Thứ Hai, 3 tháng 1, 2022

Thơ Xuân Của Vua Thành Thái


Tập thơ "Canh Tý Thi Tập" của vua Thành Thái, hiện chỉ tìm thấy một bản sao chép tay không ghi tên người và thời gian chép, do nhà nghiên cứu Phan Thuận An sưu tầm và giới thiệu lần đầu trên Tạp chí Hán Nôm số 1(18) năm 1994. Dưới đây là bài thơ NGUYÊN ĐÁN, một trong 17 bài thơ “Kim thể thập thất thủ” (17 bài làm theo thể thơ Đường) trong "Canh Tý Thi Tập" nói trên :

      元旦                         NGUYÊN ĐÁN
元正佳節值晴曛,    Nguyên chinh giai tiết trực tình huân,
旭日暉煌景色新。    Húc nhật huy hoàng cảnh sắc tân.
滿殿調風冠帶集,    Mãn điện điều phong quan đái tập,
盈庭瑞氣羽旄陳。    Doanh đình thoại khí vũ mao trần.
年豐海靜期天況,    Niên phong hải tịnh kỳ thiên huống,
內治外寧仰帝恩。    Nội trị ngoại ninh ngưỡng đế ân.
首是溫和人物遂,    Thủ thị ôn hòa nhân vật toại,
含沾雨露萬方春。    Hàm triêm vũ lộ vạn phương xuân !
               成泰                                         Thành Thái 

* Chú thích:

    - NGUYÊN ĐÁN 元旦 : NGUYÊN là Đầu; ĐÁN là Ngày. Nên NGUÊN ĐÁN là Ngày đầu tiên của một năm. Ta ăn Tết Nguyên Đán, chính là đang mừng đón ngày đầu của một năm đó.
    - Trực 值: là Nhằm lúc, đúng lúc. Đọc là TRỊ thì có nghĩa là Đáng giá, là Giá Trị, như "Xuân tiêu nhất khắc TRỊ thiên kim 春宵一刻值千金". Có nghĩa : Đêm xuân một khắc giá đáng ngàn vàng.
    - Tình Huân 晴曛 : là trời nắng ráo trong sáng.
    - Húc nhật 旭日: là Mặt trời mới mọc , là buổi sáng.
    - Quan Đái 冠帶: QUAN là mũ mão; ĐÁI là dây thắt lưng, dây đai; Nên QUAN ĐÁI là Áo mão cân đai.
    - Vũ Mao 羽旄: VŨ là Lông vũ, MAO là Cờ mao, cờ có cắm lông đuôi bò tót dùng trong quân đội khi xưa; nên VŨ MAO chỉ Các loại cờ xí tàn lộng trong lúc tiến hành nhạc lễ tế bái ngày xưa.
    - Niên Phong Hải Tĩnh 年豐海靜 : NIÊN PHONG là Năm được mùa; HẢI TĨNH là Biển lặng. Nên NIÊN PHONG HẢI TĨNH là Nông dân được mùa còn dân biển cũng đánh bắt được nhiều cà vì biển lặng; Ý chỉ dân chúng được an cư lạc nghiệp.
    - Nội Trị Ngoại Ninh 內治外寧 : NỘI TRỊ là bên trong nước chính trị ổn định, NGOẠI NINH là đối ngoại cũng được an ninh bình ổn.
    - Hàm Triêm Vũ Lộ 含沾雨露 : HÀM là Ngậm; TRIÊM là Thấm; HÀM TRIÊM là thấm nhuần. VŨ là Mưa; LỘ là hạt sương hạt móc. MƯA và MÓC là những giọt nước nuôi sống cây cỏ lá hoa; không có Mưa và Móc thì cỏ cây hoa lá sẽ chết hết. Nên người dân ví những chính sách nhân đạo của chế độ phong kiến của nhà vua ngày xưa là ƠN MƯA MÓC.

* Nghĩa bài thơ:
      Tết Nguyên Đán      
  
       Chính ngay cái ngày Tết đầu năm lại nhằm lúc trời quang mây tạnh. Ánh nắng ban mai rực rỡ làm cho cảnh sắc như mới hơn ra. Cả cung điện như có làn gió điều hòa khi các quan với áo mão cân đai đang tập hợp lại, và đầy cả sân đình như đang phủ một làn khí lành khi cờ xí tàn lộng được bày ra (để tế cáo trời đất trong ngày đầu năm). Cầu mong cho trời sẽ ban cho một năm sóng yên bễ lặng và được mùa; cũng ngữa mong Thượng đế ban ơn cho trong ngoài đều trị an bình ổn. Điều đầu tiên là người vật đều được toại nguyện trong sự ôn nhu hòa ái. Tất cả đều được hưởng ơn mưa móc của trời ban cho muôn nơi đều được tươi đẹp như mùa xuân (đang tràn ngập cả đất trời !) 

      Tội nghiệp, không có thực quyền trong tay, nhưng trong ngày Tết nhà vua vẫn cầu nguyện cho phong điều vũ thuận, mưa thuận gió hòa , quốc thái dân an để cho dân chúng được an cư lạc nghiệp để cùng đón xuân về !

* Diễn Nôm:
  Nguyên Đán 

Nguyên Đán ngày xuân nắng ấm thay,
Huy hoàng cảnh sắc lúc ban mai.
Cung đình áo mão cân đai rợp,
Sân điện quạt cờ tàn lộng bay.
Mùa được biển yên mong đấng cả...
Ngoài êm trong ấm tạ cao dày...
Ôn hòa người vật đều thanh thản,
Mưa móc hàm ơn khắp chốn này!

Lục bát:

Tiết lành nhằm lúc trời quang,
Đẹp thay cảnh mới huy hoàng nắng mai.
Điện vàng áo mão cân đai,
Sân đình cờ quạt như thay điềm lành.
Được mùa biển lặng trời xanh,
Ngoài yên trong ấm lòng thành tạ ơn.
Sao cho người vật không hờn,
Hưởng ơn mưa móc gì hơn xuân hồng!

(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)
       
         Cũng cùng tâm tình của một ông vua trẻ yêu nước thương dân nhưng lại không có thực quyền, nên đành phải vui với niềm vui trước mắt và luôn ước mơ ngày Tết mở ra vận hội mới cho dân chúng luôn được mùa phú túc an vui. Tâm tình của nhà vua được dàn trãi qua bài thơ "Tân Thiều Thí Bút" sau đây :

    新韶試筆                   TÂN THIỀU THÍ BÚT
新韶淑氣滿春城,    Tân thiều thục khí mãn xuân thành,
運啟三陽好景呈。    Vận khải tam dương hảo cảnh lai.
拂拂調風來寶殿,    Phất phất điều phong lai bảo điện,
煌煌瑞日照珠營。    Hoàng hoàng thụy nhật chiếu châu doanh.
恬熙富庶千方樂,    Điềm hi phú thứ thiên phương lạc,
駘蕩溫和萬象明。    Đãi đãng ôn hòa vạn tượng minh.
嗟首欣看時節順,    Ta thủ hân khan thời tiết thuận,
今收定必獲豐盈。    Kim thu định tất hoạch phong doanh.

* Chú thích:
   - TÂN THIỀU THÍ BÚT 新韶試筆 : THIỀU là THIỀU QUANG 韶光 là bóng mặt trời mùa xuân, cảnh sắc đẹp của mùa xuân. THÍ BÚT 試筆 là Thử bút. Nên TÂN THIỀU THÍ BÚT là Thử bút trong cảnh đẹp của mùa xuân.Ta thường nói là ĐẦU XUÂN KHAI BÚT.
   - Thục khí 淑氣 : là Khí linh thiêng của trời đất, là làn khí ôn hòa.
   - Tam Dương 三陽 : Theo sách Chu Dịch. Sau tiết Đông Chí thì khí âm hàn bắt đầu tiêu thoái, và khí dương thì bắt đầu sanh trưởng, ta thường nghe các Thầy Bói gọi là Âm Tiêu Dương Trưởng, đêm sẽ ngắn dần, ngày sẽ dài thêm ra, cho nên Tháng Mười Một là tháng Tý, thuộc quẻ Phục 復 là Nhất Dương Sanh, Tháng Mười Hai là Tháng Sửu, thuộc quẻ Lâm 臨 là Nhị Dương Sanh, và Tháng Giêng là Tháng Dần, thuộc quẻ Thái 泰 là Tam Dương Sanh. Vì thế nên Tết Nguyên Đán của tháng Giêng mới dùng câu Tam Dương Khai Thái 三陽開泰 mà chúc mừng cho năm mới mở ra vận hội mới, lấy Ý chữ Thái là Lớn, là Thông, như trong tiếng Việt ta thường nói "Hết vận Bỉ rồi thời lại Thái", hoặc "Bỉ cực thì Thái lai" và "Hết cơn Bỉ Cực, đến hồi Thái lai". Có nghĩa: Hết lúc Bế tắt, nghèo khó thì đến lúc Hanh Thông, khá giả !
   - Điều Phong 調風 : hay Phong Điều là Gió máy điều hòa, không gây bão tố.
   - Thụy Nhật 瑞日 : là Mặt trời lành, có nghĩa là Ánh nắng đẹp.
   - Điềm Hi 恬熙 : ĐIỀM là Đầm thấm; HI là Sáng sủa; nên ĐIỀM HI là an nhàn vui vẻ.
   - Đãi Đãng 駘蕩 : là Thong dong thoải mái.
   - Hoạch Phong Doanh 獲豐盈 : HOẠCH la Thu hoạch; PHONG là Đầy đặn sung túc; DOANH còn đọc là DINH là Đầy đủ; nên HOẠCH PHONG DINH là Thu hoạch sung túc đầy đủ. Trước 1975, Thành phố Cần Thơ hiện nay là Tây Đô nằm trong Tỉnh PHONG DINH, tức là 2 chữ PHONG DINH 豐盈 nầy với ý nghĩa là một tỉnh luôn SUNG TÚC ĐẦY ĐỦ.

* Nghĩa bài thơ :
   Đầu Xuân Thử Bút 

      Trong ánh nắng mới, khí thiêng của trời đất tràn đầy cả thành xuân. Tam Dương chuyển vận mở ra cảnh đẹp trước mắt. Gió xuân hây hẩy điều hòa thổi đến cung điện, ánh nắng lành rực rỡ chiếu vào doanh trại. An nhàn giàu có ngàn nơi đều vui vẻ, Thong dong thoải mái vạn vật như sáng sủa thêm ra. Gật gù vui thấy thời tiết mưa thuận gió hòa; Mùa thu hoạch năm nay chắc chắn sẽ sung túc đầy đủ vì được mùa.

* Diễn Nôm:
   Tân Thiều Thí Bút
  
Hơi xuân linh khí phủ đầy thành,
Vận chuyển tam dương cảnh sắc thanh.
Phe phẩy gió hòa lay điện báu,
Vàng ươm nắng rực chiếu cơ doanh.
Thong dong phú túc ngàn nơi lạc,
Thoải mái ôn hòa vạn vật xanh.
Mừng đón xuân nay thời tiết thuận,
Mùa màng ắt sẽ được phong dinh!

Lục bát:

Khí lành xuân mới khắp thành,
Tam dương chuyển vận cảnh xanh rõ ràng.
Hây hây gió thổi điện vàng,
Nắng mai rực rỡ chiếu vàng doanh cơ.
Ngàn nơi vui vẻ thẩn thơ,
Ôn hòa vạn vật cũng thơ thới lòng.
Những mừng thời tiết xanh trong,
Năm nay ắt sẽ thong dong được mùa!

(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét