Thứ Hai, 29 tháng 9, 2025

Thu Hoài Kỳ 4 秋懷其四 - Hàn Dũ (Trung Đường)

Hàn Dũ 韓愈 (768-824) tự là Thoái Chi 退之, sinh quán ở Nam Dương nay thuộc tỉnh Hồ Bắc. Tổ phụ là người huyện Xương Lê nên ông thường tự xưng là Hàn Xương. Ông sinh năm 768, mất năm 824 và do đó được xếp vào những tác giả của Trung Ðường. Mồ côi cha mẹ từ năm ba tuổi, thuở nhỏ ông có một cuộc sống rất cực khổ, sống chung với anh và khi anh chết thì ông được người chị dâu dưỡng dục cho đến khi thành tài. Tình cảm sâu đậm giữa ông và gia đình người anh sau này đã được ông kể lại trong bài Tế thập nhị lang văn bất hủ. Ông rất thông minh, mới hai mươi bốn tuổi đã đỗ tiến sĩ. Hoạn lộ bắt đầu bằng chức Thôi quan cho các Tiết độ sứ, rồi được gọi về triều giữ chức Tứ môn bác sĩ, sau thăng lên Ngự sử. Không rõ vì lẽ gì, ông bị Dục Tông biếm đi làm huyện lệnh ở một huyện nhỏ nhưng chỉ ít lâu sau lại được triệu về kinh giữ chức Quốc tử giám bác sĩ. Khi tể tướng Bùi Ðộ và Lý Sóc (Lý Tố) vâng lệnh cầm quân dẹp loạn Hoài Tây, ông cũng đi theo giữ chức Hành quân tư mã. Dẹp loạn thành công, Ðường Hiến Tông sai ông viết bài văn Bình Hoài Tây bi. Bài văn làm tăng thêm sự rạn nứt giữa Bùi Ðộ và Lý Sóc vì Hàn cho rằng tất cả công lao đều thuộc về Bùi Ðộ. Ðiều này có lẽ cũng dễ hiểu vì giữa hai phái bảo thủ và cách tân đang dằng co giữa triều đình lúc bấy giờ, Hàn là người của phe bảo thủ. Ông được thăng Hình bộ thị lang sau đó.

Ðường Hiến Tông vào những năm cuối đời rất tin đạo Phật. Nghe nói trong Pháp Môn Tự có thờ một đốt ngón tay của đức Phật trong một toà tháp, cứ 30 năm mới mở ra một lần cho mọi người vào chiêm bái, Hiến Tông lập tức cho người rước đốt xương đó vào cung thờ phụng, sau lại rước ra chùa cho mọi người xem. Những cuộc đưa rước, chiêm bái của ông hết sức linh đình, xa xỉ. Vua tin thì quan viên cũng hùa theo, một phong trào sùng bái xương Phật lan tràn khắp nơi, người giàu thì đua nhau quyên tiền hương hỏa, người nghèo thì chầu chực xin những nén hương trong chùa tự đốt phỏng thân thể để chứng tỏ lòng thành kính.

Hàn Dũ phóng bút viết bài Gián nghinh Phật cốt biểu (còn gọi là Luận Phật cốt biểu) dâng lên can gián Hiến Tông, lời lẽ rất đanh thép, cứng rắn, có đoạn khuyên vua nên ném xương Phật vào nước lửa, Phật có giáng tội ông xin chịu hết. Hiến Tông vô cùng thịnh nộ, đã định đem ông ra chém, may nhờ có nhiều người can gián ông mới thoát chết, chỉ bị đày đến Triều Châu, thuộc Quảng Tây ngày nay. Ðây cũng chính là nơi ông để lại bài Tả thiên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương và bài Tế ngạc ngư văn nổi tiếng. Tế ngạc ngư văn đã khiến ông được Hiến Tông phục chức cho trở lại kinh đô giữ chức Quốc tử giám tế tửu, sau thăng Binh bộ thị lang.

Với bài Luận Phật cốt biểu, ta phải nghĩ rằng những chuyện mê tín dị đoan chắc chẳng thể nào vào tai Hàn. Nhưng ông lại chết vì uống thuốc trường sinh. Có lẽ đây là do ảnh hưởng của người cháu là Hàn Tương, một tín đồ của Ðạo gia, mà truyền thuyết cho rằng là một trong Bát Tiên.

Về mặt văn học, Hàn để lại ít thơ nhưng là một văn gia kiệt xuất của Ðường triều. Là người đứng đầu trong Ðường Tống bát đại văn gia, ông chủ trương từ bỏ lối văn biền ngẫu lời đẹp mà ý rỗng. Ông viết rất nhiều bài văn gây ảnh hưởng lớn trong văn đàn thời đó. Bài Tống Lý Nguyện quy Bàn Cốc tự và bài Tế thập nhị lang văn của ông được dùng để làm ví dụ về văn phong giản dị, ý tứ chân thành, trong nhiều tuyển tập cổ văn Trung Việt.

Đầu đề là cảm hoài mùa thu nhưng chỉ nhân cảnh thu mà than cho thân phận bị thất sủng của mình và hận những kẻ đã đẩy mình vào tình trạng này.

Nguyên tác Dịch âm

秋懷其四 Thu Hoài Kỳ 4 

秋氣日惻惻 Thu khí nhật trắc trắc,
秋空日凌凌 Thu không nhật lăng lăng.
上無枝上蜩 Thượng vô chi thượng dăng,
下無盤中蠅 Hạ vô bàn trung lăng.
豈不感時節 Khởi bất cảm thời tiết?
耳目去所憎 Nhĩ mục khứ sở tăng.
清曉卷書坐 Thanh hiểu quyến thư toạ,
南山見高棱 Nam sơn kiến cao lăng.
其下澄湫水 Kỳ hạ trừng lưu thuỷ,
有蛟寒可罾 Hữu giao hàn khả tăng.
惜哉不得往 Tích tai bất đắc vãng,
豈謂吾無能 Khởi vị ngộ vô năng!

Chú giải:

Hàn Dũ làm thơ này năm 806. Lúc đó, ông đang bị đày đi Dương Sơn làm huyện lệnh, hết hạn được gọi về triều giữ chức quốc tử bác sĩ, một chức mà ông coi là nhàn hạ, không xứng với tài năng của ông.

Nam sơn: Tức núi Chung Nam ở phía nam kinh thành Trường An, cách khoảng 50 dặm.

Giao: Là con thuồng luồng, trong bài ám chỉ các tiết độ sứ được vua cho trấn thủ một vùng nào đó, bèn coi như lãnh thổ riêng, chống lại triều đình.

Dịch thơ

Mùa Thu Hoài Cảm kỳ 4

Khí thu nghe nằng nặng.
Trời thu trông cao cao.
Trên cành vắng ve sầu.
Dưới bàn không ruồi nhặng.
Ta vô cảm hay sao?
Mắt tai như mất hứng.
Sáng gấp sách ngồi ngắm,
Núi nam rừng lăng tươi,
Trong cây nước lạnh trôi,
Có thuồng luồng săn mồi.
Rất tiếc không tới được,
Bởi vì ta vô tài.

Lời bàn

Đây là nỗi lòng của một trung thần vừa mãn hạn đi đày vì lời nói ngay thẳng.

Bốn câu đầu:
Cảnh thu lạnh lẽo, cao ráo; trên cành không còn ve sầu, dưới bàn không còn ruồi nhặng (mùa hè đã hết, không thấy ve sầu và ruồi nhặng nữa). Nghĩa bóng: Ta nay đã già rồi, bị đày ở nơi đây, cách xa bọn tham quan ô lại.

Sáu câu 5, 6, 7, 8, 9 & 10:
Có lẽ ta đã trở thành vô cảm, không còn hứng nghe và nhìn thấy những gì đẹp đẽ nữa; buổi sáng gấp sách ngồi ngắm rừng lăng tươi ở núi nam, thấy có thuồng luồng đang săn mồi (kẻ phản nghịch đang tiếm đất của triều đình ở nơi xa).

Hai câu kết:
Nay ta đã bất lực, không còn sức sửa trị bọn tham quan nữa.
Bài thơ ngũ ngôn trường thiên 12 câu có nhịp địệu day dứt, ân hận, buồn rầu.

Con Cò
***
Nhớ Mùa Thu.

Hương thu ngày càng đậm,
Trời ngày càng cao sâu.
Trên cành vắng ve sầu,
Dưới khay chẳng nhặng bâu.
Có lẽ ta vô cảm?
Tai mắt thấy buồn rầu.
Sáng ngồi xếp sách lại,
Ngắm Nam Sơn đỉnh cao.
Dưới, suối trong lành chảy,
Có cá sấu giăng câu.
Tiếc rằng không tới được,
Ta vốn có tài đâu.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Sept.20/2025.
***
Nhớ Thu

Thu về cảnh buồn thiu
Lạnh lẽo ngày hắt hiu
Cây cao ve không thấy
Dưới đất ruồi biến tiêu
Thời tiết thay đổi mặc
Hờn giận cũng giảm nhiều
Sáng dậy cầm quyển sách
Ngắm non đỉnh cao nghiêu
Hồ mát trong bên dưới
Bắt cá thú dữ liều
Ta không đến trừ ác
Đức tài đã tiêu điều

Thanh Vân
***
Nhớ Thu Kỳ 4

Khí thu ngày thảm thảm
Trời thu ngày trong trong
Trên cành ve chẳng có
Ruồi nhặng dưới khay không

Há không cảm thời tiết?
Tai mắt thoát côn trùng
Sớm mai ngồi cuộn sách
Núi Nam thấy cao tầng

Dưới có hồ sâu mát
Nơi đặt vó thuồng luồng
Tiếc thay không tới được
Hay mình thiếu khả năng?

Khí sắc thu ngày thêm se sắt
Bầu trời thu ngày rất cao cao
Trên cành chẳng có ve sầu
Dưới khay không thấy ruồi trâu bám đầy

Cảm thời tiết? Mắt tai không bận
Sớm mai ngồi sách cuộn, núi cao
Thuồng luồng nước mát vó câu
Tiếc ta không tới, lẽ nào… thiểu năng?

Lộc Bắc
***
Bối cảnh 11 bài Thu Hoài của Hàn Dũ:

Nhân vùng Quan Trung bị hạn hán kéo dài, Hàn Dũ đang làm Giám Sát Ngự Sử, đã dâng biểu "Ngự sử đài thượng luận thiên hạn nhân cơ trạng 御史臺上論天旱人饑狀”, thẳng thắng luận tội hoàng thân Lý Thực, nên ông bị biếm làm huyện lệnh Dương Sơn (Ngày nay chính trường có thể còn tệ hơn xưa vì khi nói chạm đến người thân của chế độ thì cũng bị hăm dọa, mất việc…). Hàn Dũ làm chùm thơ này năm 806 lúc ông đang bị đày nên giọng buồn thảm và mỉa mai. Hết hạn được gọi về triều giữ chức quốc tử bác sĩ, một chức mà ông coi là nhàn hạ, không xứng với tài năng của mình.

Bài thơ ngũ ngôn cổ phong Thu Hoài Kỳ 4 có thể chia làm 3 phần theo ý:

Phần 1 gồm 4 câu đầu, miêu tả thu ảm đạm, lạnh lẽo, không ve sầu cũng vắng ruồi nhặng.
Phần 2 gồm 4 câu kế tiếp, thu ảnh hưởng đến tình cảm của thi nhân. Giảm bớt khó chịu về nhiều chuyện mắt thấy tai nghe. Nhàn hạ ngắm Nam Sơn, như non sông gấm vóc.
Phần 3 gồm 4 câu cuối, vài nơi trên đất nước còn có các thế lực gian tà. Thi nhân tiếc là không dẹp được hết, nhưng tự hỏi phải chăng là vì mình thiếu tài đức.

Dịch nghĩa:

Thu Hoài Kỳ 4 Nhớ Thu Kỳ 4

Thu khí nhật trắc trắc
Vẻ thu ngày càng ảm đạm buồn bã,
Thu không nhật lăng lăng
Trời thu ngày càng lạnh lùng
Thượng vô chi thượng điêu
Không có ve sầu trên các cành cao,
Hạ vô bàn trung dăng
Cũng không có ruồi nhặng bu trên chén dưới đất.
Khởi bất cảm thời tiết
Ta chẳng cảm xúc khi thời tiết thay đổi sao?
Nhĩ mục khứ sở tăng
Sự chán ghét một số điều nghe thấy cũng giảm.
Thanh hiểu quyến thư toạ
Sáng sớm ngồi cầm quyển sách,
Nam Sơn kiến cao lăng
Và ngắm các đỉnh núi cao của dãy Chung Nam.
Kỳ hạ trừng tưu thủy
Hồ nước trong mát bên dưới,
Hữu giao hàn khả tăng
Dường như có thuồng luồng (các thế lực tà ác) sẵn sàng bắt cá (hại dân).
Tích tai bất đắc vãng
Tiếc thay ta không tới đó được (diệt trừ tà ác),
Khởi vị ngô vô năng
Đâu phải vì ta không đủ tài sức!

Autumn Memories No. 4 by Han Yu

The autumn air grows increasingly bleak, the high sky clear and cold.
There are no cicadas chirping in the branches, no flies buzzing in the bowls on the ground.
Don't you have a sense of profound emotion as the seasons change, and with them, your aversion to certain things you hear and see dissipates?
In the morning, I sit quietly, holding a book, gazing out at the towering peaks of Chungnan ridge.
The clear waters of the lake below seem to harbor cold dragons (evil forces), ready to catch fish (harm people).
What a pity! I can't go and explore. How can I say I'm powerless?

Dịch thơ:

Nhớ Thu Kỳ 4

Ảm đạm bầu trời thu,
Lạnh lùng tiết khí thu.
Trên cành ve chẳng hót,
Dưới đất ruồi không bu.
Cảm xúc với thời tiết,
Bớt đi chuyện ghét thù.
Sớm mai cầm sách ngắm,
Các đỉnh dãy Chung Nam.
Dưới hồ nước trong mát,
Thuồng luồng bắt cá ăn.
Tiếc ta không đến đó,
Diệc ác với tài năng.

Phí Minh Tâm
25-9-2025
***
Góp ý:

Bài thơ trông thì đơn giản với từng câu năm chữ có vẻ dễ hiểu nhưng hiểu cho được ý của thi nhân họ Hàn lại là chuyện khác. Có một điểm nhỏ có lẽ ít người thấy là 3 từ với bộ 虫=trùng (蜩=điêu, 蠅=đăng, 蛟=giao); mùa thu trên núi cao thì dĩ nhiên là không có ve sầu và ruồi nhưng con giao làm gì trong bối cảnh này? Người Tàu có chừng 30 từ chỉ con ve sầu và lý do là có nhiều loài ve và mỗi địa phương gọi chúng một tên khác nhau.

下無盤中蠅=hạ vô bàn trung dăng. Chữ 盤=bàn, dùng bộ 皿=mãnh, trong câu này không có nghĩa là cái bàn mà là một cái khay để chưng bày thức ăn; từ âm bàn này người Việt có cái lồng bàn để đậy thức ăn ngừa ruồi. Lồng là âm Hán Việt hóa của 籠=lộng, nhưng người Tàu không có từ kép 籠 盤.

Người Việt dịch 蛟=giao thành thuồng luồng nhưng thuồng luồng là một quái vật của huyền thoại và khó mà bắt được bằng lưới (有蛟寒可罾=hữu giao hàn khả tăng). Người Tàu xem giao là một biến thân của con 虺=hủy, một loài rắn độc (huyền thoại!) đã sống trên 500 năm (rồi thêm 500 năm nữa thì biến thành 角龍=giác long, rồng có sừng) và dĩ nhiên cũng khó mà hình dung cảnh dùng lưới vớt rồng! Các nhà nghiên cứu chữ Hán cũng đã đi đến những kết luận chỉ cá sấu, cá mập, những loài thủy sinh không sống trên núi. Và có một thuyết cho rằng giao không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng của người Hán mà là con vật huyền thoại của nhóm Bách Việt, trong đó có người Giao Chỉ. Nếu không thể nào dùng lưới bắt con giao (有蛟寒可罾) thì phải chăng câu này có nghĩa là người ở ẩn xem mình như loài giao long sống theo lối sử dụng sơn hào hải vị? Và nếu hiểu như thế thì dịch giao thành thuồng luồng không xuôi tai.

南山=Nam sơn là một lối gọi núi Chung Nam, chừng 40km hướng nam của Tràng An. Núi này là cứ điểm của Lão giáo từ thời Hán và của phái Toàn Chân. Cho dù Phật giáo cũng có cơ sở trên Chung Nam, nói đến Nam sơn là nói đến Lão giáo và chuyện ở ẩn hay tu tiên, nơi không có ruồi nhặng quấy nhiễu, nơi nhà vua có sai người đi tìm cũng khó thành công. Không có ruồi đã đành nhưng cũng không có luôn ve sầu, biểu tượng của may mắn, biến thái và trường sinh bất lão. Phải chăng 上無枝上蜩=thượng vô chi thượng tiêu muốn nói là không thấy tiên đâu cả vì tu tiên chỉ là chuyện … huyễn?

Từ 棱=lăng, mặc dù viết với bộ 木, không phải là tên cây và hình như trên đời không có cây lăng! Nghĩa nguyên thủy của 棱 là một mảnh gỗ hình vuông rồi sau đó có thêm nghĩa giao điểm của hai bề mặt, và nghĩa sống núi (ridge/crête) nên câu 南山見高棱=nam san kiến cao lăng có nghĩa là thấy sống dãy núi Nam (một đỉnh của Chung Nam cao hơn 2,600 m.). Ngồi ở Tràng An thì đỉnh Chung Nam trông không xa lắm, cũng tựa như ở Huế hay Hội An thấy dãy Trường Sơn.

Hai câu cuối tả cảm tưởng của Hàn Dũ, vừa được vua ân xá, cho trở về kinh đô thay vì bôn ba tiếp tục lo việc tiến thân thì lại ngồi nhìn thánh địa của Lão giáo và phân vân có phải mình không thể lên Chung Nam tu tiên vi mình thiếu khả năng thành … tiên? Đã đành rằng từ 能 chỉ có thể dịch thành (khả) năng, khả năng làm gì, hay làm được gì, thì lại là chuyện khác. Tại sao vừa được gọi trở về triều và được vào lại Quốc Tử Giám (Hàn luôn luôn muốn cải tổ thể chế thi cử và nâng đỡ thí sinh), văn/thi nhân họ Hàn lại thấy mùa thu buồn da diết và trời cao vòi vọi (秋氣日惻惻, 秋空日凌凌)?

Đây không phải là tâm sự của một chính trị gia với mộng kinh bang tế thế mà là của một người sa cơ thất thế nghĩ chuyện lên núi ẩn cư.

Huỳnh Kim Giám

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét