Lý Thương Ẩn 李商隱 (813-858) tự Nghĩa Sơn 義山, hiệu Ngọc Khê Sinh 玉谿生, người Hà Nội, Hoài Châu (nay Tầm Dương, phủ Hoài Khánh, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Thuở thiếu thời giỏi văn thơ, được giao du với các con của tể tướng Lệnh Hồ Sở, trong đó có Lệnh Hồ Đào. Bấy giờ trong triều có hai phe đối nghịch nhau, tranh quyền đoạt lợi, một phe là Tăng Ngưu Nhu, phe kia là Lý Đức Dụ, hầu hết quan lại đều bị lôi cuốn vào cuộc tranh chấp ấy. Sở theo phe Ngưu. Năm Lý Thương Ẩn mười bảy tuổi (829), Sở tiến cử làm tuần quan mạc phủ. Năm hai mươi lăm tuổi (837), ông lại được Lệnh Hồ Đào khen ngợi, nâng đỡ nên đỗ tiến sĩ năm Khai Thành thứ 2. Năm sau ông được Vương Mậu Nguyên, tiết độ sứ Hà Dương mến tài, dùng làm thư ký và gả con gái cho. Chẳng may, Vương thuộc phe Lý Đức Dụ khiến ông trở thành kẻ vong ân bội nghĩa, xảo quyệt vô hạnh trong mắt Lệnh Hồ Đào. Vương Mậu Nguyên chết, rồi Lý Đức Dụ thất thế, ông đến kinh sư nhưng không được làm gì cả. Sau nhờ Trịnh Á vận động, ông được làm chức quan sát phán quan. Trịnh Á bị biếm ra Lĩnh Biểu, ông cũng đi theo. Ba năm sau ông lại trở về, làm truyện tào tại Kinh Triệu. Ông nhiều lần đưa thư, dâng thơ cho Lệnh Hồ Đào để phân trần và xin tiến dẫn, nhưng vẫn bị lạnh nhạt. Tiết độ sứ Đông Thục là Liễu Trọng Hĩnh dùng ông làm tiết độ phán quan, kiểm hiệu Công bộ viên ngoại lang. Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức. Như thế là ông mắc kẹt giữa hai phái, chưa hề được đắc chí trên hoạn lộ, cứ bôn tẩu khắp nơi: Tứ Xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây, Từ Châu nương nhờ hết người này đến người khác, long đong khốn khổ. Cuối cùng ông về đất Oanh Dương thuộc Trịnh Châu rồi bệnh chết năm 46 tuổi.
Văn Lý Thương Ẩn có phong cách khôi lệ ỷ cổ, thơ nổi tiếng ngang Ôn Đình Quân, nên người Đương Thời gọi là “Ôn - Lý”, hoặc ngang Đỗ Mục, nên được gọi là “tiểu Lý - Đỗ” (để phân biệt với “Lý - Đỗ” là Lý Bạch - Đỗ Phủ). Vương An Thạch đời Tống khen ngợi rằng người đời Đường học tập Đỗ Phủ mà đạt được mức “phiên ly” (rào dậu, xấp xỉ) của ông, thì chỉ có một mình Thương Ẩn. Dương Ức và Lư Tử Nghi mô phỏng thơ ông làm ra tập Tây Côn thù xướng nên có tên Tây Côn thể. Tác phẩm của ông có Phàn nam giáp tập (20 quyển), Ất tập (20 quyển), Ngọc Khê Sinh thi (3 quyển); ngoài ra còn một quyển phú và một quyển văn. Tương truyền ông có tình luyến ái với nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và các cung nữ Lữ Phi Loan, Khinh Phụng, nên ông làm bảy bài Vô đề mang tính diễm lệ, bí ẩn.
Thơ ca Lý Thương Ẩn có nhiều nét rất đặc sắc so với truyền thống thơ ca cổ điển Trung Quốc. Ông tiếp thu ảnh hưởng cổ thi, nhạc phủ Hán - Nguỵ và cả cung thể Lương - Trần. Ông cũng học tập ngũ ngôn hiện thực của Đỗ Phủ, phong cách lãng mạn của Lý Hạ cho nên thơ ông khá phức tạp cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật.
Đặc sắc nhất trong thơ Lý Thương Ẩn là thơ tình. Với những bài Vô đề, ta thấy được đời sống tình ái của kẻ sĩ đại phu xưa. Lễ giáo phong kiến và chế độ hôn nhân không cho phép tự do, vì thế không thoả mãn yêu đương, họ có nhiều ảo tưởng và khát vọng, hoặc là mang tâm trạng ẩn ức, hoặc là sống phóng đãng buông lung. Thơ Lý Thương Ẩn ít nhiều nói lên niềm mơ ước về hạnh phúc lứa đôi và có tính chống lại lễ giáo phong kiến. Những bài thơ Vô đề của ông âm điệu nhịp nhàng uyển chuyển, tình điệu thê luơng ai oán, niêm luật nghiêm túc chỉnh tề, ngôn từ gọt dũa bay bướm, tạo nên những hình tượng tươi đẹp, sinh động, cảm xúc sâu sắc chân thành. Tuy nhiên do không thể đấu tranh đập tan những gông cùm ấy nên ông cũng như tầng lớp của ông trở nên bi quan tiêu cực, bám lấy hư vô chủ nghĩa, kết hợp với sự suy tàn của thời đại và giai cấp.
悼傷後赴東蜀闢至散關遇雪 Điệu Thương Hậu Phó Đông Thục Tịch Chí Tản Quan Ngộ Tuyết
劍外從軍遠 Kiếm ngoại tòng quân viễn,
無家與寄衣 Vô gia dữ ký y.
散關三尺雪 Tản Quan tam xích tuyết,
回夢舊鴛機 Hồi mộng cựu uyên ky.
Chú giải:
Sách "Cựu Đường thư" chép: "Tháng bảy năm thứ năm niên hiệu Đại Trung, Liễu Trọng Dĩnh trấn ở Đông Thục, mời Lý Thương Ẩn làm tiết độ phán quan". Bài thơ này làm vào khoảng năm thứ năm niên hiệu Đại Trung (851). Mùa thu năm ấy, vợ Lý Thương Ẩn mất ở Kinh sư. Vào giữa mùa đông, Lý Thương Ẩn phải đến Đông Xuyên nhậm chức, lúc ấy vợ ông mất mới được ba bốn tháng.
Diệp Thông Kỳ nói: "Hai câu cuối ý nói trong mơ cứ nghĩ rằng vợ vẫn còn, giữa đường gặp tuyết lạnh lùng, cô đơn khiến cho nỗi đau trong lòng càng thêm thê lương".
Kỷ Quân khen bài thơ này là "Thịnh Đường dư hưởng", nói rằng bài thơ này đối với hai câu thơ trong bài "Lũng Tây hành" của Trần Đào đời Đường "Khả liên Vô Định hà biên cốt, Do thị xuân khuê mộng lý nhân" (Thương thay đống xương bên bờ sông Vô Định, Vẫn còn là người trong mộng của cô gái buồng khuê) thật là đúng lắm, nhưng hai câu cuối của Lý Thương Ẩn lời lẽ sâu xa, hàm súc hơn.
Kiếm ngoại: Chỉ vùng từ Kiếm Các trở về phía nam.
Tản Quan: Cửa Tản, nay là cửa Đại Tản, tỉnh Thiểm Tây.
Dịch nghĩaSau Ngày Vợ Mất, Đi Đông Thục Nhận Chức Đến Tản Quan Gặp Tuyết Rơi
Theo đoàn quân đi xa ra khỏi Kiếm Môn,
Nhà (vợ) không còn gửi áo lạnh cho (nữa).
Ở Tản Quan (bỗng) gặp tuyết dày tới ba thước,
Nằm (cô đơn) mơ thấy (vợ ngồi dệt) bên khung cửi xưa.
Dịch thơ
Sau Ngày Vợ Mất, Đi Đông Thục Nhận Chức Đến Tản Quan Gặp Tuyết Rơi
Cửa Kiếm theo quân miết
Ai gửi áo lạnh theo?
Tản Quan ba thước tuyết
Mộng vợ dệt thương yêu
Lời bàn
Đau buồn quá cỡ! Cảm động không cùng!
Con CòBản Dịch:
Sau Khi Vợ Mất, Đi Đông Thục Nhận Chứ, Tới Tản Quan, Gặp Tuyết Rơi
Theo quân ngoài ải Kiếm,
Không còn áo lạnh đưa,
Tản quan ba thước tuyết,
Mộng máy dệt ngày xưa.
Bát Sách.
(Ngày 12/08/2025)
***
1-
Theo quân ngoài Kiếm Các
Áo ấm lẫn nhà không
Ải Tản tuyết ba thước
Mơ về dệt cửi khung!
2-
Theo quân Kiếm Các xa xôi
Nhà không, áo ấm ai người gởi đây?
Tản Quan ba thước tuyết dầy
Nhớ khung cửi cũ chiều nay mơ về!
Lộc Bắc
Theo quân xa Cửa Kiếm,
Áo gửi nhà không ai.
Ải Tản tuyết ba thước,
Khung xưa mơ ước hoài.
Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Aug. 9/2025.
***
Nhớ vợ đã mãn phần
Kiếm Ngoại nhiệm sở phương xa
Đông hàn chẳng áo gấm hoa gởi về
Tản Quan tuyết phủ tứ bề
Anh mơ em vẫn ngồi kề khung tơ
Thanh Vân
Phiên âm: Điệu Thương Hậu Phó Đông Thục Tịch Chí Tản Quan Ngộ
Tuyết - Lý Thương Ẩn Dịch thơ:
劍外從軍遠 Kiếm Ngoại tòng quân viễn Kiêm Ngoại nơi làm mới.
無家與寄衣 Vô gia dữ ký y Không nhà chốn xa xôi.
散關三尺雪 Tản Quan tam xích tuyết Quanh năm tuyết phủ trắng,
回夢舊鴛機 Hồi mộng cựu uyên ky Trong mộng nhớ khúc nôi.
Bài thơ có đăng trong các sách với tựa dài 12 chữ như bên trên:
Lý Nghĩa San Thi Tập - Đường – Lý Thương Ẩn 李義山詩集-唐-李 商隱
Lý Nghĩa San Thi Tập Chú - Đường - Lý Thương Ẩn 李義山詩集注-唐-李商隱
Đường Nhân Vạn Thủ Tuyệt Cú Tuyển - Tống - Hồng Toại 唐人萬首 絕句選-宋-洪遂
Đường Âm - Nguyên - Dương Sĩ Hoằng 唐音-元-楊士弘
Đường Thi Phẩm Vị - Minh - Cao Bính 唐詩品彙-明-高棅
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全 唐詩-清-聖祖玄燁
Riêng sách đời Tống của Hồng Toại có tựa đơn giản: Tản Quan Ngộ Tuyết 散闗遇雪.
Ghi chú:
- Điêu thương: chỉ việc thương tiếc người vợ đã mất
- Đông Thục: chỉ Đông Xuyên, thủ phủ là Tử Châu (nay là huyện Tam Đài, Tứ Xuyên)
- Tản Quan: còn gọi là Đại Tản Quan, nằm ở phía tây nam thành phố Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây
- Kiếm Ngoại: chỉ khu vực bên ngoài và phía nam Kiếm Các, tỉnh Tứ Xuyên ngày nay
- Tòng quân: chỉ việc gia nhập quân đội, LTA có đi lính thật không?
- Uyên ky: dụng cụ thêu, khung cửi
Điệu Thương Hậu Phó Đông Thục Tịch Chí Tản Quan Ngộ Tuyết
Sau Ngày Vợ Mất, Đi Đông Thục Nhậm Chức, Đến Tản Quan Gặp Tuyết Rơi
Vô gia dữ ký y
Tản Quan tam xích tuyết
I'm about to take up a new post outside Jianwai, a long journey. Without a home, you can no longer send me winter clothes.
The snow at Sanguan Pass is three feet thick. I recall the past like a dream, remembering you sitting at the old loom.
Huỳnh Kim Giám
***
Phí Minh Tâm góp thêm ý về Kiếm ngoại:
Phí Minh Tâm***
Huỳnh Kim Giám trả lời:
Huỳnh Kim Giám trả lời:

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét