cùng lớp với chúng tôi. Chị lớn tuổi, coi chúng tôi như pha, lúc nào cũng lên giọng kẻ cả. Câu chị hay dùng để mắng chúng tôi là: “Các cậu này mất nết, thấy con gái là hai mắt sáng lên như đèn ô tô” Khi đi thực tập với Thầy Út khu ngoài da, Thầy ngồi giữa, các chị ngồi xung quanh, con trai thì đứng lố nhố vì thiếu ghế. Có lần Trần Mộng Lâm đến sớm, giành được ghế ngồi, đang hớn hở thì bị chị Lan Anh kéo phắt dậy chiếm chỗ. Lâm tức quá lẩm bẩm, nhưng cốt để chị nghe:“già, xấu, khó tính, bất lịch sự” Chị giận tím người, thù Lâm ra mặt. Thật ra lúc đó chị chưa tới ba mươi, còn trẻ đẹp lắm. Chị bị chê già chỉ vì chúng tôi vừa mới hai mươi. Chị Lan Anh hiện làm anesthésie ở tiểu bang Québec, đã có cháu nội, ngoại một đàn.

TRẦN MỘNG LÂM, được gọi là “Lâm thợ điện”. Khi anh đi Từ Dũ, tuy tay chân lọng cọng, nhưng đỡ đẻ rất hăng say nên được cải danh là “Lâm bồn”. Anh hăng say không phải vì yêu nghề mà vì được dịp gần các cô sinh viên nữ hộ sinh đẹp như mơ. Hồi trẻ Lâm đẹp trai lãng mạn nhưng hơi nhát, nên lúc tán các cô anh quá cảm động, thường ú ớ không nói được huê tình như anh muốn. Bèn đổi chiến thuật tán bằng thơ. Bạn bè cản, sợ rằng bút sa gà chết, nhưng anh nhất định không nghe. Mà anh viết thư tình hay lắm, ngang ngửa với cuốn một trăm bức thư tình hay nhất thế giới. Câu tủ của anh, hình như bắt

chước một ông Tây nào đó là “anh muốn, ngoài mẹ anh ra, em là người đàn bà duy nhất đứng bên anh trong suốt cuộc đời”. Chiến thuật mới có vẻ thành công, anh đắt đào lắm, le lói một thời. Nhưng vì chủ quan khinh địch, Lâm có lần bị tổ trác. Số là chàng viết thư rất nhiều, cùng một lúc cho bốn, năm cô. Hồi đầu, các thư đều personnalisé, sau chàng làm biếng, cứ bổn cũ soạn lại (chỉ đổi tên và ngày tháng) không dè, trong các destinataire, có hai người quen nhau, đem thư ra khoe, thì thấy hai bức thư y chang, chỉ khác tên người nhận, bèn cho tác giả rớt đài.

Ở ngoài đời, Hùng mụn và Lâm thợ điện giết nhau, thì ở trong trường Y khoa, Hùng và Lâm cũng có lần đánh nhau, xém xẩy ra án mạng. Đó là lần thực tập Sinh lý học với Thầy Trần Vỹ, làm spirométrie. Trong lúc Lâm đang cong lưng thổi để cái phao úp trên bồn nước nổi lên từ từ, thì Hùng đưa tay nhấn cái phao thật mạnh, nước bắn tung tóe, ướt cả áo quần. Lâm điên tiết, phóng một cước, trúng ngay hạ bộ của Hùng. Hùng ngã vật xuống, mắt trợn trắng, thều thào nói không ra tiếng, làm chị Lan Anh sợ toát mồ hôi, phải gọi xe cứu thương chở em đi bệnh viện.

Năm 1975, Lâm chậm chân, bị lũ dép râu, nón cối bắt đi cải tạo. Anh vượt biên, sang định cư tại Canada từ năm 1979, hiện có vợ và hai con. Sau hai mươi năm lưu lạc, mọi thứ trong người anh đều xìu, chỉ có hai thứ còn hoạt động được, đó là cái đầu để viết bài cho Tập San Y Sĩ và cái tay để xoa mạt chược.

Lâm bồn là bạn nối khố của “Bình dò” (xin xem phần sau). Cứ vài ba ngày không gặp là lại phone loạn lên rủ nhau đi ăn trưa. Năm 78, khi nghe tin đồn thất thiệt là Lâm bồn bị Việt cộng chặt làm ba khúc, Bình dò kéo Trần Văn Dũng đi nhậu để tâm sự, uống say mèm rồi khóc rưng rức ở tiệm ăn...Thân thì
thân, nhưng hai anh này khắc khẩu, cứ ngồi vào bàn vuông là cãi nhau chí chóe như chó với mèo. Kể cũng lạ.

Cơ thể Học Viện đường Trần Hoàng Quân

ĐẶNG VŨ ÁI. Người hiền lành, chân chỉ hạt bột, chỉ biết học. Thời học sinh, môn gì anh cũng nhất, kể cả sử địa, công dân. Vì tên Ái, nên được gọi là “ Lao Ái”, dù đồ đạc và tính tình của anh không giống Lao Ái chút nào (quý vị chắc cũng biết Lao Ái, một nhân vật thời Chiến Quốc, nổi tiếng về bộ phận sinh dục rất lớn, khi érection, có thể để bánh xe vào đó mà quay. Lao Ái được Lã Bất Vi dàn cảnh, giả vờ hoạn, rồi đưa vào “phục vụ” mẹ của Tần Thủy Hoàng). Anh Ái hiện ở Pháp.

Lớp tôi còn có anh PHẠM NHƯ ÁI, nhưng không ai dám đặt tên vì anh quá nghiêm trang, đứng đắn. Sau anh kết hôn với chị Lê Quỳnh Anh là bạn cùng lớp. Ái và Quỳnh Anh hiện đang ở Floride.

Lớp tôi còn một anh có tên rất ngắn là TRẦN ĐÔNG A, anh này không có biệt hiệu, nhưng tôi nhắc ở đây vì nhiều lý do: Ngày đi học anh rất chăm, thuộc bài như cháo và rất đía. Năm thứ nhất, thi xong, anh tuyên bố ầm ĩ là thế nào cũng đỗ major, hạ bệ Lê Quỳnh Anh và Phan Hữu Thành. Khi ra bảng, anh đỗ hạng chót. anh em cười ầm lên. Có tên nói đểu: “Thằng A nó đỗ major thiệt đó chớ, tại ông thơ ký dán ngược tờ kết quả”.

Khi ra trường, anh đi Nhảy Dù, Vì được lòng xếp, anh lên Thiếu tá rất mau.

Đến mùa pháp nạn, anh đi tù, lại được lòng quản giáo và nhà nước. Giờ anh ở Việt Nam rất nổi tiếng và được biệt đãi, chỉ thua ông bác sĩ dân cử Trần Thành Trai một chút.

NGUYỄN PHÚC BÌNH, tức “Bình đen” vì da anh hơi đen. Anh

ăn nói nhỏ nhẹ, ăn mặc sạch sẽ, học hành rất đàng hoàng, cựu nội trú ở Bình Dân. Anh hiện hành nghề Néphrologie ở Louisianne.

NGUYỄN THANH BÌNH, tức “Bình dò”. Nguồn gốc chữ “dò” này dài lắm. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, khi xem cinéma, bao giờ cũng phải chào cờ và suy tôn Ngô Tổng Thống, sau đó là quảng cáo thuốc “Tam tinh hải cẩu bổ thận hoàn” của nhà thuốc Võ Văn Vân. Ngoài bài hát “thuốc tam tinh là thuốc thanh niên” bài quảng cáo đó đại khái như sau:

“tam tinh là gì? Là bệnh của thanh niên, gồm có: - Mộng tinh: Nằm mơ thấy giao hợp với đàn bà thì xuất tinh. Đó là bệnh nhẹ, tỷ như bình đầy tràn...

- Di tinh: Trông thấy hay nghĩ tới đàn bà thì tinh xuất, tỷ như bình nghiêng.

- Hượt tinh: Lúc nào tinh khí cũng chảy dầm dề. Đó là bệnh nặng, tỷ như bình dò hay bình hư lủng đít. Đáng lẽ phải gọi RÒ mới đúng, thay vì dò...

“Bình dò” bị gán cho tên này đau lắm, nhưng cũng phải chịu. Bạn bè nhiều khi quên hẳn tên Bình, cứ thấy mặt là “ê dò”, riết thành quen. Có vài chị tò mò hỏi tại sao thì anh phải trả lời qua quýt rằng thích ăn giò, rồi bẽn lẽn lảng đi chỗ khác.

Hồi năm thứ hai, anh Bình mê một chị bạn cùng lớp. Lúc đầu, anh không dám nói, cứ sáng sáng đến trường thật sớm, chờ nàng đến cười một phát, rồi xem nàng ngồi ở đâu thì đến ngồi ngay ở đàng sau để ngắm cho đã. Hai người coi bộ càng ngày càng thân mật, nhưng qua năm thứ ba, đùng một cái, nàng lên xe hoa về nhà chồng, phu quân của nàng là một đàn anh đã ra trường. Nói theo từ ngữ thông dụng của y khoa thời đó, Bình đã bị đàn anh “nhét sao vào miệng”. Bị chưởng

này, Bình sụm ba chè, người cứ nhược ra như bị “hóa công đại pháp” của Tinh Tú Hải Lão Ma. Sau khi phục hồi được một vài thành công lực, Bình đổi tính vừa ngang vừa gàn, thành tay chơi cầu ba cẳng, nên mãi đến năm 78 mới lấy được vợ. Tuy “dò” nhưng cũng rặn ra được hai đứa con.

Anh Bình hiện ở Canada, hành nghề gastro entérologie, mà anh thường gọi đùa là nghề đo lòng người. Lạng quạng thế nào mà anh lại thành Chủ tịch Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada. Bạn bè gọi anh là président digital, không phải vì anh giỏi về électronique, mà vì anh lười, cứ ngồi ì ra, chỉ tay sai loạn cào cào.

LÊ TẤT CƯƠNG, tức “Cương mù” hay “Cương lòa”. Vì cận thị nên bị gọi như vậy thôi, chứ mắt anh sáng như điện. Cô nào có lông măng ở cánh tay, nốt ruồi ở gáy là anh biết hết. Mặt anh rất sáng và nghiêm, nhưng tính hay nghịch, đúng như tuổi Mùi của anh vậy. Có khi anh bị bạn bè đổi họ, biến thành Lên Tất Cương. Cũng đúng thôi, lên thì làm sao mà nhu được. Sau cách mạng 1963, anh và Lâm bồn lén đi học nhảy với giáo sư Trọng Tấu, sau lại theo Bình dò và Đạm heo học thêm một khóa nữa với giáo sư Đỗ Long. Anh còn ân hận vì chưa được thụ giáo với Tony Chương, “cựu thủy thủ của chiến hạm La Motte Piquet, từng đặt chân trên khắp sàn nhẩy Âu, Á”. Chẳng hiểu nghề nhảy của Cương Lòa giờ này ra sao, nhưng Lâm bồn thì rõ là không có khiếu, vì trong các đám tiệc, đám cưới, anh ngồi xếp ve, đến phần hai của mục văn nghệ là anh len lén dắt vợ chuồn ra cửa. Cương lòa, hồi trẻ có học nhạc, chơi violon mà chúng tôi gọi đùa là kéo nhị tây. Một lần anh hứng chí kéo ba tên bạn than về nhà, say sưa biểu diễn độc tấu vĩ cầm. Mấy tên mù nhạc ngồi nghe, gật gù có vẻ tán thưởng làm anh

càng hào hứng. Khi bản nhạc chấm dứt, Đạm heo bèn cười rất đểu, kể chuyện tiếu lâm, chuyện vợ hóa của một đồ tể, mỗi khi nghe ông hàng xóm kéo vĩ cầm thì khóc sướt mướt, vì nhớ tiếng heo kêu khi bị chọc tiết. Cương lòa bị chưởng này nặng quá, bèn dấu biến cây đàn.

Cương lòa, sau làm tới Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 25 Quân Y. Lên Thiếu tá rất sớm, và bị tù cũng lâu vì chức lớn. Anh hiện ở California, nhan sắc không mấy thay đổi, đêm đêm đem nhị tây hòa tấu với vợ là một danh thủ dương cầm. Chả hiểu có bà hàng xóm nào khóc hay không?

HOÀNG THIỆN CĂN, tức là “Cú căn”, anh này người roi roi, để râu cá chốt, khi gặp người Trung thì nói tiếng Huế, khi gặp người Bắc thì nói tiếng Hà Nội, nên bạn bè không biết anh gốc gác ở đâu. Ngày xưa, anh mê mạt chược xoa liên miên, có khi ngã gục trên bàn bài. Anh rất văn nghệ, thổi sáo, làm thơ, vẽ tranh đủ thứ, bây giờ anh làm lớn ở miền Đông Bắc Hoa Kỳ.

LÊ VĂN CÔNG, tức CÔNG NGỦ: Hồi đi học, Công nói chuyện vui lắm, hay pha chè, và hói khá sớm. Hồi trẻ, Công Ngủ thật hay không, chỉ có vợ hắn mới biết, khi già rồi thì hết ngủ, đêm nào cũng thức cầm canh.. Công ở DC, anh em qua chơi là được tiếp đãi nồng hậu…

VƯƠNG BÌNH DZƯƠNG. Dù tên đã có chữ Z, anh cũng bị gọi là “Dzương vật ”. Tên này không được thanh nhã, vì nói thẳng chứ không nói lái. Anh nhỏ con, lúc nào cũng cười toe toét, và thường tuyên bố, một vợ năm con. Mọi người đều tưởng thật, đến khi đi lính, khai gia cảnh để lãnh lương, bạn bè mới biết là anh xạo. Anh hiện ở Mỹ, lấy vợ khoảng thập niên 90.

VŨ VĂN DZI, tức “Vỗ Sinh”. Anh con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai. Trong lúc bạn bè đi solex, lambretta thì anh đi xe hơi Toyota Corona thứ xịn. Hồi làm nội trú, trong túi áo blouse của anh lúc nào cũng có bộ bài tây, hễ cứ đủ tay là ngả bàn đèn. Anh muốn bắt chước “interne xì” tức Nguyễn Văn Lâm, trên tụi tôi hai lớp. Kể về y lý thì hai anh ngang ngửa, nhưng về xì lý, thì Dzi có lẽ phải nhường đàn anh. Ngày đó, trên báo “Tình Thương” của Y Khoa, anh có viết một truyện liêu trai “nàng cư lệ” kể mối tình của một sinh viên với chị muỗi culex: “Vũ Sinh quán ở Hà Đông....bèn giao hoan....nghe có vẻ Bồ Tùng Linh lắm. Anh vốn gốc trường Tây, tính tự nhiên, gặp bạn bè thì vỗ vai, vỗ lưng, vỗ cả ... đít nữa. Vỗ bạn trai thì không sao, vỗ bạn gái thì hơi chướng, vì vậy anh được tặng danh hiệu là Vỗ Sinh, thay vì Vũ Sinh. Vì tên Dzi có trong bảng quảng cáo Tam tinh hải cẩu nên đôi khi anh cũng được gọi là Di tinh...

Anh lập gia đình sớm, cỡ 5 année. Bạn bè thầm thì rằng, tuần trăng mật trên Đà Lạt, thay vì “vầy duyên cá nước” thì anh lại mang theo một valise sách vở để trau giồi y lý. Chả hiểu sự thật ra sao, nhưng bạn bè được dịp cười thỏa thích, và bây giờ, có lẽ nhờ vậy nên y lý của anh cao lắm, làm giáo sư Y khoa và viết bài lia chia cho Tập San Y Sĩ.

CAI VĂN DUNG, tức “Cai dù”. Tên không dùng được thì phải dùng họ để đặt biệt hiệu cho kêu. Thời sinh viên ai trực chung với anh cũng hay bị anh gửi để đi “có tí việc”. Khi “việc” xong, anh về nhà thương, leo vào lavabo để làm vệ sinh thân thể. Cái màn tắm trong lavabo này khó lắm, phải có võ mới làm được, lờ quờ là té bể đầu. Anh Dung thì khỏi chê, tắm rất ngọt, đã không ngã lại không ướt nhà. Dung bây

giờ ở California.

VŨ THIỆN ĐẠM, tức “Đạm heo”. Anh là người lịch sự, vui vẻ mà bị cái tên không mấy thanh nhã, chỉ vì tật ăn nhanh, vào hiệu phở, trong lúc mọi người đang vắt chanh, bỏ ớt, ăn được vài miếng thì anh đã tỉnh bơ ngồi xỉa răng, nhậm xà. Đạm tính rất tếu, thường nhớ thuộc lòng những câu văn Tây, rồi đổi chữ hoặc dịch ra tiếng Việt để cười chơi. Chắc quý vị còn nhớ, khi làm observation, ở đây gọi là histoire de cas, thường có câu Foie, rate non palpables. Câu này được Đạm dịch ra “Gan lá lách không sờ thấy”, rồi thêm “vú thấy không sờ được” làm bạn bè cười chảy nước mắt.

Khoảng 5è année, Đạm theo đuổi một cô sinh viên Dược, lơ là với bạn bè nên được gọi là “Đạm thu” dù Thu không phải là tên người đẹp. Mọi người đều tò mò, muốn điều tra, nhưng Đạm rất kín miệng, anh em hỏi mấy cũng không có kết quả. Khi muốn đi với bồ, thì Đạm len lén chuồn êm. Chúng tôi đã nhiều lần đóng vai thám tử, theo dõi tận tình, nhưng Đạm lái vespa nghề lắm, ẹo qua ẹo lại, chạy lòng vòng rồi bất ngờ biến mất.

Đến gần đám cưới, cuối năm thứ sáu, chúng tôi mới biết mặt giai nhân. Đám cưới Đạm heo có bốn tên phù rể là Đại du, Lâm bồn, Bình dò và Cương lòa. Đạm hiện ở California, có ba con, đứa con trai của anh tên là Đôn...lò.

NGHIÊM ĐẠO ĐẠI, tức “Đại du”. Tên Đại thì phải du vậy thôi, chứ sự thật ra sao thì chỉ mình anh biết. Đại học vừa giỏi vừa chăm, giờ là giáo sư chuyên ghép thận ở Pittsburgh. Có khi anh cũng được gọi là Đại đầu bạc vì tóc anh bạc rất sớm.

NGUYỄN ĐỖ HẠNH, biệt danh là “Hạnh thâm”, vì môi thâm. Hạnh hiện ở Californie.

NGUYỄN HOÀNG, tức “Hoàng Jaune” hoặc “Hoàng thợ mộc”. Ở Việt Nam nắng nhiều, Hoàng sợ nắng nên thường đội cái mũ lưỡi trai của bộ binh, mà đội ngược nên trông rất giống thợ mộc. Anh không ưa cái tên này lắm. Khi Hoàng cãi nhau với ai, anh em thường can bằng cách thêm dầu vào lửa: “Thôi nhịn đi, nó mà lấy dăm bào nhét vào miệng thì mày bá thở”. Thế là có đại chiến. Nhưng hồi trẻ, tình hồn nhiên, mau quên; ngày hôm trước cãi nhau chí chát, ngày hôm sau lại mày mày, tao tao, dắt nhau đi ăn uống. Hoàng hiện & California.

DƯƠNG QUANG HẢO tự “Alon Delain ” là tiếng nói lái của Alain Delon, vì anh trắng trẻo, đẹp trai. Khổ nỗi, anh hói sớm, đầu láng coóng nên có thêm biệt hiệu là “quả trứng”.

NGUYỄN DUY HẢO “JACK PALANCE” anh gầy và cao, miệng hơi móm, rất giống kép ciné jack palance. Đi đâu, anh cũng xách cái cặp màu nâu, người ngoài tưởng là sách vở, dân cờ bạc thì biết đó là cỗ bài mạt chược. Khi muốn đánh bài, anh đi một vòng miệng hô leng keng tay nào rảnh thì theo anh gầy sòng.

TRẦN QUANG HIỂN, tức là “Hiển sữa” vì nhỏ con, trắng trẻo lúc nào cũng cười toe toét. Tới giờ này, ngoài 50 anh vẫn sữa như xưa.

LÊ VĂN HIỂN, tức là “Hiển xoăn ” vì tóc anh xoăn tít như tóc chà và. Khi tử tế thì được gọi là “Hiển xoăn”, khi cãi nhau thì bị gọi là “giọt máu viễn chinh”.

Thời sinh viên, anh có hai biệt tài là bắt chước giọng và quất ngựa chuối.

Ở Cơ thể học viện, anh nhại Thầy Nguyễn Đình Hoằng, giảng về radio, image en chapeau Mexicain, en feuille de treffle, giống đến nỗi, Thanh Lan là con gái thầy Hoằng cũng tưởng thật. Anh cũng hay nhại Thầy Út, vừa nói vừa hất hất đầu giống như hệt. Có lần anh ngồi nói chuyện với Thầy Út rất say sưa hào hứng. Bạn bè tò mò để ý nghe thì thấy anh kể chuyện Thủ tướng Néhru của Ấn Độ. Về sau mọi người mới vỡ lẽ, vì Thầy Út có cái mũi đỏ, mà Nehru, đọc theo tiếng Tây đồng âm với Nez rouge.

Sinh viên y khoa ngày xưa có giá lắm, muốn tán chỗ nào, vào thì dễ, rút lui rất khó, thật thiên nan, vạn nan. Khi muốn rút lui, Hiển chờ người đẹp đi vắng, lén lén đến gặp bà mẹ, đưa ra một tấm hình phổi lủng bốn, năm lỗ rồi rơm rớm nước mắt, nói rằng mình bị lao nặng, phải nằm nhà thương. Thế là bà mẹ chạy có cờ, em cũng chạy theo, và anh “di tản chiến thuật” an toàn trên xa lộ.

Khi ra đời, Hiển thành công mỹ mãn. Trong khi các bạn đi lính, thì anh giải phẫu thẩm mỹ, kiêm nghề dân biểu, đơn vị Cần Thơ, nơi anh chưa hề ở một ngày nào, trừ lúc xuống vận động tranh cử. Anh ở biệt thự, có tài xế mặc áo trắng, đội képi đưa rước đi làm. Khi ra ngoại quốc, trong lúc bạn bè ở App, đi xe bus, thì anh ở lâu đài trên đồi, lái Mercedes.

Anh vốn ở Califomie, nhưng từ mấy năm nay, tuyệt tích giang hồ.

PHẠM NGỌC KHUÊ tức “ Khuê lù” vì anh mập và hơi còng,

đi tới đâu cũng lù lù một đống. Khuê là một cây mạt chược tay chân nhanh như chớp, ngồi xoa với anh một lúc là hoa mắt. Biệt tài của anh là nhớ số xe. Nói đến tên ai là anh đọc ra số xe vanh vách. Ngày đó, nhà anh có chiếc Vauxhall màu vàng. lâu lâu được phép của bà già là anh chở bạn bè đi chơi. Anh lái xe cao bồi không chịu được, chạy thục mạng, hễ thấy cô nào có dáng đẹp đẹp là anh thắng két xe lại, thò đầu ra thả lời ong bướm. Khuê hiện ở Califonie, có vợ và hai con.

NGUYỄN GIA KHÁNH, tức “Khánh nháy” vì có tật chớp quàng. Khi qua Canada, anh học ngành pathologie, chuyên coi kính hiển vi, nhờ đó hết nháy và hiện là giáo sư uy tín của trường Y khoa Saskatoon.

NGUYỄN TRÙNG KHÁNH, tức “Khánh chửi” vì cứ mở miệng ra là anh văng tiếng Đức. Thời sinh viên anh lúc nào cũng khệnh khạng, ra vẻ dân cậu, đi học mà mặc chemise trắng dài tay, đeo manchette, thắt cravate, ngồi xích lô...oai vậy mà chuyên môn cọp, lại cọp kiểu cha nhà thờ. Khát thì “Sao không đứa nào mời cậu đi uống cà phê; đói thì: “Cậu chờ mãi sao không thấy đứa nào rủ cậu đi ăn phở”. “Cậu” đói rách như vậy chỉ vì xài sang, cả tháng lương chỉ đủ một bữa nhậu, kể từ mùng hai là bắt đầu cọp. Ra trường. Khánh đi Thủy Quân Lục Chiến. Anh em cười ầm lên: Vua cọp thành chiến sĩ cọp biển. Tại binh chủng này, anh bị thương, bị cắt mất một khúc ruột. Tái ông thất mã. Nhờ bị thương, anh được giải ngũ, du học bên Anh về quang tuyến, và thành giáo sư đại học Queen ở Kingston. Khánh có vợ và hai con, viết văn, in sách tùm lum, nhưng tật chửi thì vẫn chưa bỏ được: gặp bạn bè thì chửi bằng tiếng Việt, ở nhà thương chửi bằng tiếng Mỹ.

NGUYỄN VĂN LỘC, tức “Lộc cò”. Lộc cao cỡ 1 mét 8, nặng 40 ký, giống con cò, gió thổi bay. Nếu đi lính thật thì anh không đủ tiêu chuẩn; nhờ có bằng đốc tờ nên mới được kho an hồng, cho mặc áo nhà binh. Lộc hiện ở Pháp, vẫn cò như xưa.

LÊ LỮ, tức “ Le lưỡi ”, anh tuy học chung lớp, nhưng hơn tụi tôi cả 17, 18 tuổi. Anh nhà giàu, đã “du học” bên Pháp một thời gian trước khi về nước học y khoa.

Hồi mới vào năm thứ nhất, chúng tôi nhát như thỏ. Buổi đi thực tập đầu tiên ở bệnh viện Nguyễn Văn Học, chưa biết mặt cụ Rivoalen và các anh Lữ Y, Thế Minh, cả bọn đương đứng ngơ ngáo thì thấy một chiếc xe DS 19 đậu kịch trước cửa trại bệnh, rồi một ông mặc áo blouse trắng xuống xe, hùng dũng đi vào, trông rất oai phong. Có vài anh sợ quá, tưởng ông thầy định chào, chợt nhìn ngực áo thấy tên Lê Lữ, cũng chỉ một sao đỏ toòng teng như mình bèn cười sặc lên! Anh Lữ là tay sành điệu, đã dong chơi từ Á sang Âu nên thường đem kinh nghiệm ra kể, đầu độc tâm hồn trong trắng của đàn em. Để đền ơn, chúng tôi mới tặng anh biệt danh là “Le lưỡi”

Anh Lữ bây giờ ở Canada, đã có một đàn cháu nội, cháu ngoại. Mong rằng khi đọc những dòng này, anh sẽ cười ha hả, chứ không phone đến Tập San Y Sĩ mà mắng vốn.

NGUYỄN CAO MÔN, tức “Môn lù”. Đây có lẽ là cái biệt hiệu hay nhất của lớp chúng tôi. Mọi người đều thích, nhưng đương sự không ưa lắm. Bạn thân gọi thì anh cười hề hề, tên nào không thân mà vô phúc đụng tới thì bị anh chửi cho tối mắt tắt đèn. Tác giả bài này vốn là bạn thân của anh, nhưng cũng phải uống mấy viên thuốc liều, phân vân cả tháng mới

dám viết. Môn ơi, nếu không có tên anh thì bài này sẽ thiếu sót trầm trọng.

NGUYỄN NGỌC QUANG, tức “Quang điên”. Anh hiền lành, dễ thương, không gây gổ với ai bao giờ, chỉ vì hơi ngang một chút, lại theo lò luyện y lý của anh Đinh Hoàng Diệp nên mới có cái tên như vậy, Quang hiện ở Pháp.

TRẦN MẠNH RỰC, tức “ Rực việt cộng ”. Khó tả lắm! Quý vị nghe biệt danh thì chắc mường tượng ra được hình dáng của anh. Có điều anh hiền như bột, không có ác ôn còn đổ chút nào. Rực kết duyên với Kim Doanh là bạn cùng lớp. Cặp này hợp lắm vì Doanh cũng hiền không kém gì chồng. Thân phụ của Doanh hành nghề Đông y, nên hồi đi thực tập sinh lý học, tụi bạn trời đánh thường lấy phân thỏ, phân mèo gói lại đem tặng chị, nói là cao đơn hoàn tán, chọc cho chị khóc dài dài. Rực và Doanh hiện ở Texas.

HÀ MẠNH TUẤN, tức “Tuấn què” gẫy chân vì tập nhảy dù. Cũng có khi anh được gọi là Tuấn ghẻ, không hiểu vì sao? Bên ngoài thì không thấy ghẻ, hoặc giả anh ghẻ ở chỗ kín? Khi ngồi xoa, Tuấn nói như thánh phán, vậy mà ai nói lạng quạng là anh lại dọa “tạo đặt mua cái máy vả rồi, máy mà tới thì có thằng vêu mặt”. Tuấn hiện ở Pháp, có chân trong Ban Tổ Chức Đại Hội 2000.

HOÀNG TRỌNG TUẤN, tức “Tuấn chì ”, vì da ngăm đen và rất “chì” nghĩa là gan dạ, chịu chơi.

LÊ TIẾN VĂN, tức “Văn lõ” vì mũi cao.

VĂN CẠO, tôi quên tên và cũng không biết tại sao gọi là cạo. Cả hai anh này đều mê bài cào. Hồi đó, ở Chợ Rẫy, Văn lõ thường làm hồ lý cho Nhân già làm cái. Khi cái bị “oắc” là anh em lại nghe Văn cạo ré lên “Nại bù”. Bác sĩ Trang Đắc Hiếu đã có lần gọi cảnh sát mang xe cây tới hốt, làm xấu mặt đám đàn em. Nhờ có Nguyễn An, là em Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát nên mọi người được tai qua nạn khỏi, không bị đăng tên trên báo.

Lớp chúng tôi cón rất nhiều người, nhưng không có biệt danh, hoặc có biệt danh, nhưng không đại chúng.

PHAN HỮU THÀNH, ngày xưa chăm chỉ, nghiêm trang, chỉ lo học, bây giờ coi bộ muốn tiếc thời son trẻ. Thành ở Mỹ, chuyên giải phẫu lồng ngực. Bà xã của anh là ÁI TRINH, chuyên về pa thologie, coi lame và làm autopsie . Vì vậy mới bị trêu “chồng mổ bệnh nhân xong thì chuyển qua cho vợ”. Ái Trinh là người nữ duy nhất có surnom. Tên của chị có nghĩa là yêu sự trinh bạch. Cái màng trinh của thiếu nữ, tiếng chuyên môn gọi là hymen và Ái Trinh được gọi là Hymenophile .

THÀNH QUANG LÂN, học giỏi, con nhà giầu, đi ăn phở 100 thì cho pourboire 50. Lân là em rể của Đạm, hiện ở Montréal, hành nghề Gastro .

Các anh như CHU BÁ HỌC, VŨ TRỌNG HÙNG, LÊ VĂN DUYÊN, LÊ VĂN MỸ PHƯỚC, TÔ NGỌC ẨN, NGUYỄN VĂN QUÝ, HUỲNH LỢI, PHẠM VĂN CHẤT, ĐOÀN LÂN là những người hiền lành, chân chỉ, thường đứng nghe bạn bè kể chuyện rồi cười góp. Các bạn này tản mát, mỗi người một nơi.

Hiện ở Montréal chúng tôi còn có HỒ THỊ HƯỜNG và chồng là NGUYỄN ĐỨC LONG, TRẦN ĐỨC CƯƠNG, PHẠM PHÚ HIỀN, NGUYỄN ĐÌNH THẢO, NGUYỆN MẠNH LƯU, NGUYỄN KIM TÍNH, LÂM TÀI THƯỢNG, PHẠM NHỰT HƯỚNG

Tuy viết chuyện xưa để cười, để nhớ lại kỷ niệm thời son trẻ, nhưng trong lòng không khỏi bùi ngùi. Thời gian không cánh mà bay! Hơn 30 năm, biết bao nhiêu dâu bể. Một số bạn đã ra người thiên cổ.

Tôi muốn dành đoạn cuối này để tưởng niệm những người bạn đã từng cùng tôi chia ngọt xẻ bùi trong bao nhiêu năm, thời sinh viên và thời trong quân ngũ.

ĐẶNG ĐỨC KIỆM, qua đời vì tai nạn ở Việt Nam, một thời gian ngắn sau khi nhập ngũ.
ĐÀO VĂN ĐÔN, qua đời vì bệnh Lou Gherig.
NGUYỄN VĂN TỰU, bị Việt cộng sát hại tại Cần Thơ, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
BÙI HUY KHA, qua đời vì tai nạn ở Hoa Kỳ.

PHẠM KIM PHÁN, qua đời vì viêm gam và ung thư gan. Phán là người thân với tôi nhất, từ hồi trung học. Anh nho nhã, trắng trẻo, hiền lành, hiền đến nỗi, là bác sĩ mà còn trinh khi cưới vợ. Thời sinh viên, anh mê Thu, nữ sinh viên Đại học Sư Phạm. Phán mê mà không dám tán, thường hay tâm sự với tôi, và lâu lâu lại chở tôi trên xe vespa , đến trước trường Đại học Sư Phạm, đậu xa xa bên kia đường mà trồng cây si. Vì thương bạn, tôi xung phong đến làm quen với Thu, thêm mắm, thêm muối, kể lể rất lâm ly bi đát về mối chân tình của Phán. Tán cho mình thì khó, hay bị khớp, chứ tán hộ thì khỏe

lắm, nói năng hoạt bát, văn vẻ đâu ra đấy. Phán-Thu sau thành vợ chồng, và thường chiều chuộng tôi đặc biệt. Khi ra trường, Phán đi Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ, rồi về Cộng Hòa học Radio.

Năm 1975, tôi chạy thoát, Phán đi tù. Vừa được thả là Phán đến ngay nhà song thân tôi hỏi thăm tin tức. Thế là chúng tôi lại liên lạc được với nhau.

Khi song thân tôi còn ở Việt Nam, lâu lâu Phán lại ghé thăm, khi cho mượn sách, khi tặng gói trà. Tôi ít thấy ai cư xử trung hậu như Phán. Anh ra đi, để lại trong lòng tôi một khoảng trống không sao lấp đầy được.

Để kỷ niệm thêm sống động, xin đăng hai tấm hình: Một tấm ở trường Y Khoa đường Trần Quý Cáp.
Một tấm ở Cơ thể Học viện đường Trần Hoàng Quân. Hình nhỏ có tám người, thì hai đã ra người thiên cổ. Hình lớn chụp gần đủ cả lớp, có nhiều người tôi không nhớ tên. Bạn nào nhớ thì nhắc giùm.


ĐỐC MỀN
Ngày xưa, thi đỗ Tú tài 2 lần thì gọi là Tú Kép, đỗ 3 lần gọi là Tú Mền. Nguyễn Thanh Bình, đỗ đốc tờ Việt Nam, Canada và Mỹ, 3 lần nên xưng là Đốc Mền.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét