Phần 1
Lời Mở Đầu
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Lý Thường Kiệt
Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rành rành định phận tại sách Trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
Mục Lục
Lời Mở Đầu
Đồng Bào
Phù Đổng Thiên Vương
Tiếng Hờn Sông Hát
Nhuỵ Kiều Tướng Quân
Mai Hắc Đế
Bố Cái Đại Vương
Lời Mở Đầu
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, đều có niềm tự hào, hãnh diện của nòi giống.
Dân Việt ta lại càng hãnh diện hơn khi có những Tiền Nhân cân quắc anh
thư, là những anh hùng xuất chúng.
Là một nước nhỏ bé nằm kề cận một nước lớn Trung Hoa, luôn tìm cách xâm
chiếm và đồng hoá, thế mà vẫn kiên cường bất khuất. Trong suốt mấy ngàn
năm luôn bị phương bắc xâm lược, Tổ Tiên ta vẫn giữ vững văn hoá dân
tộc, để con cháu đời sau luôn hãnh diện tự hào: đất nước ta có hơn 4.000
năm văn hiến. Tiền Nhân luôn nêu gương sáng cho hậu thế, giữ vững
truyền thống bảo vệ tổ quốc, bảo vệ giang san, không làm tay sai cho
giặc như câu nói của Vua Lê Thánh Tông:
“Một
thước núi, một tấc sông của ta không nên vất bỏ... Nếu ngươi dám lấy
một thước, một tấc đất của Thái Tổ (Vua Lê Lợi) mà đút mồi cho giặc thì
tội phải tru di...” (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Lịch sử Việt Nam nếu
tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước
Công nguyên, còn tính từ khi đất nước được hình thành thì mới khoảng từ
hơn 4000 năm trước đây
Những người Việt Tiền Sử trên vùng châu thổ sông Hồng sông Mã đã khẩn
đất, chế ngự nước lụt của các sông, phục vụ cho việc trồng lúa và đã
tạo nên nền văn minh lúa nước.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Vua Thần Nông (một trong Tam Hoàng của
Huyền Sử Trung Hoa vốn người gốc Phương Nam) là tổ tiên của dân tộc
Việt, đã đem cách trồng lúa ở phương Nam ra truyền dạy lại cho người
phương Bắc.
Khu vực trung du bắc phần Việt Nam đã có người ở từ thời kỳ Đồ Đá Cũ
(Thời Tiền Sử). Các nhà khảo cổ đã tìm ra các dấu vết người Vượn cư ngụ
tại Lạng Sơn, Ninh Bình và Thanh Hoá cách đây hàng trăm nghìn năm. Thời
kỳ này mực nước biển thấp hơn, và Việt Nam khi đó nối liền với đảo Hải
Nam, bán đảo Mã Lai, Indonesia, với khí hậu ẩm và mát hơn bây giờ.
Do chính đặc trưng về địa chất nên vùng đồng bằng sông Hồng, vịnh Bắc
Việt không có điều kiện khai quật nền đất cổ đại có ở khoảng 8000 năm
trước Công Nguyên (trước khi có đại hồng thủy) để xác nhận dấu vết của
các nền văn minh khác nếu có. Trang sử Việt có một khoảng trống không
xác định được từ khoảng năm trước 5500 năm - 18000 năm trước.
Qua những khảo cứu trên, Thuỷ Tổ Tộc Việt không phải chỉ xuất xứ từ nam sông Hoàng Hà,
vì thế mới có một nền văn minh riêng, ngôn ngữ riêng, không hề giống
với tiếng nói của các dân tộc Đông
Á.
Đó chính là sắc thái riêng, bản chất riêng được gìn giữ và lưu truyền trong tâm khảm của người Dân Việt.
“Anh Hùng Ca Đất Việt" nói về những bậc Anh Hùng Dân Tộc
Việt Nam. Cấu trúc mỗi truyện được chia làm hai phần, phần đầu được kể
như truyện cổ tích, phần sau tóm lược Bối Cảnh Lịch sử đương thờ. Phần
lớn nội dung được Biên Soạn từ "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" của Lê Văn Hưu,
Phan Thu Tiên, Ngô Sĩ Liên.., “Lĩnh Nam Chích Quái”của Trần Thế
Phát(?), "Việt Nam Sử Lược" của Trần Trọng Kim, cùng tham khảo một số
bài viết trong các trang Web trên google (vì quá nhiều nên không thể nhớ đưa hết vào đây. Mong Các Vị thông cảm)…
Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn
Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn
---------------------------------
Bối Cảnh Lịch sử
Họ Hồng Bàng triều đại đầu tiên trong sử Việt bắt đầu từ đấy.
Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn
Đồng Bào
Thế
giới này, chỉ duy nhất dân tộc ta mới có từ "Đồng Bào" (cùng chung một
bọc) mà thôi. Hai tiếng thật thân yêu, nói lên tình ruột thịt của Người
Việt. Kinh Thượng một dòng máu, một tổ tiên, một cội nguồn.
Trong dân gian luôn truyền tụng câu chuyện Một Mẹ Trăm Con từ đây…
Thuở
xa xưa, cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc
Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khoẻ tuyệt trần, lại có tài đi lại
dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương Vương đi chơi hồ Ðộng
Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết thành vợ chồng và
ít lâu sau sinh được một trai, đặt tên là Sùng Lãm.
Lớn
lên Sùng Lãm rất khoẻ, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai
người ôm. Cũng như cha, Sùng Lãm có tài đi lại dưới nước như đi trên
cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân.
Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi.
Ðến
vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này
đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm,
miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất
trời, thuyền bè qua lại đều bị nó nhận chìm, người trên thuyền đều bị
nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh.
Chỗ
ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có
một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng.
Lạc
Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân
đóng một chiếc thuyền thật chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều
cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến
Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên giả cách như cầm một người ném
vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi. Lạc Long Quân lao thẳng
khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng vùng lên chống
cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền rút gươm
chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long
Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một
hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi
ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh
thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay
còn mang tên là Bạch Long Vĩ.
Trừ
xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. ở đây có con cáo chín
đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu,
dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hoá
thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại.
Một
vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại.
Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương
rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn.
Lạc long quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó.
Khi
Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền
xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy
con yêu. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu dần dần yếu sức, tìm
đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên
hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu
những người còn sống sót, rồi sai các loài thuỷ tộc dâng nước sông Cái,
xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo,
đời sau mới gọi là Tây Hồ.
Dẹp
yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng
ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến
nay vẫn còn.
Thấy
dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên
vùng rừng núi đến đất Phong Châu. ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là
cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt
che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến
thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh.
Con
yêu này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định,
khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay
hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng
nghe thấy tiếng khóc than thảm
thiết,
Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long
quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới
tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày
đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó.
Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống
nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quẩn ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.
Diệt
xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ
thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ tranh làm ổ nằm bèn dạy
cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà
sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dạy dân ở cho ra cha con, vợ
chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy
nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ
dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: "Hể có tai biến gì thì gọi ta, ta
sẽ về ngay! "
Lúc
bấy giờ có Ðế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam. Ðế Lai
đem theo cả người con gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều
thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều
gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài. Phải phục
dịch rất cực.
khổ,
nhân dân chịu không nổi, hướng về biển Ðông gọi to: "Bố ơi! Sao không
về cứu dân chúng con!". Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về.
Nhân
dân kể chuyện, Lạc Long Quân hoá làm một chàng trai rất đẹp, có hàng
trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long
Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ thấy một cô gái nhan sắc tuyệt
trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh đẹp đó là Âu Cơ. Thấy
Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin đi theo Lạc Long
Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình, trên núi
cao.
Ðế
Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp nơi. Hết
ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn
các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai
đành thu quân về phương bắc.
Bấy giờ nàng Âu Cơ mang thai, trải ba năm, ba tháng,
mười ngày, thấy trên núi Nghĩa Lĩnh có mây lành ngũ sắc xán lạn. Đến
giờ Ngọ, ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tý, Âu Cơ thấy bào thai chuyển động.
Đến giờ Ngọ, ngày 28, hương lạ đầy nhà, hào quang khắp phòng, bà sinh một bọc bạch ngọc, hương lạ giáng xuống. Bắt đầu sinh ở núi Ngũ Lĩnh, đất Thổ Thứu phong, ao sen đỉnh ngọc.
Lạc
Long Quân thấy bà sinh ra bọc lạ, cho là xưa nay chưa có, việc lạ trong
nước, bèn triệu văn võ bách quan trong triều vào chầu chính điện. Lúc
ấy, giờ Ngọ, bỗng thấy trong thành giữa trời có ba tiếng
hiệu
lệnh làm chuyển động trời đất, sông núi, cỏ cây, vạn vật kinh sợ. Mây
lành ngũ sắc sáng đầy khắp ba nghìn thế giới. Trên thượng điện, vạn chim
bay, ngư, lân tụ hội theo gió mưa cống triều.
Ngài
thấy quốc gia có điềm lạ khác thường, xuống chiếu cho các quan văn võ
chỉnh đốn ý mạo, chay khiết lòng thành, tề tựu tại điện Kính Thiên, thắp
hương đèn phùng chầu triều bái Hoàng Thiên Thượng Đế đến Tứ phủ vạn
linh.
Tới giờ Thân hôm ấy, bỗng thấy một áng mây xanh
từ hướng Tây kéo đến, tụ tại thềm rồng của điện Kính Thiên, tự nhiên có
bốn vị tướng xuất hiện kỳ lạ, cao hơn trượng rưỡi, đầu đội mũ hoa, thân
mặc bào xanh gấm vóc, eo thắt đai ngọc, chân đi hài sắt, miệng cười như
hào quang sáng rực, mây tuôn cuồn cuộn, tay cầm một chiếc long bài
(sắc) của Ngọc Hoàng
Thượng
Đế: Ban cho Hiền Vương một bọc trăm trứng, sinh nơi ngọc khuyết, thành
trăm người con trai trị nước. Nay sai bốn vị Đại Thiên vương giúp đỡ,
che chở cho nước. Vậy ban sắc!.
Lạc Long Quân chiếu theo long bài, truyền các quan văn võ ngẩng mặt bái tạ trời, bái tạ Thiên vương.
Thiên vương nói:
-
Trăm trứng ngọc bào do điềm rồng giáng sinh, thiên sứ báo cho Hiền
Vương biết, hãy đặt vào bàn vàng, mang đến chùa Cổ Viễn Sơn, tên là Từ
Sơn Thiên Quang Hòa Thượng Thiền Thứu Lĩnh (về sau đổi là Thiên Quang
Thiền tự) đặt ở trong chùa, chọn lấy vị quan trai giới chầu trực, thắp
hương không dứt.
Bọc
đó vỡ ra, Lạc Long Quân bèn đỡ lấy thì bốn vị Đại Thiên Vương tự nhiên
biến hóa, Hiền Vương càng thành tâm cầu đảo. Đến giờ Ngọ, ngày rằm 15
tháng Giêng, trăm trứng vỡ ra đều thành trăm người con trai; rồng thành
năm sắc, điềm ứng sáng ngời, hương trời giáng xuống, đầy khắp núi sông.
Được khoảng một tháng, không phải bú mớm mà tự trưởng thành. Tất cả các
con đều có hình dáng đẹp lạ, tướng mạo phương phi, anh hùng nổi tiếng ở
đời, cao lớn ba thước bảy tấc.
Lạc
Long Quân triệu 6 nàng cung phi, giao phát gấm lĩnh, cắt may thành trăm
bộ áo mũ cấp cho trăm người con trai. Cả ngày trăm con vui cười, thường
lấy lá hoa ao sen đùa nghịch. Sau 100 ngày, các con khôn
lớn, không nói mà hay cười. Qua 200 ngày, đến giờ Thìn ngày 20 tháng 7, cả trăm người con trai đều cười to, nói rằng:
Trời
sinh Thánh Vương trị nước, giúp bốn biển thanh bình, quốc gia yên vui,
là trăm hoàng tử đều ở thềm rồng điện thượng. Bỗng thấy một đám mây ngũ
sắc từ không trung giáng xuống thềm rồng.
Lạc
Long Quân thấy tám vị Thiên tướng, đầu đội mũ đồng, mình mặc thiết
giáp, chân đi hài bạc, eo thắt dải rồng, dung mạo xán lạn, mắt sáng như
sao, miệng xuất hào quang, tay cầm thần kiếm, linh trượng, bảo trữ,
thiết phủ, đứng hầu hai bên tả hữu; hai bên đối chầu, hư không biến hóa,
gió mưa ập đến, bay vượt nhiễu không trung trong điện Ngũ Lĩnh, rồi núi non thất hình, sông hồ sóng dâng trào.
Sau
ba giờ ánh sáng rực rỡ, tám vị tướng mới xưng danh làm tám bộ Kim
Cương, vâng sắc của Thượng Thiên chư Phật, Bảo Đế lệnh sai giáng xuống
che chở cho trăm người con trai. Nay tất cả đã trưởng thành, hiểu biết
nên tám vị tướng phụng mệnh đưa các vương tử đến cửa khuyết bái tạ Hoàng
phụ, cai trị trong nước.
Tám
vị tâu xong, bay lên trời biến mất. Tám vị ban cho Lạc Long Quân một
chiếc long bài, một chiếc thiên bảo thần ấn, một viên bạch ngọc, một
chiếc thần kiếm, một quyển thiên thư, một chiếc thước ngọc, một chiếc
bàn vàng đặt ở trong điện. Hiền Vương nhận lấy, cho đây là trời ứng điềm
lành, giúp yên trong nước.
Vua
thấy trăm người con trai bỗng nhiên cao lớn, thân dài bảy thước ba tấc,
mỗi người cầm một vật thiên bảo thần khí chia nhau đứng hầu hai bên tả
hữu, bái tạ Hoàng phụ.
Ngài
xuống chiếu rằng: Trời sinh trăm người con trai, đều văn võ thánh thần,
anh hùng tài lược giúp nước yên bình, thiên hạ cậy nhờ bởi ơn giáo hoá,
phụ tử quân thần cùng nhau vui hưởng”.
Hàng
chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng
lòng vẫn nhớ thuỷ phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con,
hoá làm một con rồng vụt lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn
theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết
ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi.
Không thấy Lạc Long Quân trở về. Nhớ chồng quá, Âu Cơ đứng trên ngọn núi
cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi:
"Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi sầu khổ thế này".
Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng:
-
Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được
trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc mẹ con thiếp sống bơ vơ
khổ não.
Lạc Long Quân nói:
Ta
là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem
năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, nếu
gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên.
Hai
người từ biệt nhau, trăm người con trai toả đi các nơi, trăm người đó
trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong
Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng
chia nước ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc
tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Ngôi
vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương.
Lạc
Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua
Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc
Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên
Rồng.
Từ tích Cha Lạc Long Quân lấy Mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nên dân tộc ta mới có từ ĐỒNG BÀO.
Trống Đồng Đông Sơn
Bối Cảnh Lịch sử
Trong
âm mưu thôn tính và đồng hoá dân tộc Việt, các cuộc xâm lăng từ phương
Bắc không ngừng tiếp diễn. Điển hình nhất là trong thời kỳ Bắc Thuộc lần
thứ hai, sau khi tiêu diệt được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã
Viện tiến hành chính sách đồng hoá, thiêu huỷ tất cả những gì liên quan
đến văn hoá nước ta. Chẳng những thế, Mã Viện còn trồng một trụ đồng
trên có hàng chữ"Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" có nghĩa là "Cột đồng
gãy, Giao Chỉ bị tiêu diệt". Dân Việt vì sợ cột gãy, nên khi đi ngang
trụ đồng đều lấy đá thảy vào chân cột, lâu ngày thành cái gò cao.
Người
Trung Hoa lợi dụng huyền sử, không xác định chính xác về tổ tiên, với
chính sách đồng hoá, đến thời Mã Viện đốt sách xóa bỏ chữ viết của người
Việt Cổ, xoá bỏ các ghi chép về thời Hùng Vương..v...v.. (cho đến nay
tạo ra 1 vùng huyền sử cho Chính Sử Việt Nam : Hùng Vương huyền sử - Lộc
Tục+Sùng Lãm+18 đời vua HÙNG(20 vua) mà trị vì hơn 2600 năm Trước Công
Nguyên ? (*)
Ép buộc khuyến khích học Hán Tự. Các quan Tàu đô hộ tìm đủ mọi cách để xoá đi cội nguồn dân tộc Việt.
Với
chính sách đồng hoá và xâm lấn, các triều đại Trung Hoa liên tục tìm
cách đồng hoá người Việt thành người Tàu, bọn chúng đã đốt sách, hủy
diệt văn hoá của người Việt và còn thâm độc hơn tự nhận là "con cháu
Viêm-Hoàng"(Đế Viêm tức Thần Nông) để có ý chỉ rằng dân tộc Việt cũng là
người Trung Quốc.
Vốn
Thần Nông Thị (dòng họ Thần Nông) là dòng vua đầu tiên của các vị vua
người Việt. Người Việt gọi là "Đế Viêm"(tiếng Việt), Người Tàu gọi là
"Viêm Đế" (tiếng Hán)
Đế
Viêm Thần Nông người phát minh ra việc trồng lúa nước. Vào thời điểm
này người Trung Hoa sống ở phía bắc khí hậu ôn đới chỉ biết trồng lúa
mạch lấy đâu ra kỹ năng trồng lúa nước của miền nhiệt đới mà nhận ông
vua này của họ? Đến đời nhà Hạ, nhà Thương của người Trung Hoa lãnh thổ
cũng chỉ ở phía Bắc sông Trường Giang lấy đâu ra vùng trồng lúa nước
sông Trường Giang?
Các
vua kế tiếp Đế Viêm Thần Nông gồm có : Thứ 2. Đế Thư. 3. Đế Lâm. 4. Đế
Minh (Vua này sinh ra Lộc Tục là con thứ không phải con trưởng. Lộc Tục
(Kinh Dương Vương) sinh ra Sùng Lãm chính là Lạc Long-Quân) 5. Đế Nghi
6. Đế Lai 7. Đế Lý 8. Đế Du Vọng
Theo
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Vua Đế Minh là cháu ba đời của Vua Thần Nông.
Khi đi tuần phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc Hồ Nam Trung Hoa) gặp
một nàng Tiên, lấy nhau sinh ra Lộc Tục. Sau đó phong cho Lộc Tục làm
vua phương Nam ( từ núi Ngũ Lĩnh trở vào Nam), Xưng hiệu là Kinh Dương
Vương, đặt tên nước là Xích Quỷ. Năm Nhâm Tuất 2897 trước Công Nguyên,
Kinh Dương Vương cưới con gái của Thần Quân Động Đình Hồ là Long Nữ sinh
ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi vua xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân
cưới con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ.
Theo
truyền thuyết Việt Nam, Âu Cơ là Tổ Mẫu của người Việt. Tương truyền,
Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai. Trong khi đi tuần thú phương Nam, ông
đã để Âu Cơ lại trên một cái động. Khi Lạc Long
Quân
đi đến đây thì thấy nàng xinh đẹp nên đã đem lòng yêu mến và đem về làm
vợ. Hai vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ đã sống với nhau.
Âu
Cơ Sinh ra một bọc, trong bọc có 100 quả trứng. Trứng nở ra trăm đứa
con. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ: " Ta là giống Rồng, Nàng là Giống
Tiên. Thuỷ hoả tương khắc, khó mà chung hợp nhau. Nay Nàng dẫn 50 con
lên núi. Còn ta đưa 50 con xuống biển", chia nhau cai quản các vùng. Khi
hữu sự hãy thông báo cho nhau để giúp đỡ. Đây là tổ tiên Bách Việt. Lạc
Long Quân đưa các con xuống miền biển Nam Hải, phong cho con trưởng làm
vua Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang.
Huỳnh Hữu Đức Biên Soạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét