Thứ Tư, 3 tháng 12, 2025

Phân Tích Danh Và Sắc


Trong phần Duyên Khởi và Thập Nhị Nhân Duyên, cái gọi là con người đã được phân tích thành 2 thành phần:
- Sắc, tức phần Vật Lý, gọi là Thân.
- Danh tức phần Phi Vật Lý gọi là Tâm. Tâm lại được phân tích thành 4 thành phần là Thức, Tưởng Thọ, Hành.
Trong phần này, mình sẽ tiếp tục phân tích sâu hơn tới khi thấy được các thành phần cơ bản nhất của Sắc hay Thân và Danh hay Tâm. Đó là sự phân tích tới tận cùng, phân tích sâu đến mức không thể phân tích sâu hơn nũa.
Tại sao lại phải phân tích sâu như vậy?
Mục đích: rất quan trọng: để thấy thật rõ những yếu tố cơ bản nào trong Thân và Tâm chi phối các hoạt động của Thân và Tâm đưa tới Đau Khổ hay An Vui.

SẮC.


28 Sắc Pháp

Tất cả các thể vật lý (Sắc pháp), theo lời giảng của Phật, thì được cấu tạo bởi 4 yếu tố cơ bản nhất, có thể gọi là 4 nguyên tố. Đó là 4 yếu tố Đất, Nước, Gió, Lửa hay tiếng hán việt thường dùng trong sách là Địa, Thủy, Phong, Hỏa.

Bốn yếu tố cơ bàn này gọi là Tứ Đại tức 4 yếu tố chủ yếu nhất.

Dẫn xuất từ 4 yếu tố cơ bản chủ yếu nhất này là 24 sắc pháp khác. Tổng công như vậy là có 28 sắc pháp.Tạm thời chỉ tìm hiểu 4 yếu tố chính này trước, vì cũng tạm đủ  để có mot65v kiến thức căn bản về Sắc

Tứ Đại

Đất : Tuy gọi tên là Đất, nhưng thực ra đó là tên gọi cho yếu tố có tánh chất đặc (solid).
Nước: cũng vậy, không phải là Nước (H2O) như mình thường gọi, mà đó là tên gọi cho yếu tố có tính kết nối, kết dính các yếu tố đặc (Đất).
Gió: cũng vậy, không phải là gió như mình thường gọi, mà chỉ là tên gọi cho yếu tố hỗ trợ sự chuyển động, tức Khoảng Không
Lửa: cũng vây, không hẳn phải là Lửa như thường thấy, mà chỉ là tên gọi cho năng lượng, trong đó nhiệt độ là một dạng năng lượng, Nhiệt Năng.
Nhờ vào tiến bộ của Khoa Học Vật Lý, ngày nay ta có thể biết rằng :
Tất cả các thể vật lý, cái bàn, cái ghế, hòn đá, cây cối, sông hồ. biển cả, và cơ thể con người đều cấu tạo bởi các phân tử (molecules). Mỗi phân tử lại được cấu tạo bởi các nguyên tử (atom)
Mỗi nguyên tử được cấu tạo bởi :
-các hạt : proton (hạt dương tính), neutron (hạt trung tính), electron (hạt âm tính): đó là yếu tố Đất
- lực kết nối giữa proton và electron : yếu tố Nước
- khoảng không giữa các hạt : yếu tố Gió
- năng lượng để các electrons di chuyển trên các quỹ đạo của chúng : yếu tố Lửa.
Tùy theo số lượng các proton, electron, và proton mà có những nguyên tử khác nhau.
Thí dụ 1 : nguyên tử Oxygen thì có
Nhân (nucleus) gồm có 8 proton và 8 neutron.
Chung quanh nhân là 8 electrons được phân phối trên 2 quỹ đạo :
Quỹ đạo trong, gần Nhân : có 2 electrons
Quỹ đạo ngoài : có 6 electrons.
Thí dụ 2: nguyên tử hydrogen
Nhân : chỉ gồm có 1 proton, không có neutron nào.
Quỹ đạo: chỉ có 1 electron duy nhất.

Các nguyên tử khác nhau kết hợp thành các phân tử khác nhau.

Thí dụ: 2 nguyên tử hydrogen kết hợp với 1 nguyên tử oxygen thành một phân tử nước H2O.

Nhiều phân tử khác nhau kết hợp lại thành các thể vật lý phức tạp hơn như cái bàn, cái ghế, cây cỏ, hòn đá, cơ thể con người.

Bốn yếu tố cơ bản thì có bản chất không thay đổi và được gọi là Sắc Chân Đế. Nhưng những hợp thể cấu tạo bởi các yếu tố cơ bản này chỉ là kết quả của sự kết hợp tạm thời, luôn luôn biến đổi tùy điều kiện, và được gọi là Sắc Tục Đế.

Thí dụ:

- Nước lỏng khi gặp nhiệt độ cao sẽ biến thành khí hơi nước.
- Hạt lúa phát triển, biến đổi thành cây lúa.
- Bé sơ sinh phát triển biến đổi dần thành trẻ em, rồi người lớn.

Như vậy, 4 yếu tố cơ bản này giống như 4 loại gạch để xây dựng lên những ngôi nhà mang tên Sắc. Những ngôi nhà này chỉ là sự kết hợp tạm thời của 4 loại gạch đó với số lượng và tỉ lệ khác nhau. Tùy theo tỉ lệ của từng yếu tố Đất, Nước, Gió. Lủa. 

Một lần nữa ta lại thấy luật duyên khởi trong sự sinh khởi và biến đổi của các pháp, ở đây là Sắc pháp:


Có Tứ Đại thì mới có Cây Lúa.Tứ Đại là duyên cho Cây Lúa sinh khởi. Ngay cả một nguyên tử : một nguyên tử được hình thành, sinh khởi từ sự kết hợp của 4 yếu tố căn bản đó. Nguyên Tử, Atom, vẫn là một Sắc Tục đế


Tứ Đại, Đất, Nước, Gió, Lửa được gọi là Chân Đề Absolute Reality hay Sắc Chân Đế.

Cái Cây tự nó không tự hiện hữu mà chỉ sinh khởi do duyên là Tứ Đại, và được gọi là Sắc Tục Đế, Conventional Reality. Cái Cây, một Sắc Tục Đế thì luôn luôn biến đổi theo những điều kiện, những "duyên". Tên gọi cố định “cái cây” là một tên gọi theo ước lệ ( tục lệ, convention) để giao tiếp, chứ sự thực là không có một cái cây với đặc tính cố định, bất biến đúng theo tên gọi.

Thí dụ: Hạt Lúa biến đổi thành Cây Lúa nhờ các điều kiện như nước, thời tiết, phân bón hay màu mỡ của đất.


Đất, Nước, Gió, Lửa được gọi là Sắc Chân Đế vì chúng là một thực thể thực sự hiện hữu, mỗi một Sắc Chân Đế là một đơn vị cơ bản nhất, nó không được cấu tạo từ các thành phần. Tuy đặc điểm của từng Sắc Chân Đế không thay đổi, nhưng nó vẫn góp phần vào tiến trình sinh diệt biến đổi của các Sắc Pháp tục Đế, nên nó vẫn thuộc thế giới hữu vi (vi : nghĩa là làm ra, tạo ra)


Cái bàn, cây lúa. v.v. sinh khởi từ sự kết hợp tạm thời các Sắc Chân Đế, và do đó luôn luôn biến đổi, nhưng vẫn được gọi bằng một cái tên cố định “ Cây Lúa”. Do đó cái tên “ Cây Lúa” chỉ là một cái tên đặt ra theo ước lệ (convention) để tiện giao tiếp.


Tại sao phải phân tích chi li như vậy làm chi?


Để thấy:


Tất cả các Sắc Pháp Tục Đế đều Vô Thường, sinh diệt biến đổi Tùy Duyên


DANH (NAMA)

Trong phần phân tích Tâm, ta cũng sẽ thấy được liên hệ mật thiết giũa tâm và thân, danh và sắc theo đúng luật duyên khởi

Tâm gồm có 4 thành phần, đó là Thức, Tưởng, Thọ, Hành.

Xin nhắc lại một chút về danh từ :
Tâm và Thức là 2 cái khác nhau: Thức (Vinnana) chỉ là một thành phần của Tâm (Citta). Tâm thì gồm có 4 thành phần : Thức, Tưởng, Thọ, Hành. Thức chỉ là một thành phần của Tâm
Tưởng, Thọ, Hành là các trạng thái, hoạt động của tâm cùng sinh khởi với Thức, được gọi là sở hữu tâm (mental properties, Cetaska).
Cetasikas có 4 đặc tánh:

- Cùng sinh với Thức.
- Cùng diệt với Thức
- Cùng một đối tượng
- Cùng một Căn  (sense-base).

Như vậy Thức và tất cả cetasikas cùng sinh cùng diệt. Phải hiểu rõ và ghi nhớ điều này thì mới hiểu đúng Phật Pháp, như sẽ thấy sau trong bài này.

Danh từ:

Sở Hữu Tâm= Sở Hửu của Tâm =  mental properties = mental concomitants  = concomitant mental states =  cetasika).

Tâm (Citta) và Thức ( Vinnana) thường được (hay bị) dùng như 2 tiếng đồng nghĩa. Nhưng thực ra như đã thấy ở trên, Thức chỉ là một thành phần, một hoạt động của Tâm. Cần phải chấp nhận và xử đụng đúng như vậy để tránh bị confused trong việc nghiên cứu phân tích và hiểu cho đúng cho rõ Phật Pháp tức Sự Thật về Hoạt Động của Tâm-Thân, Ngũ Uẩn.

Tâm = Thức + (Tưởng + Thọ + Hành)

Citta = Vinnana + ( Sanna + Vedana + Sankhara)

Để có thể theo dõi và hiếu các phần kế tiếp, để hiểu Phật Pháp, thì hiểu và nhớ tiến trình hoạt động của Tâm là một điều kiện cần thiết, có thể gọi là thiết yếu. Vì thế tôi xin nhắc lại sơ đồ về các Tiến Trình Hoạt Động của Tâm, hay còn gọ là Lộ Trình Tâm. 

Những điều trình bày về Lộ Trình Tâm dưới đây sẽ cho mình có một cái nhìn tổng quát, đại cương về Hoạt Động của Tâm-Thân, Ngũ Uẩn. Từ cái khung đó mình sẽ tiếp tục phân tích sâu hơn để thấy đầy đủ chi tiết về hoạt động của Tâm-Thân, Ngũ Uẩn. Đó chính là mục đích của học Phật.

Sự Thật về Hoạt Động của Tâm Thân chính là Phật Pháp.

Trong phần Duyên Khởi và Thập Nhị Nhân Duyên, Lộ Trình Tâm đã được trình bày một cách đại cương, nay cũng xin nhắc lại, trước khi đi sâu hơn vào sự phân tích.

Có 2 Lộ Trình Tâm :

-Lộ Ngũ Môn với đối tượng là một Sắc Cảnh tục đế

- Lộ Ý Môn với đối tượng là một Pháp Cảnh (cảnh phi vật lý)

Lộ Ngũ Môn: Lộ Trình hoạt động của Tâm với đối tượng là một với đối tượng là một Sắc Cảnh tục đế với Căn là Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân:

Lấy Lộ Ngũ Môn với Căn là Mắt : Lộ Nhãn Môn. Tiến trình hoạt động của Tâm, tức tiến trinh sinh diệt biến đổi của Tâm, trải qua những giai đoạn kế tiếp như sau :

Tâm Hữu Phần -- > Tâm Khán Nhãn Môn -- > Tâm Nhãn Thức --> Tâm Tiếp Nhận -- > Tâm Quan Sát -->  Tâm Xác Định -- > Tâm Tạo Nghiệp -- >Tâm Thập Di-- > Tâm Hữu Phần mới.

Để minh họa, tôi xin kể lại một kinh nghiệm quan sát tâm của bản thân tôi :

Love at First Glance. Yêu từ Cái Nhìn Đầu Tiên.


Một hôm, tôi đang dạo bước trong khuôn viên Bệnh Viện. Cảnh vật đã quá quen thuộc, không có gì mới lạ đáng để tôi chú ý tới. Lúc đó tâm tôi như đang chìm đắm về những kỷ niệm xa xưa mơ hồ trong tiềm thức .(Tâm tôi lúc này được gọi là Tâm Hữu Phần).

Rồi một người con gái lạ xuất hiện, bước đi ngược chiều với tôi. Cặp mắt kính cũ đã lâu không đổi, khiến tôi chỉ nhìn rõ gương mặt của nàng khi nàng tới gần. Hướng mắt tới khuôn mặt của nàng, ánh mắt của tôi tiếp xúc với khuôn mặt kiều diễm của nàng. (Hướng mắt tới, hay hướng tâm qua mắt tới khuôn mặt của nàng là hoạt động của Tâm Khán Nhãn Môn).

 Sự tiếp xúc này tạo một biến đổi trong tâm tôi khiến tôi chú ý tới và nhìn thấy rõ khuôn  mặt kiều diễm của nàng, tâm tôi bỗng choáng ngợp với một niềm vui khó tả.(Đây là sự sinh khởi và hoạt động của Tâm Nhãn Thức, với Cảm Thọ cùng sinh khởi với Nhãn Thức).

Nàng tiếp bước qua khỏi tầm mắt của tôi, tôi không còn nhìn thấy nàng, cô gái vật lý đó, nhưng hình ảnh gương mặt của nàng đã in vào tâm tôi (Đây là hoạt động của Tưởng tạo hình ảnh cô gái trong tâm, tức ký ức về cô gái), khiến tôi vẫn thấy được hình ảnh gương mặt nàng trong tâm, mental image of her face. Ký ức của gương mặt và niềm vui cùng sinh khởi vẫn lắng đọng trong tâm của tôi. Tâm tôi nhận biết và tiếp nhận hình ảnh trong tâm đó là đối tượng. Đó là Tâm Tiếp Thu


Rồi tâm tôi quan sát hình ảnh trong tâm (mental image) đó. Tôi quan sát từng chi tiết của hình ảnh khuôn mặt nàng: ánh mắt, làn môi, cánh mũi nhỏ nhắn...

Quan sát này là hoạt động của Tâm Quan Sát. Đối tượng của Tâm Quan Sát là Ký Ức về đối tượng vật lý. Ký Ức không thuộc về thế giới vật lý, mà thuộc về thế giới phi vật lý. Đối tượng phi vật lý được gọi là Pháp Cảnh. Phap Cảnh như vậy có thể là ngôn từ, khái niệm, ý tưởng, cảm thọ..v..v.


Sau khi quan sát và biết rõ các chi tiết do quan sát thấy, thì tâm tôi xác định rằng quả thật gương mặt nàng thật kiều diễm, đã tạo niềm vui khó tả trong tâm tôi. Đây là hoạt động của Tâm Xác Định


Rồi sau khi đã xác định chắc như vậy, tôi tin chắc rằng sự tiếp xúc với cô gái xinh đẹp đó mang lại niềm vui khó tả trong tâm tôi, nên khi nhớ lại nhớ lại (Niệm) cái niềm vui khi ban đầu nhìn thấy gương mặt kiều diễm của nàng, tôi không tránh khỏi khao khát được gặp lại nàng để hưởng lại niềm vui đó. Mỗi khi nhớ lại như vậy (trong mỗi Tâm Tạo Nghiệp của 7 tâm tạo nghiệp liên tiếp), tôi lại càng khao khát hơn. Như vậy việc nhớ lại hỉ lạc đã được hưởng là duyên cho khao khát sinh khởi. Đây là hoạt động của Tâm Tạo Nghiệp, còn gọi là Tâm Tạo Tác hay Tâm Đổng Tốc, Javana. Sự khao khát trong tâm là Ý Nghiệp. Khi sự khao khát đủ mạnh thì sẽ có hành động để thực hiện Ý Nghiệp, bằng lời nói thì gọi là Khẩu Nghiệp, bằng hành động của Thân thì gọi là Thân Nghiệp.


Nhãn Thức sinh khởi và chỉ tồn tại một satna, như trong trường hợp này: cô gái đi ngược chiều với tôi, tôi chỉ có thể nhìn thoáng qua gương mặt trong một khoảnh khắc, nhưng sau đó, gần như ngay lập tức sau đó, khi nhớ lại khuôn mặt kiều diễm của cô thì khao khát sinh khởi trong tâm tôi. Khoảng thời gian từ khi Nhãn Thức sinh khởi, tới khi có khao khát là khoảng thời gian tâm biến đổi qua các giai đoạn Tâm Tiếp Thu, Tâm Quan Sát, và Tâm Xác Định trước khi Khao khát sinh khởi trong Tâm Tạo Nghiệp kế đó khi nhớ lại hỉ lạc đã sinh khởi trước đó vài satna.


 Sự khao khát dẫu thoáng qua đó vẫn để lại dấu ấn trong tâm khiến tôi ước mong ngày nào đó sẽ gặp lại nàng. Đây là hoạt động của Tâm Thập Di, ước mong ngày nào đó sẽ gặp lại nàng, đó là Hữu Ái, muốn tiếp tục sống, tiếp tục hiện hữu để được hưởng lại niềm vui đã từng được hưởng. Hữu Ái là một hoạt động của Tâm Thập Di.. Sau một loạt biến đổi thì Tâm tôi trở lại tình trạng Tâm Hữu Phần. Nhưng là mốt Tâm hữu Phần mới vì đã tiếp nhận thêm một loạt kinh nghiệm từ khi gặp nàng.


Khoảng một lễ sau, tình cờ tôi gặp lại nàng trong một bữa tiệc sinh nhật của con gái người bạn. Lần này tôi có nhiều thời gian tiếp xúc với nàng. Tiến trình hoạt động của tâm tôi cũng như vậy và được lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần. Cứ mỗi chu kỳ hoạt động của tậm, tôi thấy vẫn nàng luôn luôn đẹp, luôn luôn tạo một cảm thọ thật dễ chịu trong tâm tôi, và tôi lại càng yêu thích nàng hơn và thầm mơ ước được chung số với nàng mãi mãi.

Như vậy Lộ Trình Tâm hay Diễn Tiến Hoạt Động của Tâm đã trải qua các giai đoạn :


Tâm Hữu Phần x3 --> Tâm Khán Nhãn Môn --> Tâm Nhãn thức -->Tâm Tiếp Thu--> Tâm Quan Sát --> Tâm Xác Định --> Tâm Tạo nghiệp (Javana) x7 --> Tâm Thập Di (Retentive Mind) x2. Tới đây là chấm dứt một chu kỳ 17 sat na.


Qua 17 satna này thì Sắc Thân, trong đó có Sắc Căn ( Mắt), cũng đã biến đổi thành một Sắc Thân mới.

Sắc Thân mới này lại cùng với Tâm Hữu Phần mới tiếp tục các chu trình 17 satna mới. Cứ thế liên tục mãi.


Tâm Hữu Phần x3 có nghĩa là có 3 Tâm hữu Phần liên tiếp sinh rồi diệt biến đổi thành một Tâm hữu Phần kế tiếp. Tuy cùng tên Hữu Phần nhưng 3 Tâm Hữu Phần đều khác nhau.

Tâm Tạo Tác x7, Tâm Thập Di x2 cũng vậy. 

Mỗi Tâm chỉ tồn tại 1 satna. Nên tổng cộng một chu trình là 17 satna.


Như vậy mình có thể thấy sự Tục Sinh, hay Tái Sinh của Tâm và Thân mỗi 17 satna.


Phật cũng lại nói : "Mỗi quý vị đều đã sinh ra và chết đi từng satna". Như vậy nghĩa là gì ?

Như trên đã nói : mỗi Tâm chỉ tồn tại 1 satna. Thí dụ : Tâm Khán Nhãn Môn kết hợp với Sắc Thân thành một hợp thể Tâm Khán Nhãn Môn-Thân

Satna kế tiếp thì ta có hợp thể Tâm Nhãn Thức-Thân.

Như vậy hợp thể Tâm-Thân biến đổi mỗi satna, hợp thể Tâm-Thân sinh diệt, sinh ra rồi chết (diệt) mỗi satna.


Điểm mấu chốt phải hiểu và nhớ là: Vào bất kỳ một thời điểm nào cũng chỉ có một tâm và mỗi tâm đó chỉ tồn tại 1 satna rồi bị biến đổi thành một Tâm mới.

Vì thế không có dòng tâm thức nào cả. Một thời điểm chỉ có một tâm. Dùng chữ Dòng Tâm Thức nghe có vẻ hay, và gợi hình, nhưng thực sự không đúng và khiến không hiểu được ý nghĩa của Tái Sinh.


Tái Sinh là :  MỘT Tâm này diệt thì được tiếp nối bởi MỘT Tâm mới.

Tiến trình sinh diệt của Tâm cứ tiếp tục như vậy suốt trong kiếp 100 năm này và tiếp tục qua kiếp khác

Tâm cuối cùng của một kiếp 100 năm này (Tâm Tử) được biến đổi thành Tâm đầu tiên trong kiếp 100 năm mới. Tâm này được gọi là Tâm Tục Sinh hay Tâm Tái Sinh. Tâm này kết hợp với một Sắc Thân mới, là Trứng Thụ Tinh để tiếp tục tiến trình sinh diệt của Tâm-Thân.

Chu trình Tâm 17 satna cuối cùng chấm dứt bằng Tâm Thập Di, trong Tâm Thập Di thì có Hữu ái, khao khao được tiếp tục trở thành một thực thể mới, một hiện hữu mới để tiếp tục hưởng lạc. Hữu Ái này tiếp tục được chuyển vào các Tâm Hữu Phần kế tiếp. Tâm hữu Phần cuối cùng (Tâm Tử), vẫn tích trữ Hữu Ái, Hữu Ái là động lực cho Nghiệp Hữu, tức ý nghiệp đưa tới Tái Sinh : Tâm Hữu Phần cuối cùng do năng lực của Hữu Ái biến đổi thành Tâm Hữu Phần đầu tiên của kiếp mới, gọi là Tâm Tục Sinh


Như vậy : Tâm A biến thành Tâm B, nghĩa là Tâm A không còn (diệt) và Tâm B được sinh ra. 

Đó chính là Tái Sinh.


Không có một cái Tôi, một Linh Hồn bất biến, thường hằng, bất tử nào di chuyển từ Sắc Thân cũ của kiếp trăm năm này qua một sắc thân mới của kiếp trăm năm mới cả.


Tiến trình Tục Sinh như vây không phải Thường Kiến vì không có một Linh Hồn bất biến, thường hằng nào cả

Tục Sinh cũng không phải là Đoạn Kiến vì sau cái chết của săc thân của kiếp trăm năm thì Tâm cuối vẫn tiếp tục biến đổi thành Tâm mới đầu tiên trong kiếp trăm năm mới.


Tôi hi vọng là Quý Bạn có đủ kiên nhẫn đọc và tôi đã trình bày tương đối đủ nhưng không qua nhiều chi tiết để mình hiểu Tái Sinh và phân biệt được Tái Sinh (Rebirth) của Đạo Phật và Tái Nhập ( Reincarnation) của các Tôn Giáo khác.

Tái Nhập (Reincarnation) là có một linh hồn, một cái Ngã, thường hằng, bất biến, bất tử di chuyển từ kiếp này sang kiếp khác và nhập vào một  sắc thân mới.


Lộ Ý Môn: Lộ Trình hoạt động của Tâm với đối tượng là một Pháp Cảnh (cảnh phi vật lý).

Lộ Ý Môn tiến triển qua các giai đoạn sau :

Tâm Hữu Phần -- > Tâm Khán Ý Môn -- > Tâm Tạo Nghiệp.

Để minh họa, tôi xin kể lại một kinh nghiệm khác qua sự quan sát tâm của tôi:

Một tuần trước, bạn tôi rủ tôi đi ăn phở tại tiệm phở House of Pho là nơi tôi chưa từng tới. Tô phở tái nạm gân mới ngon làm sao.

Sáng nay mới thức dậy (Tâm Hữu Phần), thấy đói, chợt nghĩ tới, nhớ lại  tô phở thơm phức với vị thật đậm đà khoái khẩu, đã từng ăn tại tiệm phở House of Pho đó (Tâm Khán Ý Môn) thấy thèm (khao khát), liền thay quần áo và lái xe để tới tiệm phở (Tâm Tạo Nghiệp). Ăn xong tô phở thì hương vị tô phở, niềm vui khi được hưởng lạc thú đến từ tô phở vẫn còn vương vấn trong tâm khiến tôi mong có dịp thưởng thức lại (Tâm Thập Di với Hữu Ái và Nghiệp Hữu).

Sở dĩ tôi đã trình bày khá dài dòng về tiến trình hoạt động của tâm vì phân thích và thấu hiểu tiến trình hoạt động của tâm sẽ giúp mình thấy hoạt động trong tâm nào mang lại khổ đau và hoạt động nào giúp mình tránh được khổ đau và có được an vui, hạnh phúc.

Phần trên cho ta thấy một cách tổng quát tiến trình hoạt động của Tâm-Thân. Dựa trên đó, sẽ phân tich, mở rộng và sâu hơn để có thể bao gồm tất cả các hoạt động của Tâm-Thân.

Sau đây xin trở lại với phần Phân Tích Danh, Analysis of the Mind.

Tâm có 4 hoạt động là Thức,Thọ, Hành, Tưởng. Thức, Thọ và Tưởng đã nói trong phần Luật Duyên Khởi và Thập Nhị Nhân Duyên. Phần sau đây tới sẽ chú trọng nhiều vào Hành Uẩn.

Qua thí dụ trên “ Yêu từ cái nhìn đầu tiên”. Ta thấy tiến trình hoạt động, sinh diệt biến đổi của Tâm theo một nguyên tắc cơ bản là :

Sự tiếp xúc của một tâm A qua Căn với Cảnh sẽ tạo nên những biến đổi trong Tâm A và biến đổi Tâm A thành một tâm mới, Tâm B  với Thức, Tưởng,Thọ, Hành của nó, tâm B.

Thí dụ: Sự tiếp xúc của Tâm Khán Nhãn Môn qua Nhãn Môn tiếp xúc với Nhãn Cảnh thì tạo những biến đổi trong Tâm Khán NHãn Môn và biến đổi Tâm Khán Nhna4 Môn thành Tâm Nhãn Thức với các thành phần Thức ( NHãn Thức), Tưởng, Thọ, Hàn của Tâm Nhãn thức.

Thức (Vinnana):

Thức là sự nhận biết đối tượng. Đối tượng gọi là Cảnh hay Trần. Đối tượng có thể là một thể vật lý, Sắc Cảnh, hay phi vật lý, Pháp Cảnh.

Sắc Cảnh là đối tượng của Ngũ Thức : Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỉ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức.

Pháp Cảnh là đối tượng của Ý Thức.

Để hiểu rõ Thức sinh khởi như thế nào, tôi xin trở lại Lộ Trình Tâm Ngũ Môn.

Nguyên tắc căn bản trong tiến trình sinh diệt biến đổi của Tâm là :

Tiếp xúc của Tâm A với Cảnh qua Căn sẽ tạo biến đổi trong Tâm A và biến đổi Tâm A thành một Tâm B mới với Thức, Tưởng, Thọ, Hành của nó, Tâm B.

Hay nói cách khác

Tiếp xúc của Tâm A với Cảnh sẽ khiến Thức sinh khởi trong Tâm B kế tiếp. 

Lộ Ngũ Môn trải qua các giai đoạn sau:

1.Tâm Hữu Phần (Bhavanga Citta))

Khi không có đối tượng mới thì Tâm ở trạng thái gọi là Tâm Hữu Phần. Đối tượng của Tâm hữu Phần là Kho Ký Ức trong tiềm thức. Tâm hữu phần cũng có đủ Thức, Tưởng, Thọ, Hành. Một trong hoạt động Hành của Tâm hữu Phần là tiếp xúc với cành (ký ức tiềm thức)

2. Tâm Khán Nhãn Môn

Khi có một đối tượng mới xuất hiện (cô gái) thì sự tiếp xúc của Tâm Hữu Phần với Cảnh biến đổi Tâm Hữu Phần thành một Tâm mới. Tâm này hướng về Nhãn Môn, rồi qua Nhãn Môn tiếp xúc với Cô Gái và nhận biết đó là Đối Tượng mới của nó. Tâm này vì thế được gọi là Tâm Khán Nhãn Môn. “Nhận biết bông hoa là đối tượng mới của nó” là Thức của Tâm Khán Nhãn Môn.

2.Tâm Nhãn Thức.

Tiếp xúc của Tâm Khán Nhãn môn với Bông Hoa biến đổi Tâm Khán Nhãn Mộn thành một Tâm mới với Thức mới là Nhãn Thức, nhìn thấy bông hoa, biết đối tượng mới của nó là một bông hoa, là bông hoa đó.

Để ý 2 câu :

-Thức của Tâm Khán Nhãn Môn là nhận biết bông hoa, hay một sắc pháp nào đó, là đối tượng của nó.

- Thức của Tâm Nhãn thức (Visual Mind), tức Nhãn thức là Biết đối tượng của nó là bông hoa.

Nghe qua có vẻ giống nhau, nhưng nghĩ kỹ thì sẽ thấy ý khác nhau.

3. Tâm Tiếp Thu.

Khi Nhãn Thức sinh khởi thì Thọ, Tưởng, Hành cũng cùng sinh khởi. Trong các hoạt động đó thì Tưởng tự động tạo hình ảnh cô gái trong tâm, mental image of the girl, đó là Ký Ức về Cô Gái. Hình ảnh cô gái trong tâm đó trở thành đối tượng cho tâm kế tiếp. Tâm kế tiếp này tiếp nhận và nhận biết hình ảnh cô gái trong tâm đó là đối tượng của nó. Vì thế được gọi là Tâm Tiếp Thu. Hình ảnh cô gái trong tâm là phi vật lý, một pháp cảnh. Do đó Thức của Tâm Tiếp Thu là một Ý Thức (Mental Consciousness, Mental Awareness).

4. Tâm Quan Sát.

Tiếp xúc của Tâm Tiếp Thu với đối tượng, ký ức về cô gái, tạo biến đổi trong Tâm Tiếp Thu, biến đổi tâm tiếp thu thành một tâm mới với chức năng mới là Quan Sát đối tượng pháp cảnh đó. Thức của Tâm Quan Sát là nhận biết các chi tiết của đối tượng do sự quan sát.

5. Tâm Xác Định.

Tiếp xúc của tâm quan sát với đối tượng (ký ức về cô gái) biến đổi tâm quan sát thành một tâm mới với chức năng xác định : xác định rằng tiếp xúc với cô gái đem lại niềm vui. Thức của Tâm Xác Định là nhận biết rằng cô gái là đối tượng tạo hỉ lạc. “Rằng cô gái là đối tượng tạo hỉ lạc” là một ý tưởng, một pháp cảnh, làm đối tượng cho Thức của tâm xác định.

6. Tâm Tạo Nghiệp:

Tiếp xúc của tâm xác định với đối tượng, ký ức về cô gái và niềm vui sinh khởi khi nhìn thấy cô gái, biến đổi tâm xác định thành tâm tạo nghiệp: sau khi xác định thì biết chắc ( Thức) và tin chắc rằng tiếp xúc với cô gái thì có niềm vui, nên khi nhớ lại niềm vui ban đầu đó thì khao khát  sinh khởi, và sau mỗi lần nhớ lại thì khao khát lại càng mạnh (qua 7 tâm tạo nghiệp liên tiếp). Khi khao khát đủ mạnh thì khao khát (Ý Nghiệp) đưa tới hành động (Nghiệp) để thỏa mãn khao khát đó. 

7. Tâm Thập Di.

Sau 7 satna của 7 tâm đổng tốc, dù có có tạo nghiệp hay vẫn chỉ là ý nghiệp thì ký ức của đối tượng, cảm thọ và khao khát vẫn lưu lại trong tâm. Vì thế tâm này được gọi là Tâm Thập Di (Retentive Mind). Có 2 Tâm Thập Di nối tiếp nhau. 

Sau khi tâm thập di cuối cùng chấm dứt thì Tâm trở lại trạng thái Tâm Hữu Phần, nhưng là một Tâm hữu Phần mới, vì đã qua một quá trình biến đổi trong 17 satna vừa qua. Và một chu trình mới lại tiếp diễn khi có một đối tượng mới.

Sau 17 satna thì sắc cảnh (cô gái) cũng đã biến đổi thành một cô gái mới.

Sắc Thân, trong đó có Sắc Căn (Mắt) cũng biến đổi thành một Sắc Thân mới với Sắc Căn mới.

Như vậy sau 17 satna thì có một Sắc Thân mới + môt Tâm Hữu Phần mới để bắt đầu một chu trình mới.

Mắt là một Căn trong Ngụ Căn, Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi,Thân. Tương ứng với mỗi Căn thì có môt lộ trình tâm tương ứng, nhưng cũng vẫn theo trình tự nhất định như vậy. Vì thế nên có tên gọi tổng quát là Ngũ Thức

Xét lộ trình Ngũ Môn ta có thể thấy Ngũ Thức là duyên cho các Ý Thức sinh khởi sau đó : không có Ngũ Thức thì không có Ý Thức.

Trong thí dụ “ Love at First Glance” thì một thời gian sau, một tuần, một tháng... mỗi khi nhớ lại niềm vui ban đầu khi gặp cô gái thì khao khát lại sinh khởi. Như vậy ta thấy phải có lộ ngũ môn trước đó thì mới có lộ ý môn: lộ ngũ môn là duyên cho lộ ý môn sinh khởi.

Thọ (Vedana):

Thọ tự động sinh khởi khi có Thức. Không thể ngăn chặn sự sinh khởi của Thọ. Xin coi lại phần Thọ đã được trình bày đây đủ trong Duyên Khởi và Thập nhị Nhân Duyên.

Tóm tắt lại: Thọ có 2 loại : Sắc Thọ (Physical Felings) và Tâm Thọ (Psychological Feelings)

Sắc Thọ thì có 3 cấp bậc : Lạc (sukkha), Khổ (dukkha), Trung Tính (upekkha)

Tâm Thọ thì có 3 cấp bậc : Hỉ (somanassa), Ưu (domanassa),Trung Tính (upekkha).

Hành

Hành là các hoạt động có chủ ý của một Tâm, phối hợp vơi nhau nhằm thực hiện chức năng, công việc của Tâm đó. Mỗi môt Tâm thì có một số hoạt động có chủ ý riêng cho Tâm đó.

Hành của Tâm Khán Nhãn Môn gồm các hoạt động có chủ ý của Tâm để thực hiện công việc của Tâm Khán Nhãn Môn: hướng tâm về Nhãn Môn va qua đó tiếp xúc với Cảnh, Bông Hoa.

Hành của Tâm Nhãn Thức thì gồm những hoạt động có chủ ý của Tâm để thực hiện công việc Nhìn để Thấy, thi dụ Xúc, tiếp xúc là một Hành của Tâm Nhãn Thức.

Hành của Tâm Quan Sát thì gồm các hoạt động có chủ ý của Tâm để thực hiện việc Quan Sát.

Hành của Tâm Phân Đoán, Xác Định thì gồm các hoạt động có chủ ý của để thực hiện việc phân tích, phán đoán và xác định.

Hành của Tâm Tạo Nghiệp thì gồm các hoạt động có chủ ý của tâm nhằm thực hiện ý định hành động của Tâm (ý nghiệp), có tiềm năng đưa tới hành động có chủ ý của thân (thân nghiệp). Tùy theo các sở Hành trong Tâm Tạo Nghiệp là Thiện hay Bất Thiện mà Tâm có tánh Thiện hay Bất Thiện. Tâm Thiện thì đưa tới Thiện Nghiệp. Tâm Bất Thiện thì đưa tới Bất Thiện Nghiệp.

Nói chung, Hành của các Tâm sẽ được nói rõ hơn sau khi phân tích thật sâu để thấy tất cả các sở hữu thuộc Hành uẩn.

Tưởng (Sanna) là automatic memorization, là một hoạt động không có chủ ý của Tâm, tự động ghi chép, copy trọn vẹn thực tại (đối tượng) vào tâm, giống như . Kết quả hoạt động của Tưởng là Ký Ức, Memory: ký ức của đối tượng ( Thức), ký ức về cảm thọ (Thọ) cùng sinh khởi với thức, ký ức về cảm xúc và hành động (Hành) sinh khởi từ Thức. Tóm lại : Tưởng tự động ghi chép lại tất cả mọi hoạt động của Tâm ( Thức + Thọ + Hành)

Ký ức, memory, sẽ tồn tại mãi trong Tâm (Tâm Hữu Phần, Bhavanga).

Tưởng là một hoạt động tự động, không thể ngăn chặn sự sinh khởi và hoạt động của Tưởng.

Tưởng là một đặc tánh rất quan trọng của Tâm, vì nó liên quan mật thiết với Niệm (Sati), như đã thấy trong lộ trình tâm ngũ môn: Nhớ lại (Niệm) ký ức về cô gái (do Tưởng) thì Khao Khát sinh khởi.

Nhưng Tưởng (Sanna) và NIệm (Sati) lại được giải thích và phiên dịch nhiều cách khác nhau có khi mâu thuẫn nhau tùy tác giả, và có khi không chính xác, không đúng theo sự quan sát hoạt động của Tâm. Vì thế xin được nhắc lại phần nói về Tưởng đã trình bày trong phần Luật Duyên Khởi.

Tưởng: (Định nghĩa danh từ : Tưởng là tiếng Hán Việt có nghĩa là Nhớ). Khi nhìn môt bông hoa, rồi nhắm mắt lại thì vẫn thấy hình ảnh bông hoa đó được lưu trữ trong tâm. HÌnh ảnh trong tâm (mental image) đó phải là kết quả của một hoạt động của tâm. Hoạt động đó là Tưởng. Nói cách khác, khi nhìn thấy một bông hoa thì hình ảnh bông hoa vật lý đó được tự động ghi chép lại vào tâm, trở thành một một hình ảnh trong tâm của bông hoa, a mental image of the physical flower, trở thành ký ức về bông hoa ( memory of the flower). Hoạt động đó là Tưởng (Sanna). Như vậy Tưởng, cùng sinh khởi với Thức, có hoạt động là tự động ghi nhớ toàn bộ, trọn vẹn đối tượng với tất cả các đặc tính của đối tượng. Có thể nói Tưởng sao chép lại thực tại như nó là: những gì mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, và các cảm giác trên thân.

Không thể dùng ngôn từ mà có thể diễn tả toàn bộ thực tại, do đó cũng không thể dùng ngôn từ để diễn tả toàn bộ một ký ức. Hình ảnh bông hoa như thế nào như thế nào, thì nhớ như vây thôi. Ngôn từ hoa hồng không thể diễn tả trọn ven bông hoa trong thực tại. Nếm một thức ăn như thê nào (Thức, Vị thức, Vị một thức ăn) thì biết như vậy, không cần và cũng không nên gọi tên. Như vậy chính là “Biết thực tại như nó thật là” “Knowing thing as it really is”. Cái biết do ngũ thức như vậy thì hoàn có tính chủ quan. Hai người cùng ngửi một mùi nhưng chắc chắn cái mùi mỗi người nhận biết thì không thể giống nhau.

Thí dụ: mùi sầu riêng : có người nói nó thơm, có người nói nó thối. Cả 2 đều nói thật. Cả 2 đểu nói lên Sự Thật của riêng mỗi người. Đó là sự thật chủ quan.

Sanna thường được dịch qua tiếng Anh là Perception. 
Chữ perception không diễn tả đúng ý nghĩa của Sanna.
Perception trong Anh ngữ có nghĩa là view, understanding.
Thí dụ : How you react depends on how you perceive the situation.
Hay Perception có nghĩa là being aware of. Thí dụ: Visual Perception.
Visually imperceptible: không thể nhận biết bằng mắt. The difference is so small that it is imperceptible.
Trong khi hoạt động của sanna là ghi nhớ (tự động), tao ra ký ức (memory) của đối tượng. Do đó chữ Tưởng, hán việt, có nghĩa là Nhớ, tương đối chính xác hơn.

Sanna nếu dịch qua tiếng Anh là Automatic Memorization thi hợp lý hơn.

Sanna cũng thường được dịch qua tiếng hán việt là Tri Giác. Tri Giác có nghĩa là Biết. Biết là hoạt động của Thức (vinnana, awareness, cónciousness). Nếu dịch Sanna la Tri Giác thi Sanna đồng nghia voi Vinnana. Điều này không hợp lý.

Bây giờ mình thử xét xem Tưởng, Sanna, có phải là hoạt động tạo ra memory trong tâm hay không.

Nếu Tưởng, Sanna không phải là hoạt động tạo ký ức, memory, thì hoạt động tạo memory là cái nào :Thức? hay Thọ? hay Hành?

-Thức là hoạt động tạo ra Ký Ức?

Chức năng, hoạt động của Thức là nhận biết đối tượng của Tâm vào một thời điểm. Chứ hoạt động của Thức không phải là tạo ký ức, memory. Vậy hoạt động tạo memory không phải là Thức

-Thọ là hoạt động tạo ra Ký Ức?

Khi có Thức thì Thọ tự động sinh khởi. Thọ không có chức năng tạo memory. 

-Hành là hoạt động tao Ký Ức?

Như ta thấy sự sinh khởi memory trong Tâm là một hiện tượng tự động, không cần tới chủ ý, volition, intention: dù muốn hay không muốn thì khi nhìn thấy một bông hoa thì hình ảnh trong tâm của bông hoa cũng tự động xuất hiện trong tâm. Vây hoạt động tạo memory không phải là Hành.

Như vậy: hoạt động tự động tạo ký ức (automatic memorization) chỉ có thể là Tưởng, Sanna. Hơn nữa Tưởng và Hành là 2 Uẩn khác nhau. Tưởng không thể là Hành, không thể thuộc Hành uẩn được.

Thọ và Tưởng sinh khởi tự động, không tùy thuộc vào chủ ý, volition, intention, nên không thuộc Hành Uẩn

Hoạt động của Tưởng là tạo Memory về Thức + Thọ + Hành

Bất kỳ một Tâm nào cũng gồm có Thức, Thọ, Hành, Tưởng
                                      Tưởng
(Thức + Thọ + Hành) -----------------> Ký Ức về (Thức + Thọ + Hành) 
Thí dụ: 
-Thức : nhìn thấy một cô gái (Nhãn Thức)
-Thọ: niềm vui khi nhìn thấy cô gái đẹp (Thọ hỉ), 

-Hành: phản ứng của tâm, những hoạt động có chủ ý của tâm, có tiềm năng đưa tới hành động có chủ ý: yêu thích, muốn gần gũi làm quen cô gái đẹp (Ý Nghiệp) đưa tới hành động có chủ ý của Thân (Thân Nghiệp). Ý Nghiệp và Thân Nghiệp là Hành của Tâm tạo Nghiệp

Hoạt động của Tưởng là tự động tạo memory về cô gái (Nhãn Thức), tạo memory về niềm vui (cảm thọ) khi nhìn thấy cô gái, tạo memory về phản ứng, hành động của Tâm và Thân khi nhìn thấy cô gái (Hành)

Hoạt động của Tưởng là tạo ký ức về toàn bộ hoạt động của Tâm (Thức +Thọ + Hành)

Ký ức về Thức, Thọ, Hành của một Tâm sẽ là đối tượng của Tâm kế tiếp.Vì thế memory, ký ức, được tích lũy thêm dần qua từng sát na, tạo thành kho ký ức ngày càng thêm nhiều ký ức qua thời gian, trong một kiếp và nhiều kiếp kế tiếp nhau: tuy các ký ức thì tồn tại mãi trong tâm, nhưng kho ký ức thì biến đổi liên tục vì liên tục nhận thêm các ký ức mới: Tưởng thì Vô Thường, Kho Ký Ức thì Vô Thường.

Tới đây ta đã lược qua tất cả 4 thành phần Thức, Tưởng, Thọ, Hành. Sau đây ta sẽ tiếp tục phân tích sâu hơn về Hành Uẩn, phân tích sâu tới mức tối hậu, không thể phân tích sâu hơn nữa, để thấy những yếu tố căn bản nhất của Hành Uẩn 


PHÂN TÍCH SÂU VỀ HÀNH UẨN


Trong phần này Hành Uẩn được phân tích sâu hơn để trình bày tất cả sở hữu thuộc Hành Uẩn ( sankhara cetasikas), tức tất cả các hoạt động của Tâm thuộc Hành Uẩn.

Về danh từ : Sankhara cetasika = sở hữu tâm thuộc Hành uẩn = sở hữu Hành= sở Hành. Từ đây sẽ gọi tắt là sở Hành cho gọn.


Hành Uẩn gồm có 3 nhóm sở Hành:


- Sở Hành Thiện : những sở Hành nào tạo hỉ lạc trong tâm thì đó những là sở Hành Thiện (kusala sankhara cetasika)

-  Sở Hành Bất Thiện : những sở Hành nào tạo khổ, ưu trong tâm thì gọi là những sở Hành Bất Thiện ( akusala sankhara cetasika).

-  Sở Hành Trung Tính : những sở Hành tự nó không tạo khổ, ưu hay hỉ, lạc, thì gọi là sở Hành Trung Tính. Tính của nó thể Thiện hay Bất Thiện tùy theo nó hiện hữu, cùng hoạt động với sở Hành khác Thiện hay Bất Thiện. Vì thế nó còn được gọi là sở Hành Tợ Tha ( Tợ= giống như; Tha = cái khác). Vì tính của nó thay đổi theo cái khác, nên tiếng Anh gọi nó là Variable Concomittant Mental States. Thí dụ : Xúc nào tạo Thọ Khổ thì đó là Xúc bất thiện.


Tổng cộng có 50 sở Hành thuộc Hành Uẩn, chia làm 3 nhóm:


- Sở Hành Trung Tính : gồm có 13 sở Hành.

- Sở Hành Bất Thiện : gồm 14 sở Hành

- Sở Hành Thiện : gồm 25 sở Hành.

Để có cái nhìn tổng quát về Hành Uẩn, tôi sẽ trình bày ở đây bảng tổng kết 50 sở Hành:


Sở Hành Trung Tính (Tợ Tha): có 11 sở Hành, chia làm 2 nhóm:


-5 sở Hành Trung Tính Phổ Quát (Universal): Xúc, Tư, Nhất Điểm, Mạng Quyền, Chú Ý. Những sở Hành này có mặt trong tất cả các Tâm. 

(Về danh từ Universal, Phổ Quát : trong sách thường  dùng chữ BIến Hành thay cho Phổ Quát. BIến Hành là một từ Hán VIệt không thông dụng, it người hiểu, nên tôi dung chữ Phổ Quát. Tuy nhiên cần biết để khi đọc sách khác không bị ngạc nhiên).


-6 sở Hành Trung Tính Chuyên Biệt (Specific) : Tầm, Tứ, Thắng, Cần, Hoan Hỉ, Dục.

Thường chỉ có trong tâm tạo nghiệp. Gọi là Chuyên biệt vì chỉ có trong một số tâm nhất định. Trong sách thường dùng chữ Biệt Cảnh, một tiếng Hán Việt không thông dụng, nhưng ý nghĩa vẫn là Chuyên Biệt cho một số trường hợp.


Sở Hành Bất Thiện của Tâm Tạo Nghiệp: gồm có 14 sở Hành, chia làm 5 Phần:


-Si, Vô Tàm, Vô Quý, Phóng Dật.

-Tham phần: Tham, Tà Kiền, Ngã Mạn,

-Sân phần: Sân, Tật, Lận, Hối.

-Hô phần: Hôn Trầm, Thụy Miên

-Nghi phần: Nghi 


Sở Hành Thiện của Tâm Tạo Nghiệp: chia làm 4 nhóm:


- 19 sở Hành Thiện Phổ Quát: luôn có mặt trong tất cả các Tâm tạo Nghiệp Thiện :

   - Tín, NIệm, Tàm, Quý, Vô Tham, Vô Sân, Bình Đẳng.

   - Tịnh (Tâm và Thân) ; Khinh (Tâm và Thân, Nhu (Tâm và Thân.

   - Thích (Tâm và Thân), Thuần (Tâm và Thân), Chánh (Tâm và Thân).


- 3 sở Hành Tiết Giới

   - Chánh Ngữ, Chánh Ngiệp, Chánh Mạng,

- 2 sở Hành Vô Lượng : Bi, Tùy Hỉ

- 1 sở Hành Trí Tuệ.


Những danh từ này thật xa lạ, không gặp trong ngôn ngữ hàng ngày của người Việt, vì tất cả đều là những từ Hán VIệt. Tuy nhiên ý nghĩa của chúng khi dịch ra tiếng Việt thông thường thì cũng rất đơn giản dễ hiểu. Thí dụ : Tàm = xấu hổ. Điều bất tiện này cũng tương đối nhỏ so với việc học một ngôn ngữ mới. Thí dụ học Anh hay Pháp ngữ thì ta phải học nghĩa hàng ngàn từ. Và những từ ngữ hán việt hay Pali khi thảo luận tới thì sẽ giải thích rõ ràng. Bảng Tổng Kết trên chỉ là để có một cái nhìn tổng quát về Hành Uẩn thôi.


Để có cái nhìn tổng quát tôi xin đính kèm Biểu Đồ Sở Hữu Tâm:



Thiện và Bất Thiện trong Đạo Phật:


Thiện đây là gì? Khi nói tới chữ Thiện thì thường người ta chỉ hiểu nghĩa chữ Thiện theo ý nghĩa, theo quy định của giáo điều Đạo Đức (moral codes). Trong Đạo Phật thì Thiện có nghĩa là “không tạo Khổ, Khổ Thân hay Khổ Tâm” cho mình và cho người và do đó tạo thêm Niềm Vui và An Bình cho mình và cho người, vì khi không có Khổ thì cảm thọ chỉ có thể là Hỉ hay Trung Tính (An Bình)

Thiện tiếng pali là Kusala, được dịch qua tiếng Anh với nhiều từ ngữ khác nhau như Good (vs Evil), Wholesome. Chữ Wholesome có ý nghĩa rất hay và phù hợp với từ Kusala. Wholesome có nghĩa là healthy, promoting health, physical health and/or mental health.

Bất Thiện, Akusala, Unwholesome, thì có nghĩa ngược lại.

(Văn phạm: mẫu tự A đứng trước một từ pali nào đó thì A có nghĩa phủ định, trái ngược : Kusala là Thiện, thì Akusala là Bất Thiện)

Sau đây sẽ đi vào phân tích sâu và chi tiết về 50 sở Hành của Hành Uẩn

Sở Hành Trung Tính (Tợ Tha); gồm có 11 sở Hành:

     -5 sở hành tợ tha phổ quát : Xúc, Tư, Nhất Điểm, Mạng Quyền, Chú Ý.

-6 sở hành tợ tha chuyên biệt : Tầm, Tứ, Thắng, Cần, Hoan Hỉ, Dục

5 Sở Hành Tợ Tha Phổ Quát:

Xúc: Xúc là hoạt động tạo tiếp xúc của Tâm với Cảnh qua Căn. Như đã trình bày ở trên thì sự tiếp xúc của Tâm với Cảnh qua Căn sẽ biến đổi tâm đó thành một tâm mới vói Thức mới và Tưởng,Thọ, Hành tương ứng cùng sinh khởi

Tâm Tánh Trung Tính gổm có : Xúc, Tư, Định, Chú Ý, Sinh Lực.

Xúc (Phalla, Contact): Xúc là hoạt động tạo sự tiếp xúc của một Tâm với Cảnh qua Căn (Môn). 

Sự tiếp xúc của một Tâm với Cảnh tạo những biến đổi trong tâm đó  và biến đổi Tâm đó thành một tâm mới với các thành phần mới của nó: Thức, Tưởng, Thọ, Hành, 

Thí dụ: Xúc của Tâm Khán Nhãn Môn tạo sự tiếp xúc của Tâm Khán Nhãn Môn với Nhãn Cảnh, sự tiếp xúc này tạo biến đổi trong Tâm Khán Nhãn Môn và biến đổi tâm này thành Tâm Nhãn Thức với Thức là Nhãn Thức.

Tầm quan trọng của Xúc: 

- Xúc là duyên cho sự biến đổi Tâm này thành một Tâm khác trong tiến trình hoạt động của Tâm, hay nói khác đi thì Xúc là duyên cho Vô Thường

- Xúc là duyên cho một Thức mới sinh khởi cùng với Thọ.

(Cetana, Intention): Tư là từ hán việt có nghĩa giống chữ Tư trong Tư lệnh. Tiếng Anh dịch là Intention, Chủ Ý. Pali là cetana. Cetana có nghĩa rộng hơn là Chủ Ý. Cetana hoạt động giống như một team leader, một đội trưởng, một tư lệnh, điều động và phối hợp các sở Hành khác để lập chương trình để thực hiện chức năng hoạt động của tâm đó. Có thể nói : Tư = chủ ý + dự tính = intention + planning =  intentional planning. Mỗi tâm đều có Cetana và các sở Hành tương ứng cần cho việc thực hiện chức năng hoạt động của Tâm đó. Khi học qua tất cả các sở hành thì ta có thể kể ra những sở hành của từng tâm.

Nhất Điểm (Ekaggatà): Mỗi một thời điểm một tâm chỉ có một đối tượng. 

Ekaggata : eka = một. Vì thế thường được dịch là Nhất Điểm, One-Pointed. Danh từ Nhất Điểm hay One-Pointedness không được chính xác hay có thể nói là quá hạn hẹp.

Một đối tượng không bắt buộc phải nhất định là một điểm. Đối tượng là tất cả những gì tâm tiếp xúc vào thời điểm đó. Thí dụ: đứng trên bãi biển, đối tượng vào một thời điểm có thể là toàn cảnh trời đất biển trước mắt, hay có thể chỉ là một chiếc tàu trên biển, hay chỉ là là cờ trên tàu. Nếu Thân là đối tượng thì đối tượng có thể là toàn bộ khối vật chất gọi là Thân, hay một phần của cơ thể, thí dụ lồng ngực, thành bụng, hay chỉ là một phần nhỏ xíu là chóp mũi trong môt cách tập Thiền, trong Thiền Hơi Thở ( sẽ thảo luận sau khi bàn về Thực Hành Thiết Lập Chánh NIệm trên 4 nơi (Xứ) : Thân, Thọ, Tâm, Pháp theo Kinh Satipatthana).

Vào mỗi thời điểm một tâm chỉ có một đối tượng cùa tâm đó. Thí dụ: coi xi nê, có vẻ như vừa nhìn vừa nghe. Nhưng chính thực ra, khi nghe (Nhĩ Thức) thì không nhìn (Nhãn Thức). Nhưng nhờ có Tưởng và Niệm nên âm thanh nghe xong vẫn nhớ lại được khi nhìn hình ảnh. Chính cái memory của Âm Thanh được nhớ lại bởi NIệm, xuất hiện lại khi nhìn, khiến có cảm tưởng là vừa nhìn vừa nghe đồng thời

Nhất Điểm thường được dùng như đồng nghĩa với Định ( concentration, samadhi), nhưng đúng ra thì chỉ khi Tâm được duy trì qua thời gian trên một đối tượng duy nhất thì hoạt động đó của tâm được mới gọi là Định (Samadhi). 

Hiểu biết về Định thí có thể có áp dụng quan trọng thực tế trong cuộc sống hàng ngày.

Khi định tâm trên một đối tượng thì tâm không còn nhận biết một đối tượng nào khác.

Thí dụ: Trong chuyện Tam Quốc Chí, có đoạn kể rằng Quan Công đã thản nhiên ngồi đánh cờ trong khi người ta mổ xẻ, chữa trị vết thương ở cánh tay ông. Ông đã đặt hết tâm trí vào bàn cờ nện tâm ông không con nhận biết được một đói tượng nào khác dù là cái đau. Mình có thể áp dụng giống như vậy : khi bi đau thì đừng chú ý định tâm trên cái đau, mà tập trung tâm trí vào một công việc khác thì không cảm thấy đau nhiều nữa.

Khi có chuyện gì buồn bực, thì đừng định tâm trên cái buồn đó nữa mà hãy tập trung hết tâm ý vào một việc khác.

Định vẫn chỉ sở Hành Trung Tính, có thể là Thiện hay Bất Thiện, chứ không phải lúc nào cũng Thiện.

Thí dụ: tôi là một nam y sĩ, khám bệnh cho một nữ bệnh nhân.

Nếu tôi chú ý tới và định tâm trên vẻ đẹp kiều diễm của cô ta thì tôi có thể sinh lòng Tham Ái. Định trong trường hợp này Bất Thiện. Ngược lại, nếu tôi chú ý tới và định tâm trên cái Khổ do bệnh của cô thì Từ Bi sẽ sinh khởi trong Tâm tôi khiến tôi cố gắng chẩn bệnh và điều trị giúp cô thoát cái khổ do bệnh, thì Định trong trường hợp này là Thiện

Mạng Quyền. (Jãvitindriya): Javit = sự sống, indriya = năng lực, quyền lực, năng lực. Mạng Quyền là năng lực duy trì sự sống, sự hoạt động của tâm. Sự sống, sự hoạt động của tâm là sự biến đổi của tâm từ trạng thái này sang một trạng thái khác. Sinh lực là năng lượng cần thiết để tạo sự biến đổi này. Sở Hành Sinh Lực, hay Mạng Quyền, là hoạt động cung cấp năng lượng để duy trì sự sống, tức hoạt động của tâm

Sinh lực là năng lượng cần thiết cho sự sống, tức hoạt động của cả Tâm và Thân.

Năng lượng cho sự sống, hoạt động của Thân thì đến từ thức ăn. Có thể chính năng lượng này cũng là năng lượng cho Tâm. Hay cũng có thể Tâm nhận năng lượng từ một nguồn khác, một dạng năng lượng đặc biệt cho Tâm. Điều này chưa được khẳng định.

Chú Ý (Manasikara): Manasikara trong pali có nghĩa là Hướng Tâm về, Advertence. Hướng tâm về đối tượng tức Chú Ý tới đối tượng. Phải hướng tâm về, chú ý một cái gì đó, một thể vật lý (sắc pháp) hay một ký ức, một khái niệm (danh pháp) thì cái đó mới trở thành đối tượng, Cảnh, của Tâm và từ đó mới có những hoạt động khác của tâm đối với Cảnh đó.

Chú Ý không đồng nghĩa với Định. Định là tập trung mọi hoạt động của tâm trên MỘT đối tượng qua thời gian. Duy trì Chú Ý trên MỘT đối tượng thì có Định.

Chú Ý có thể là một hoạt động Thiện hay Bất Thiện. Chú ý tới, hướng tâm tới hỉ lạc thì có thể sinh khao khát và bám víu. Thí dụ : Bác Sĩ tiếp xúc với một nữ bệnh nhân, nếu chú ý tới vẻ đẹp của bệnh nhân thì có thể sinh khao khát. Đây là Chú Ý thiếu Khôn Ngoan (Phi Như Lý Tác Ý, Ayoniso Manasikara) Ngược lại, nếu chỉ chú ý tới bệnh tình của bệnh nhân thì có thể sinh lòng từ bi. Đây là Chú Ý Khôn Ngoan (Như Lý Tác Ý Yoniso Manasikara). Khôn Ngoan, được hướng dẫn bởi Trí Tuệ.

Bàn về danh từ Tác Ý: Manasikara theo nghĩa Pali là hướng tâm về, chú ý tới. Nhưng đã được một tác giả có uy tín dịch là Tác Ý và được số đông chấp nhận nên tôi vẫn xử dụng, nhưng vẫn hiểu Manaskrara là hướng tâm về, chú ý tới.

Ngoài ra có tác giả lại dùng chữ Tác Ý cho Cetana, Ý Định. Nên phải tùy context, ngữ cảnh, để hiểu cho đúng với ngữ cảnh đó.

Như Lý: có thể hiểu là hợp lý, hợp với lý trí, hợp với lý của trí tuệ, hợp với lý duyên khởi.

6 Sở Hành Tợ Tha Chuyên Biệt:

Tầm (Vitakka): Tầm tiếng hán Việt có nghĩa là Tìm Kiếm, search, find.

Với Ngũ Thức, thì Tầm có nghĩa tìm thấy đối tượng, một sắc pháp tục đế, và đặt tâm trên đối tượng.

Với Ý Thức thì Tầm là hoạt động của Ý Thức tìm thấy đối tượng, đặt ý thức trên đối tượng và bắt đầu suy nghĩ về đối tượng đó. Đó là suy nghĩ ban đầu, initial thought. Trong Bát Chánh Đạo (sẽ trình bày sau), thì Tầm của Tâm đạt Đạo chính là Chánh Tư Duy, 

Tứ (Vicara

Tiếng hán việt có nghĩa là quan sát. Thí dụ: ăn trông nồi, ngồi trông hướng. Đó là có ý tứ.

Với Ngũ Thức thì Tứ là để tâm bám sát đối tượng nhờ vậy biết rõ đối tượng hơn.

Với Ý Thức thì Tứ là duy trì ý thức trên đối tượng để quan sát và suy nghĩ sâu rộng hơn  để hiểu rõ đối tượng hơn. Tiếng Anh thường dịch là Sustained Thought

 Xác Định (Adhimokka), Determination. Trong sách Việt thường dịch là Thắng Giải. Tôi không hiểu nghĩa, xin bạn nào giỏi hán việt giải nghĩa dùm cho.

Xác định là biết chắc chắn để sau đó quyết định hành động. 

Xác Định là một sở Hành Tợ Tha , tự nó không Thiện hay Bất Thiện. Xác Định chỉ là xác định một sự kiện có thật, một sự thật : tiếp xúc với cô gái đẹp đó thì niềm vui sinh khởi trong tâm tôi. Sự Xác Định này có thể dẫn tới điều Thiện hay Bất Thiện trong Hành Động từ tâm tạo nghiệp. Nếu có Vô Minh, Tà NIệm trong Tâm Tạo Nghiệp thì Hỉ Lạc (Thọ) sẽ sinh Tham Ái, Khao Khát và Bám Víu ( Ái Thủ). Nếu trong Tâm Tạo Nghiệp có Trí Tuệ và Chánh NIệm thì Hỉ Lac (Thọ) không đưa tới Ái Thủ.

Cần (Viriya). Còn gọi là Tinh Tấn: nỗ lực, chuyên cần, nghị lực. Trở lại đặc tánh “Nhất Điểm” của Tâm: vào một thời điểm thì Tâm chỉ có một đối tượng. Nếu có nỗ lực để duy trì sự chú ý của tâm (manasikara) trên một đối tượng thì đó là Định. Không có Cần thì không có Định. Cần và Định vẫn chỉ là các sở Hành tợ tha nên có thể Thiện hay Bất Thiện. Thí dụ : nỗ lực để thực hiện việc bất thiện, hại người thì đó là một nỗ lực bất thiện. Ngược lại, nỗ lực để giúp đỡ người khác thì đó là một nỗ lực có tánh thiện

Hoan Hỉ (Piti): hoan hỉ, hăng hái, enthusiasm, with joy, joyfully, hân hoan, nhiệt thành, nồng nhiệt...

(Về danh từ : Trong các sách Việt thường chỉ dùng chữ Hỉ. Như vậy thì sẽ lẫn lộn với thọ Hỉ (somanassa), và tùy Hỉ (sympathetic gladness) trong Từ, Bi, Hỉ, “Xả”).

Nhưng trong các kinh sách tiếng Việt hay Việt Hán, 3 sở hữu này thường bị dùng chung một chữ Hỉ, do đó dễ lẫn lộn và phải tùy theo ngữ cảnh, context mà hiểu cho đúng :

- Somanassa vedana: dịch là Hỉ (thọ Hỉ)
- Piti, là một sở Hành (sankhara); cũng dịch là Hỉ (trong Thất Giác Chi, hay 5 yếu tố của Thiền Định: Tầm, Tứ, Hỉ, Lạc, Định). Hỉ ở đây phải dịch là Hoan Hỉ
- Mudita là sympathetic joy, trong Từ Bi Hỉ Xả, là một sở Hành có nghĩa là Vui Mừng cho Hạnh Phúc, Niềm Vui của người khác cũng bị dịch là Hỉ. Đúng ra phải dich cho đủ là Tùy Hỉ
Hoan Hỉ có thể có tánh Thiện hay Bất Thiện.
Hoan Hỉ trong khi được hưởng lạc thú theo đúng khao khát của mình. Đó là hoan hỉ của Tham Ái, tức có tánh Bất Thiện.
Hoan Hỉ trong khi làm việc thiện, giúp đỡ người khác. Đó là Hoan Hỉ có tánh Thiện

Dục (Chanda) là muốn, ý muốn. Chữ này thường bị hiểu lầm là xấu. Nhưng Dục, ý muốn có thể Thiện hay Bất Thiện. Vấn đề là intention, muốn gì. Muốn hưởng lạc  (kamachanda), muốn ăn cướp nhà băng, đó là Bất Thiện Dục. Muốn giúp đỡ người nghèo khổ : Thiện Dục. Dục tức ý muốn, ý chí là một yếu tố rất quan trọng để thành công, dù theo hướng Thiện hay Bất Thiện.

Sở Hành Bất Thiện của Tâm Tạo Nghiệp

Sở Hữu Tâm, Cetasika, là những Đặc tánh sở hữu của Tâm, mental properties, nên có thể gọi là Tâm Tánh hay Tánh, tùy theo context.

Sở Hành bất thiện của tâm tạo nghiệp (tâm đổng tốc, javana) gồm có 5 nhóm: 

- Si Phần: gồm có Si, Vô Tàm, Vô Quý, Phóng Dật.
Bốn sở Hành Si này là những sở Hành Phổ Biến, luôn luôn có mặt trong tất cả các Tâm Bất Thiện : Si luôn luôn đi cùng với Tham. Không có Si thì không có Tham. Si luôn đi cùng với Sân. Không có Si thì không có Sân. Si thì có thể đúng một mình.
-Tham Phần : gồm có Tham, Tà Kiến, Ngã Mạn.
- Sân Phần :gồm có Sân, Tật, Lận, Hối
- Hôn Phần: gồm có Hôn Trầm, Thụy Miên
- Nghi Phần : một sở Hành : Nghi Hoặc

Bốn sở Hành Si là những sở Hành Phổ Biến, luôn luôn đi cùng với tất cả các Tâm Tánh Bất Thiện : Si luôn luôn đi cùng với Tham. Không có Si thì không có Tham. Si luôn đi cùng với Sân. Không có Si thì không có Sân. Si luôn luôn có mặt cùng với Hôn Trầm, Thụy Miện. Si luôn luôn có mặt cùng với Nghi Hoặc.

 Si thì có thể đứng một mình

1. Si Phần: có 4 tánh: Si, Vô Tàm, Vô Quý, Phóng Dật

Si : tức Vô Minh, 

Vô Minh là gì ?


Vô Minh căn bản nhất là không thấu hiểu Duyên Khởi.


Vì thế :

Không thấy được :

- Vô Thường, Tùy Duyên

- Vô Ngã

Nên không chứng ngộ được Tứ Diệu Đế :

- Khổ khi có Tham Ái và Ngã Mạn

  Dứt Khổ khi Dứt Tham Ái và Ngã Mạn

- Không hiểu được Đạo là Bát Chánh Đạo tiếp nối với Thập Nhị Nhân Duyên.

- Không hiểu được rằng muốn Giải Thoát thì phải tu tập 7 nhóm Phẩm Trợ Đạo.


Để hiểu được những điều này thì phải học, hiểu, và nhớ Vi Diệu Pháp.

Sẽ bàn sâu hơn khi bàn về sở Hành Trí Tuệ


Vô Tàm: Tàm, tiếng hán việt, có nghĩa là Xấu Hổ. Vô Tàm: không biết xấu hổ, vô liêm sỉ. Thú thật tôi chưa bao giờ nghe tới chữ Tàm và không hiểu tại sao lại không dùng chữ Xấu Hổ, hay Liêm Sỉ cũng là một từ hán việt nhưng tương đối thông dụng

Tàm, xấu hổ ở đây không có nghĩa là e thẹn, mắc cỡ thông thường, mà là Biết Xấu Hổ khi làm việc bất thiện, biết rằng việc bật thiện là việc đáng xấu hổ. Vô liêm sỉ, vì vô minh nên không biết rằng việc bất thiện là đáng xấu hổ. Không biết xấu hổ (Vô Tàm) với việc bất thiện nên sẵn sàng làm việc bất thiện.

Xin nhắc lại : Bất Thiện là gây khổ, gây khổ cho mình hay cho người khác. Thiện là không gây khổ cho mình hay cho người.

Vô Quý: Quý, hán việt, có nghĩa là sợ hãi. Vô Quý: không biết sợ hậu quả xấu do việc làm bất thiện, do không biết Luật Nhân Quả, Luật Nghiệp và Nghiệp Quả

Quý không phải là Quý trong Quý Giá, Quý Trọng. Thường hay dùng chữ Úy là Sợ. Có thể phát âm theo giọng miền Nam VN thì Úy cũng phát Âm giống Quý?

Bất An: Restless, distracted, anxiety. Bứt rứt, bồn chồn, không yên, lo lắng, tâm không được an tịnh (sách Việt dùng chữ Phóng Dật, một từ không thông dụng, khó hiểu).  Bất An sinh khởi khi làm những việc bất thiện. 

2. Tham Phần

 Gom có Tham, Tà Kiến, Ngã Mạn. 
Tham (Lobha).
Trong Thập Nhị Nhân Duyên thì Tham (Lobha) = Ái (Tanha) + Thủ (Upadana)
Tham (Lobha) có 2 yếu tố, 2 đặc tính chủ yếu là Khao Khát (Tanha, craving) và Bám Giữ (Upadana, attachment).

Đặc tính chính của Lobha, Tham là Bám Dính, Attachment. Bám dính vào đối tượng tạo  để có hỉ lạc, bám dính, cố gắng duy trì tiếp xúc với đối tượng để có hỉ lạc.

Tham bắt đầu bằng yêu thích hỉ lạc, yêu thích đối tượng nào mang lại hỉ lạc cho mình. Từ thích tới yêu, rồi khao khát (tanha), rồi muốn bám dính vào đối tượng, muốn thủ đắc, chiếm hữu, ghì giữ đối tượng, để duy trì tiếp xúc với đối tượng để có hỉ lạc, muốn hỉ lạc, hạnh phúc không bao giờ mất đi vì đối tượng rời xa rời xa mình.

Khao Khát sinh khởi như thế nào?

Xét lại Lộ Ngũ Môn:

Tâm Nhãn Thức-- > Tâm Tiếp Thu-- > Tâm Quan Sát-- > Tâm Xác Định-- > Tâm Tạo Nghiệp : Niệm trong Tâm Tạo Nghiệp nhớ lại Cảm Thọ đã sinh khởi cùng với Nhãn Thức trước đó 4 sát na thì Khao Khát sinh khởi. Có Khao Khát thì đồng thời có ý muốn tạo nghiệp để được hưởng lại hỉ lạc đã từng được hưởng. Khi đạt được hỉ lạc thì vui sướng và cố gắng bám giữ hỉ lạc, bám víu vào đối tượng tạo hỉ lạc. Nếu không đạt được hỉ lạc thì chưa hài lòng (khổ) và lại khao khát, tiếp tục tạo nghiệp cho tới khi nào đạt được hỉ lạc. Nhưng không phải muốn là được. Có khi không bao giờ đạt được hỉ lạc mình khao khát, Mà dù có đạt được thì hỉ lạc thế gian vốn dĩ vô thường sẽ qua đi. Ái BIệt Ly : Khổ.

Xét lại Lộ Trình Tâm Ngũ Môn thì ta thấy Cảm Thọ Hỉ Lạc thực sự (real feeling) chỉ sinh khởi và tồn tại một satna cùng sinh cùng diệt với Ngũ Thức. Cảm Thọ trong tâm tạo nghiệp chỉ là ký ức của cảm thọ thực sự sinh khởi cùng Ngũ Thức.

Khao Khát có nghĩa là chưa được cái mình khao khát, đó chính là cầu bất đắc, Khổ.

Thủ là cố gắng duy trì hỉ lạc, cố gắng bám víu vào đối tượng đã tạo hỉ lạc, cố gắng duy trì sự tiếp xúc với đối tượng tạo hỉ lạc để duy trì hỉ lạc. Trong thời gian có hỉ lạc thì vui sướng. Vì thế Thọ của Tham là Hỉ. Hỉ là đối tượng của Tham, của Ái Thủ, Craving and Attachment, Khao Khát và Bám Giữ

Ái là từ hán việt chỉ có nghĩa là yêu thích, nên không đủ nghĩa của Tanha. Tanha viêt cho đầy đủ là Kamatanha, Khao Khát Hỉ Lạc. Vậy Ái phải được hiểu là Yêu Thích và Khao Khát Hỉ Lạc.

Tà Kiến (Michaditthi). Micha = Tà, không đúng sự thật, không phù hợp với lý Duyên Khởi. Ditthi chỉ có nghĩa là View. Nhưng, theo quy ước thì Ditthi đứng một mình thì có nghĩa là Michaditthi, Tà KIến.

Tà Kiến là cái nhìn sai lạc về Thực Tại. Thực Tại là một cái gì thực sự hiện hữu. Thực Tại, pháp, có thể là một sắc pháp (thể vật lý) hay một danh pháp (một ý tưởng, một khái niệm, một niềm tin).

Tà Kiến về Thường Hằng: Thực Tại thì Vô Thường mà Tà Kiến cho rằng là Thường Hằng.Thức sinh khởi nương tụa vào Sắc Cảnh và Sắc Căn nên Thức,Thọ, Hành đều Vô Thường mà Tà Kiến cứ cho rằng Ngũ Uẩn thì Thường Hằng vì thế mới sinh Ái Thủ.

Hỉ Lạc thì vô thường, không một cảm thọ nào tồn tại trong cùng một trạng thái hơn 1 satna. Vậy mà cứ "thấy”, thấy lầm, hiểu lầm là “hạnh phúc như thế này này có thể kéo dài hơn 1 satna, 1 giờ, 1 ngày, 1 tháng, 1 năm”. Bông Hoa thì vô thường, biến đổi theo thời gian qua từng khoảnh khắc (khana), vậy mà không thấy được sự biến đổi, Vô Thường đó. Đúng là ảo giác (illusion). Đây là Tham đi cùng với Tà Kiến

Tà Kiến về Danh pháp (một khái niệm, một ý tưởng sai lầm)

Thí dụ: 

- Tà Kiến cho rằng cầu nguyện Thượng Đế thì sẽ được điều mình mong muốn
- Chì cần Thiền Định thì sẽ đạt Giải Thoát mọi Khổ Đau.
- Yêu nước là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa, phải đập tan, tiêu diệt các giai cấp bóc lột, địa chủ, tư sản, tiểu tư sản..
- Nói chung mê tín là thể hiện của Tà Kiến.

Đây cũng là Tham đi cùng với Tà Kiến: bám víu vào, tìm vui thú trong một tà kiến, một quan điểm, một định kiến không đúng, không đúng với Sự Thật, không hợp lý, không hợp với lý Duyên Khởi.

Ngã Mạn.

Mạn là so sánh. Ngã là cái “Tôi”

Để có thể hiểu được Ngã Mạn thì phải hiểu về Ngã và Vô Ngã.

Để minh họa tôi xin trình bày một kinh nghiệm : “Vô Thường trên từng bước chân” và mẩu đối thoại ngắn với một bạn trẻ.

Quý Bạn có bao giờ để ý quan sát cảm giác trên lòng bàn chân khi bạn bước đi trên nền đất không?

Nếu bạn để ý quan sát bạn sẽ thấy giống như tôi thấy:

Khi bước đi thì bàn chân đi tới trước thì gót chân sẽ chạm mặt đất trước, toàn thể trọng lượng thân bạn sẽ đặt trên gót chân, bạn sẽ cảm nhận được cảm giác do áp lực trên gót chân. Cùng với cảm giác đó bạn có cảm thọ hơi khó chịu. Rồi thân bạn từ từ nghiêng về phía trước, áp lực của trọng lượng chuyển dần về phía ngón chân. Cảm giác (thân thức) trên lòng bàn chân biến đổi liên tục qua từng khoảnh khắc. Cảm giác (áp lực) thì vô thường biến đổi qua từng khoảnh khắc, Cảm Thọ cùng sinh khởi cũng vô thường biến đổi qua từng khoảnh khắc theo cảm giác. Cảm xúc (hành) cũng biến đổi theo cảm thọ. Khi gót chân nhấc lên khỏi mặt đất không còn cảm giác chịu áp lực nữa, thì cảm thấy dễ chịu (lạc thọ). Phần nào của lòng bàn chân chịu áp lực thì cảm thấy không được dễ chịu (khổ).


Cám ơn bạn nhiều đã đọc và suy nghĩ về bài viết ngắn của anh.

Đúng vậy. Bạn thử quan sát từng bước chân khi bạn dạo bước trên bãi cát hay bất kỳ nơi nào đi.

Bạn sẽ thấy Phật Pháp trong từng bước chân.


Sắc Thân của bạn Thường Hằng hay Vô Thường?

Nếu Sắc Thân của bạn là Thường Hằng, thí dụ như một tượng đá, thì bạn có bước đi được không?

Dĩ nhiên là không. Đúng không ?

Vậy: Sắc Thân thì Vô Thường.


Người ta thường nghĩ có một cái Tôi, một Linh Hồn tự hiện hữu và bất biến thưởng hằng.

Thế thì bạn có thấy một cái Tôi nào như vậy trong lòng bàn chân của bạn không? Có một cái Tôi nào như vậy trong Sắc Thân của Kim Oanh không?

Dĩ nhiên là không. Phải vậy không?

Thế thì có một cái Tôi nào khác với cái Sắc Thân này, đứng ra làm chủ để sai khiến, ra lệnh cho Sắc Thân này chuyển động không?

Không có. Phải vậy không?

Như vậy thì: Không có một cái Tôi nào cả. Không có một cái Tôi nào trong Sắc Thân, không có một cái Tôi nào bên ngoài Sắc Thân cả. Tìm khắp vũ trụ đều không thấy một cái Tôi nào cả.


Cảm giác trên Thân chính là Thân THỨC.


Cảm giác trên bàn chân, tức cảm giác trên Thân thường hằng bất biến không?

Kim Oanh quan sát thì dĩ nhiên sẽ thấy rằng cảm giác trên lòng bàn chân thì biến đổi liên tục, tùy vào tư thế của cơ thể, tùy theo sự biến đổi của áp lực do trọng lượng trong khi bước đi.

Vậy là : Cảm giác trên lòng bàn chân, tức Thân THỨC thì Vô Thường sinh diệt biến đổi tùy duyên. Phải vậy không?


Tương tự như với SẮC Thân, Bạn có thấy cái Tôi nào trong cảm giác trên lòng bàn chân không ? 

Dĩ nhiên là không thấy. Phải vậy không ?

Thế thì Kim Oanh có thấy một cái Tôi nào bên ngoài đứng ra cảm nhận cái cảm giác đó không ?

Dĩ nhiên là không rồi. Phải vậy không ?

Như vậy : không có một cái Tôi tự hiện hữu và bất biến nào trong vũ trụ này cả. 


Bước đi, walking, là một HÀNH động.


Bạn có thấy một cái Tôi nào trong HÀNH động đó không? 

Dĩ nhiên là không. Phải vậy không ?

Bạn có thấy một cái Tôi nào bên ngoài ra lệnh cho Bạn bước đi không ? 

Không có cái Tôi nào như vậy cả. Không thấy con ma nào cả ! 

Như vậy : Không có cái Tôi nào trong hành động, không cái Tôi nào bên ngoai hành động. Khắp vũ trụ không có con ma nào như vậy cả. Không có cái Tôi nào cả trong khắp vũ trụ.


Ký Ức là kết quả của Tưởng.


Ký Ức về bước chân đi trên bãi cát, cảm giác trên bước chân trong khi đi, cảm thọ cùng sinh khởi với cảm giác.

Kim Oanh có thấy cái Tôi nào trong hoạt động của Tưởng không? Có một cái Tôi nào bên ngoài tạo ra ký ức không?

Dĩ nhiên là không. Phải vậy không?


Tóm lại: 


1.Tất cả 5 uẩn, Sắc, Thức, Tưởng, Thọ, Hành đều Vô Thường sinh diệt biến đổi tùy duyên.

2. Không có một con ma nào có tên là cái Tôi trong và ngoài ngũ uẩn : Vô Ngã. 

Không có một cái Tôi nào đúng là làm sở hữu chủ của Ngũ Uẩn này. Ngũ Uẩn này không phải là của Tôi.

3. Vì thế:


Khao khát, bám víu vào Sắc, Sắc bên ngoài và Sắc Thân, bám víu vào Thức (Cảm giác), bám víu vào Thọ, bám víu vào Hành động, bám víu vào Tưởng để có Hỉ Lạc thì SẼ Khổ Tâm, Ưu phiền, domanassa.

Bám víu, nương tựa vào Ngũ Uẩn thì SẼ Khổ.

Thế nên Phật mới nói:

" Tóm lại, Ngũ Uẩn Thủ là Khổ"


Bám víu vào cái Tôi ảo tưởng, Chấp Ngã, thì là điên, tâm thần phân liệt, schizophrenia, thì SẼ Khổ.

Ngã Chấp, Ngã Mạn thì SẼ Khổ.


Bạn thấy đó: Phật Pháp trong từng bước chân.


Qua câu chuyện trên, bằng sự quan sát “như thật” các hoạt động của Tâm Thân thì ta thấy rõ là không có một cái Tôi bất biến nào cả, không có một cái gì trong thế giới danh và sắc là của Tôi cả. Thế nhưng vì Vô Minh nên có Ảo Tưởng rằng có một cái Tôi đó. Vì thế nên mới ôm giữ, cố gắng bảo vệ cái Tôi, cái của Tôi. Ôm giữ bám víu vào Ngũ Uẩn của Tôi để hưởng lạc.


Trở lại với Ngã Mạn.


Mạn là so sánh. Ngã Mạn là so sánh cái Tôi của Tôi với cái Tôi của người khác. 

Tham Ái đi với Ngã Mạn là so sánh cái Tôi của Tôi với cái Tôi của người khác để được vui thú khi thấy cái Tôi của Tôi tốt đẹp hơn cái Tôi của người khác. 

Cái Tôi luôn luôn tìm những điểm nào đó trong ngũ uẩn của Tôi mà Tôi cho rằng hơn người khác để đem ra phô trương, so sánh với người khác với mục đích là có được vui thú khi Tôi hơn người khác về điểm đó. Tôi luôn muốn khoa trương, làm đủ mọi việc để được người khác chú ý tới Tôi, yêu Tôi, kính phục, ngưỡng mộ Tôi, đồng ý với Tôi rằng Tôi đúng, chịu khuất phục Tôi, tuân theo ý của Tôi. Cái “Tôi” không khao khát cái gì khác hơn là lời khen ngợi, dưới nhiều hình thức khác nhau. Cái "Tôi” luôn muốn được ve vuốt, mơn trớn. 

Cái Tôi cho rằng ngũ uẩn của Tôi là rất có giá trị, rất đáng được yêu, rất đáng yêu, rất đáng khen, rất đáng tự hào. Vì thế Tôi rất yêu ngũ uẩn của Tôi. Đó là cái gọi là Ngã Ái, Narcissism.

Tôi muốn mọi người phải công nhận giá trị của Tôi, giá trị của ngũ uẩn của Tôi. Tất cả những gì của Tôi đều có giá trị, đáng khen ngợi, đáng yêu, không ai có thể xâm phạm, không ai có quyền chê bai. Cái Tôi rất tự hào về những cái gì của Tôi. Tôi chỉ muốn được khen ngợi, nên Tôi chỉ muốn phô trương những ưu điểm hơn người và che dấu những nhược điểm yếu kém hơn người khác.


Vì muốn được khen, được ngưỡng phục,cái Tôi có thể làm bất cứ điều gì để được khen, những việc đó có thể là việc “thiện” hay bất thiện, miễn là để được khen, được tự hào. Việc làm đó chỉ là phương tiện để được khen. Làm việc “thiện” không với chủ ý muốn giúp người khác tránh khổ và có an vui, mà chỉ với mục đích là được khen.


Thực ra thì trong vũ trụ danh và sắc này, có bất kỳ cái gì thực sự là của Tôi không?

Tài sản này thực sự có phải là của Tôi không?

Tài sản này từ đâu mà có?

Bằng kiến thức của Tôi, Tôi đã làm việc để kiếm tiền.

Vậy kiến thức gọi là của Tôi đó có thực sự là của Tôi không?


Câu trả lời là KHÔNG?


Kiến Thức gọi là “của Tôi” này đây thực ra là không phải là của Tôi, dù theo nghĩa tục đế. Kiến thức này là của những người khác, của Phật, của Sư, của Thầy Cô, của những khoa học gia, của những nhà nghiên cứu trong mọi lãnh vực. Hay, ngay cả những cái biết thông thường trong cuộc sống hàng ngày như biết lái xe, biết nghe nhạc, biết mua sắm dàn stereo tốt giá cả phải chăng..v.v.., tất cả đều đến từ bên ngoài. Ngay cả kiến thức về thiên nhiên, thì thiên nhiên chính là cái cho tôi kiến thức về thiên nhiên.

Không có cái gì là của Tôi cả. Không có cái gì là của Tôi để Tôi tự hào cả.


Con của Tôi là một bác sĩ rất giỏi và nổi tiếng Tôi rất tự hào về con của Tôi.

Nhưng thực ra cái ngũ uẩn đó mà Tôi gọi là con của Tôi, có thực là của Tôi không?

Nếu cái ngũ uẩn đó là của Tôi thì ngũ uẩn đó phải theo đúng ý muốn của Tôi. Nó phải đẹp như ý muốn của Tôi, nó phải thông minh như ý muốn của Tôi, nó phải có sở thích tinh tế như ý muốn của Tôi, nó phải thích nhạc cổ điển Tây Phương, chứ không thích nhạc “sến”. Nhưng thực tế thì sao ? Không phải như vậy. Cái sắc đẹp của nó, cái ngũ uẩn đó, không phải do Tôi tạo ra, mà là do sự kết hợp tạm thời của Tứ Đại và các Sắc Pháp Chân Đế khác. Toàn bộ các kiến thức của nó có phải do Tôi tạo ra không, có phải tôi cho nó không? Hoàn toàn là Không?


Với những ngũ uẩn khác mà Tôi gọi là Vợ của Tôi, anh, chị, em, bạn.v..v.. của Tôi thì cũng vậy: thực ra thì những ngũ uẩn đó không phải là của Tôi.


Không có gì trong vũ trụ Danh Sắc này là của Tôi cả!

Không phải sự so sánh nào cũng là Ngã Mạn. Tùy ý định, intention, mà sự so sánh có thể là một việc thiện: so sánh để giúp đỡ người khác. 


Thí dụ:


-Tôi so sánh và tôi biết tôi giỏi toán hơn anh bạn cùng lớp, với mục đích giúp đỡ bạn tôi trong việc hoc Toán.

-Tôi so sánh và tôi biết tôi giàu hơn bạn tôi, với mục đích giúp đỡ bạn tôi. Tôi không để bạn tôi phải trả tiền khi cùng đi ăn với tôi.



Tà Kiến và Ngã Mạn không hề đi chung với nhau vì chúng có 2 đối tượng, 2 mục đích hoàn toàn khác nhau.

Tham + Tà Kiến: đối tượng dù sao cũng là một cái gì thực sự hiện hữu, dù không thường hằng. Đối tượng này mang lại khoái cảm thể chất và niềm vui được hưởng lạc đó.

Tham + Ngã Mạn : mục đích của nó không phải là hỉ lạc đến từ ngũ quan, mà chỉ là khoái cảm cho một cái Ngã ảo tưởng, a pathetic delusory ego.

Nó không quan tâm tới hỉ lạc ngũ quan. Chẳng những vậy, nó sẵn sàng chịu khổ thân chỉ để được khen ngợi.

Thí dụ: một người với tánh Ngã Mạn, có thể bỏ tiền bạc, thời gian, và ngay cả chịu đựng khổ thân, ngay cả nguy hiểm tới tánh mạng để nhất định leo ngọn núi cao, hiểm trở nhất thế giới Himalaya chỉ để được khen ngợi và ghi tên vào Guiness. Họ không phải là nhà khoa học thám hiểm để phụng sự khoa học có ích lợi.

Ngẫm nghĩ thì thấy thật không có gì ngu hơn cái "Ngã”.

Tuy nhiên Cái "Tôi” ngã mạn rất tinh ranh, đôi khi rất vi tế, subltle, nếu không thật tỉnh táo và thành thật với chính bản thân thì không thể thấy được.

Ngã và Vô Ngã là để mục rất lớn. Xin hẹn sẽ thảo luận nhiều hơn trong đề mục Tứ Diệu Đế.

3. Sân Phần

Có 4 tâm tánh: Sân, Tật, Lận, Hối

-Sân là ghét, là không muốn gần, muốn xua đuổi, không muốn giữ gìn mà còn muốn tiêu diệt đối tượng gây ưu phiền, đau khổ cho mình.

Sân là HẬU quả của Tham Ái: vì chỉ muốn hưởng lạc, muốn gần gũi với đối tượng tạo hỉ lạc cho mình, nên buồn phiền, bực bội, ghét những gì mang lại khổ thân và ưu phiền cho tâm.

-Tật, hay Ngã Tật là đố kỵ, ganh ghét người hơn mình. Đó là hậu quả của Ngã Mạn. Khổ Tâm, buồn bực luôn luôn có mặt cùng với  Ngã Tật, ganh tị, ghen tị, ghen tuông.

- Lận, hay Biển Lận: là keo kiệt, rất đau khổ khi phải chia sẻ, cho đi cái gì mình có, dù là tiền bạc, kiến thức, thời gian. Rất ghét phải chia sẻ. Đau khổ khi phải chia sẻ.

Hối Hận: mới nghe qua thì thấy có vẻ không hợp lý. Thường thì ai cũng nghĩ biết hối hận là điều tốt. Nhưng hối hận luôn đi với buồn bã, đau khổ vì lầm lỗi của mình. Rồi tự trách móc, có khi tự xỉ vả, đay nghiến chính bản thân mình. Đó là tự gây khổ cho mình, tàn ác với mình. Vì thế Hối Hận mới được liệt kê vào nhóm tâm tánh Sân.

Thay vì Hối Hận, điều chánh đáng nên làm là can đảm, thành thật, sáng suốt, thấy được lỗi lầm và nhất định, cố gắng sửa chữa hậu quả lỗi lầm, xin lỗi người chịu hậu quả do mình tạo ra, và cố gắng không tái phạm.

Tóm lại sau khi lược qua tất cả các tâm tánh trong Sân phần thì: Thọ đi với Sân luôn luôn là Buồn, Ưu Phiền, Khổ Tâm

Nói một cách khác: Khi có cảm thọ Buồn thì có nghĩa là đang có Sân và Si
Duyên Khởi về Bất An (Restless)
Sau khi đã lược qua Tham và Sân, Ngã Mạn và Ngã Tật, ta hãy tìm hiểu mối duyên khởi về Bất An: 
Tham và Sân, Ngã Mạn và Ngã Tật chính là những nhân duyên cho Bất An.

- Tham với Tà Kiến: khi khao khát mong cầu được hưởng hỉ lạc ngũ quan thì hầu như chắn có lo âu, lo lắng vì không biết chắc có được như mong cầu. Khi không được như ý thì buồn phiền, bực bội và lại khao khát mong cầu, do đó lại lo lắng, bất an.

- Tham với Ngã Mạn: khi muốn thắng, muốn được khen, muốn được yêu, muốn được kính… thì hầu như chắc chằn sẽ có lo lắng, không biết có thắng được hay không, có được khen, được yêu, được kính hay không. Khi bị thua thì buồn phiền, ganh ghét và lại bứt rứt với ý muốn cần phải hơn người.

4. Hôn Phần: gồm Hôn Trầm, Thụy Miên

Cả 2 đều chỉ sự yếu ớt, suy nhược, thiếu sinh lực của tâm, tinh thần yếu đuối, bạc nhược, uể oải, lười biếng, không còn đủ sức, không còn đủ sinh lực để có thể sáng suốt để nhận thức, suy nghĩ, hành động đúng mức. Những lúc như vậy thì trong tâm không thể có sự vui vẻ được, túc là Khổ.

5. Nghi Phần: Nghi Hoặc

Nghi ở đây không có nghĩa là không tin. Mà là nghi hoặc, không biết đúng hay sai, bất quyết, không dám quyết định, bối rối. Khi có nghi hoặc như vậy thì luôn cảm thấy bất an, Khổ.

Tóm lại sau khi lược qua tất cả các tâm tánh trong Sân phần thì: Thọ đi với Sân luôn luôn là Buồn, Ưu Phiền, Khổ Tâm.

An Vui


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét