Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2025

Điệu Thương Hậu Phó Đông Thục Tịch Chí Tản Quan Ngộ Tuyết - 悼傷後赴 東蜀闢至散關遇雪


Lý Thương Ẩn 李商隱 (813-858) tự Nghĩa Sơn 義山, hiệu Ngọc Khê Sinh 玉谿生, người Hà Nội, Hoài Châu (nay Tầm Dương, phủ Hoài Khánh, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Thuở thiếu thời giỏi văn thơ, được giao du với các con của tể tướng Lệnh Hồ Sở, trong đó có Lệnh Hồ Đào. Bấy giờ trong triều có hai phe đối nghịch nhau, tranh quyền đoạt lợi, một phe là Tăng Ngưu Nhu, phe kia là Lý Đức Dụ, hầu hết quan lại đều bị lôi cuốn vào cuộc tranh chấp ấy. Sở theo phe Ngưu. Năm Lý Thương Ẩn mười bảy tuổi (829), Sở tiến cử làm tuần quan mạc phủ. Năm hai mươi lăm tuổi (837), ông lại được Lệnh Hồ Đào khen ngợi, nâng đỡ nên đỗ tiến sĩ năm Khai Thành thứ 2. Năm sau ông được Vương Mậu Nguyên, tiết độ sứ Hà Dương mến tài, dùng làm thư ký và gả con gái cho. Chẳng may, Vương thuộc phe Lý Đức Dụ khiến ông trở thành kẻ vong ân bội nghĩa, xảo quyệt vô hạnh trong mắt Lệnh Hồ Đào. Vương Mậu Nguyên chết, rồi Lý Đức Dụ thất thế, ông đến kinh sư nhưng không được làm gì cả. Sau nhờ Trịnh Á vận động, ông được làm chức quan sát phán quan. Trịnh Á bị biếm ra Lĩnh Biểu, ông cũng đi theo. Ba năm sau ông lại trở về, làm truyện tào tại Kinh Triệu. Ông nhiều lần đưa thư, dâng thơ cho Lệnh Hồ Đào để phân trần và xin tiến dẫn, nhưng vẫn bị lạnh nhạt. Tiết độ sứ Đông Thục là Liễu Trọng Hĩnh dùng ông làm tiết độ phán quan, kiểm hiệu Công bộ viên ngoại lang. Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức. Như thế là ông mắc kẹt giữa hai phái, chưa hề được đắc chí trên hoạn lộ, cứ bôn tẩu khắp nơi: Tứ Xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây, Từ Châu nương nhờ hết người này đến người khác, long đong khốn khổ. Cuối cùng ông về đất Oanh Dương thuộc Trịnh Châu rồi bệnh chết năm 46 tuổi.

Văn Lý Thương Ẩn có phong cách khôi lệ ỷ cổ, thơ nổi tiếng ngang Ôn Đình Quân, nên người Đương Thời gọi là “Ôn - Lý”, hoặc ngang Đỗ Mục, nên được gọi là “tiểu Lý - Đỗ” (để phân biệt với “Lý - Đỗ” là Lý Bạch - Đỗ Phủ). Vương An Thạch đời Tống khen ngợi rằng người đời Đường học tập Đỗ Phủ mà đạt được mức “phiên ly” (rào dậu, xấp xỉ) của ông, thì chỉ có một mình Thương Ẩn. Dương Ức và Lư Tử Nghi mô phỏng thơ ông làm ra tập Tây Côn thù xướng nên có tên Tây Côn thể. Tác phẩm của ông có Phàn nam giáp tập (20 quyển), Ất tập (20 quyển), Ngọc Khê Sinh thi (3 quyển); ngoài ra còn một quyển phú và một quyển văn. Tương truyền ông có tình luyến ái với nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và các cung nữ Lữ Phi Loan, Khinh Phụng, nên ông làm bảy bài Vô đề mang tính diễm lệ, bí ẩn.

Thơ ca Lý Thương Ẩn có nhiều nét rất đặc sắc so với truyền thống thơ ca cổ điển Trung Quốc. Ông tiếp thu ảnh hưởng cổ thi, nhạc phủ Hán - Nguỵ và cả cung thể Lương - Trần. Ông cũng học tập ngũ ngôn hiện thực của Đỗ Phủ, phong cách lãng mạn của Lý Hạ cho nên thơ ông khá phức tạp cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật. 

Đặc sắc nhất trong thơ Lý Thương Ẩn là thơ tình. Với những bài Vô đề, ta thấy được đời sống tình ái của kẻ sĩ đại phu xưa. Lễ giáo phong kiến và chế độ hôn nhân không cho phép tự do, vì thế không thoả mãn yêu đương, họ có nhiều ảo tưởng và khát vọng, hoặc là mang tâm trạng ẩn ức, hoặc là sống phóng đãng buông lung. Thơ Lý Thương Ẩn ít nhiều nói lên niềm mơ ước về hạnh phúc lứa đôi và có tính chống lại lễ giáo phong kiến. Những bài thơ Vô đề của ông âm điệu nhịp nhàng uyển chuyển, tình điệu thê luơng ai oán, niêm luật nghiêm túc chỉnh tề, ngôn từ gọt dũa bay bướm, tạo nên những hình tượng tươi đẹp, sinh động, cảm xúc sâu sắc chân thành. Tuy nhiên do không thể đấu tranh đập tan những gông cùm ấy nên ông cũng như tầng lớp của ông trở nên bi quan tiêu cực, bám lấy hư vô chủ nghĩa, kết hợp với sự suy tàn của thời đại và giai cấp. 

Nguyên tác                               Dịch âm

悼傷後赴東蜀闢至散關遇雪 Điệu Thương Hậu Phó Đông Thục Tịch Chí Tản Quan Ngộ Tuyết


劍外從軍遠 Kiếm ngoại tòng quân viễn,
無家與寄衣 Vô gia dữ ký y.
散關三尺雪 Tản Quan tam xích tuyết,
回夢舊鴛機 Hồi mộng cựu uyên ky.

Chú giải:

Sách "Cựu Đường thư" chép: "Tháng bảy năm thứ năm niên hiệu Đại Trung, Liễu Trọng Dĩnh trấn ở Đông Thục, mời Lý Thương Ẩn làm tiết độ phán quan". Bài thơ này làm vào khoảng năm thứ năm niên hiệu Đại Trung (851). Mùa thu năm ấy, vợ Lý Thương Ẩn mất ở Kinh sư. Vào giữa mùa đông, Lý Thương Ẩn phải đến Đông Xuyên nhậm chức, lúc ấy vợ ông mất mới được ba bốn tháng.
Diệp Thông Kỳ nói: "Hai câu cuối ý nói trong mơ cứ nghĩ rằng vợ vẫn còn, giữa đường gặp tuyết lạnh lùng, cô đơn khiến cho nỗi đau trong lòng càng thêm thê lương". 
Kỷ Quân khen bài thơ này là "Thịnh Đường dư hưởng", nói rằng bài thơ này đối với hai câu thơ trong bài "Lũng Tây hành" của Trần Đào đời Đường "Khả liên Vô Định hà biên cốt, Do thị xuân khuê mộng lý nhân" (Thương thay đống xương bên bờ sông Vô Định, Vẫn còn là người trong mộng của cô gái buồng khuê) thật là đúng lắm, nhưng hai câu cuối của Lý Thương Ẩn lời lẽ sâu xa, hàm súc hơn. 
Kiếm ngoại: Chỉ vùng từ Kiếm Các trở về phía nam. 
Tản Quan:  Cửa Tản, nay là cửa Đại Tản, tỉnh Thiểm Tây.

Dịch nghĩa

Sau Ngày Vợ Mất, Đi Đông Thục Nhận Chức Đến Tản Quan Gặp Tuyết Rơi

Theo đoàn quân đi xa ra khỏi Kiếm Môn,
Nhà (vợ) không còn gửi áo lạnh cho (nữa).
Ở Tản Quan (bỗng) gặp tuyết dày tới ba thước,
Nằm (cô đơn) mơ thấy (vợ ngồi dệt) bên khung cửi xưa.

Dịch thơ

Sau Ngày Vợ Mất, Đi Đông Thục Nhận Chức Đến Tản Quan Gặp Tuyết Rơi


Cửa Kiếm theo quân miết
Ai gửi áo lạnh theo?
Tản Quan ba thước tuyết
Mộng vợ dệt thương yêu

Lời bàn

Bài thơ hay tuyệt đỉnh.

Câu 1:
(Vợ mới chết ba tháng mà phải) tha hương cầu thực xa vạn dặm trong mùa đông. (Mỗi mùa đông trước, vợ đều dùng tiền dành dụm cả năm để may áo lạnh gởi tới mình).

Câu 2:
(Mùa đông này), không còn ai gửi áo lạnh cho nữa (vợ đã mất rồi)

Câu 3:
Đi tới cửa Tản Quan lại gặp tuyết dầy ba thước.

Câu 4:
(Đêm nằm co ro nơi đất khách), mơ thấy vợ đang dệt trên khung cửi xưa. (Trong mơ, Lý Thương Ẩn không chấp nhận rằng vợ đã chết (psychiatry gọi triệu chứng này là denial). Con Cò dịch thoát theo ý của toàn bài là Mộng vợ dệt thương yêu. Câu này, lời thơ thì cực kỳ đơn sơ, ý thơ thì cực kỳ thê thảm; chỉ có Lý Thương Ẩn mới viết được một câu đơn sơ mà sâu thăm thẳm như vậy!

Đau buồn quá cỡ! Cảm động không cùng!  

Con Cò
***
Bản Dịch:

Sau Khi V
ợ Mất, Đi Đông Thục Nhận Chứ, Tới Tản Quan, Gặp Tuyết Rơi  

Theo quân ngoài ải Kiếm,
Không còn áo lạnh đưa,
Tản quan ba thước tuyết,
Mộng máy dệt ngày xưa.


Bát Sách.
(Ngày 12/08/2025)

***
Sau Ngày Vợ Mất

1-
Theo quân ngoài Kiếm Các
Áo ấm lẫn nhà không
Ải Tản tuyết ba thước
Mơ về dệt cửi khung!

2-
Theo quân Kiếm Các xa xôi
Nhà không, áo ấm ai người gởi đây?
Tản Quan ba thước tuyết dầy
Nhớ khung cửi cũ chiều nay mơ về!


Lộc Bắc
***
Sau Khi Vợ Mất, Đi Đông Thục Nhâm Chức Đến Tản Quan Gặp Tuyết Rơi.

Theo quân xa Cửa Kiếm,
Áo gửi nhà không ai.
Ải Tản tuyết ba thước,
Khung xưa mơ ước hoài.


Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Aug. 9/2025.

***
Nhớ vợ đã mãn phần


Kiếm Ngoại nhiệm sở phương xa
Đông hàn chẳng áo gấm hoa gởi về
Tản Quan tuyết phủ tứ bề
Anh mơ em vẫn ngồi kề khung tơ

Thanh Vân
***

Nguyên tác: 悼傷後赴東蜀闢至散關遇雪 – 李商隱

Phiên âm: Điệu Thương Hậu Phó Đông Thục Tịch Chí Tản Quan Ngộ


Tuyết -  Lý Thương Ẩn                             Dịch thơ:

劍外從軍遠 Kiếm Ngoại tòng quân viễn   Kiêm Ngoại nơi làm mới.
無家與寄衣 Vô gia dữ ký y                       Không nhà chốn xa xôi.
散關三尺雪 Tản Quan tam xích tuyết       Quanh năm tuyết phủ trắng,
回夢舊鴛機 Hồi mộng cựu uyên ky          Trong mộng nhớ khúc nôi.

Bài thơ có đăng trong các sách với tựa dài 12 chữ như bên trên:

Lý Nghĩa San Thi Tập - Đường – Lý Thương Ẩn 李義山詩集-唐-李 商隱

Lý Nghĩa San Thi Tập Chú - Đường - Lý Thương Ẩn 李義山詩集注-唐-李商隱
Đường Nhân Vạn Thủ Tuyệt Cú Tuyển - Tống - Hồng Toại 唐人萬首 絕句選-宋-洪遂
Đường Âm - Nguyên - Dương Sĩ Hoằng 唐音-元-楊士弘
Đường Thi Phẩm Vị - Minh - Cao Bính 唐詩品彙-明-高棅
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全 唐詩-清-聖祖玄燁

Riêng sách đời Tống của Hồng Toại có tựa đơn giản: Tản Quan Ngộ Tuyết 散闗遇雪.

Ghi chú:

- Điêu thương: chỉ việc thương tiếc người vợ đã mất
- Đông Thục: chỉ Đông Xuyên, thủ phủ là Tử Châu (nay là huyện Tam Đài, Tứ Xuyên)
- Tản Quan: còn gọi là Đại Tản Quan, nằm ở phía tây nam thành phố Bảo Kê, tỉnh Thiểm Tây
- Kiếm Ngoại: chỉ khu vực bên ngoài và phía nam Kiếm Các, tỉnh Tứ Xuyên ngày nay
- Tòng quân: chỉ việc gia nhập quân đội, LTA có đi lính thật không?
- Uyên ky: dụng cụ thêu, khung cửi

Dịch nghĩa:

Điệu Thương Hậu Phó Đông Thục Tịch Chí Tản Quan Ngộ Tuyết

Sau Ngày Vợ Mất, Đi Đông Thục Nhậm Chức, Đến Tản Quan Gặp Tuyết Rơi

Kiếm Ngoại tòng quân viễn 
Anh sắp nhận nhiệm vụ ở Kiếm Ngoại xa xôi,

Vô gia dữ ký y
Không nhà cửa để nhận quần áo mùa đông.

Tản Quan tam xích tuyết
Tuyết ở Tản Quan thật nhiều (dày ba thước),

Hồi mộng cựu uyên ky 
Anh nhớ lại chuyện cũ như mơ, lúc em ngồi bên khung cửi.

After Mourning, He Went To East Shu And Encountered Snow At Sanguan Pass by Li Shang Yin

I'm about to take up a new post outside Jianwai, a long journey. Without a home, you can no longer send me winter clothes.

The snow at Sanguan Pass is three feet thick. I recall the past like a dream, remembering you sitting at the old loom. 

Phí Minh Tâm
***
Góp Ý:

散關三尺雪 Tán quan tam xích tuyết

關=Tán quan, bây giờ có tên là Đại Tán quan (大散关) nằm trên Đại Tán lĩnh (大散嶺), 27 km tây-tây-nam của Bảo Kê (寶雞). Theo truyền thuyết, vùng đất này thời Tây Chu là cứ địa của Tán Nghi Sinh (散宜生), khai quốc công thần của Tây Chu, người cứu Cơ Xương (姬昌).

Trên bản đồ Google dưới đây, Trường An (Xi'An) ở góc trên bên phải; từ đó hành quân hướng Tây sẽ đi qua Bảo Kê (Baoji) trước khi đến Tán quan, chấm đỏ bên cạnh Bảo Kê. Tán quan, cùng với Vũ quan (武關), Đồng quan (潼關) và Tiêu quan (蕭關) là bốn ải địa đầu bảo vệ Quan Trung (关中四关=Quan Trung tứ quan)


và như thế Thi Viện giải thích tào lao về cụm từ 劍外= kiếm ngoại đầu bài thơ vì từ 劍=kiếm ở đây không thể đứng cho địa phận phía nam Kiếm Các; Kiếm Các là chấm đỏ (JIanmenguan) ở góc dưới bên trái chừng 250 km phía nam-tây-nam của Tán quan. Người ni không nghĩ từ 劍=kiếm trong câu đầu nói về một địa danh mà có thể hiểu như là '出劍=xuất kiếm' trong võ thuật hay truyện kiếm hiệp. 劍外從軍遠 có nghĩa là xuất kiếm, hành quân xa. Phải lặn lội chừng 150 km từ Trường An đến Tán quan, và có thể phải dùng sạn đạo. Thời Tam Quốc, Hàn Tín giật Tán quan và đánh bại Chương Hàm (章邯); rồi Gia Cát Lượng bị Tư Mã Ý (司馬懿) ngăn trở ở đây khi muốn dùng quân Thục Hán đánh chiếm Quan Trung.

Vương Yến Mỹ lìa trần chừng ba tháng trước khi chồng phải đi hành quân đất Thục trong mùa đông. Hai từ 'kiếm ngoại' đầu bài thơ giải thích lý do không thể ở nhà để tang vợ, nhưng cũng có thể hàm ý rằng Lý Thương Ẩn đang hành xử như một võ quan, không có tâm hồn thi nhân trong thời điểm này. Và có lẽ vì thế mà thay vì kể chuyện nhớ thương vợ thì ông ta lại nói đến chuyện không còn mong có người ở nhà dệt vải, may áo lạnh cho mùa tuyết! Người đời sau không biết gì nhiều về các mối tình của thi nhân họ Lý cũng phải. Hình như họ Lý đã có một người vợ trước khi được Vương Mậu Nguyên cho làm rể, và các nhà nghiên cứu nghĩ rằng trước khi lấy vợ họ Vương, họ Lý đã có người yêu là một nữ đạo sĩ khi chàng đang học tu tiên thời hàn vi, và yêu một cô ca kỹ (trong các bài thơ về "liễu chi") nhưng mất nàng vì thất hứa; nàng đành phải đi lấy chồng theo lối cô lái đò của Nguyễn Bính.

Huỳnh Kim Giám
***
Phí Minh Tâm góp thêm ý về Kiếm ngoại:

Tản Quan nằm trên đường đi từ Trường An đến Kiếm Ngoại (Tứ Xuyên).

Trang Sưu Vân giải thích như sau về Kiếm Ngoại:
Một địa danh. Thời nhà Đường, khu vực phía nam Kiếm Môn được gọi là Thư Trung. So với kinh đô Trường An của nhà Đường, Tứ Xuyên nằm phía sau núi Kiếm Môn, do đó có tên là "Kiếm Ngoại". Nhà Đường đã lập nên con đường Kiếm Nam ở khu vực này. Thời nhà Đường, Đỗ Phủ đã viết trong bài thơ "Nghe quân triều đình thu hồi Hà Nam và Hà Bắc": "Bỗng nghe tin Tế Bắc bị chiếm lại từ Kiếm Ngoại, áo tôi ướt đẫm nước mắt."

地名。唐時稱劍門以南的蜀中地區。就唐首都長安而言,四川位於劍門山外,故稱為「劍外」。唐於此置劍南道。唐。杜甫〈聞官軍收河南河北〉詩:「劍外忽聞收薊北,初聞涕泣滿衣裳。」địa danh 。 đường thì xưng kiếm môn dĩ nam đích thục trung địa khu 。 tựu đường thủ đô trường an nhi ngôn , tứ xuyên vị vu kiếm môn san ngoại , cố xưng vi 「 kiếm ngoại 」。 đường vu thử trí kiếm nam đạo 。 đường 。 đỗ phủ 〈 văn quan quân thu hà nam hà bắc 〉 thi :「 kiếm ngoại hốt văn thu kế bắc , sơ văn thế khấp mãn y thường 。」

Phí Minh Tâm
***
Huỳnh Kim Giám trả lời:

Lúc Vương Yến Mỹ lìa đời, Lý Thương Ẩn đang ở Tràng An. Câu "phó Đông Thục chí Tán quan" trong tựa đề cho ta biết họ Lý chưa ở Từ Châu, trong dịa danh Kiếm Ngoại ở Tứ Xuyên vì chưa chính thức làm chưởng thư ký trong mạc phủ của tiết độ sứ Liễu Trọng Đĩnh. Thế có nghĩa rằng câu "kiếm ngoại tòng quân viễn" không thể nói chuyện đang tòng quân ở vùng Kiếm Ngoại vì họ Lý đang trên đường từ Tràng An xuống Từ Châu, và đang bị kẹt tuyết ở Tán quan, và còn chưa tòng quân. Cho dù cụm từ tòng quân hàm ý gia nhập quân ngũ, thật sự ra họ Lý vẫn còn là một văn/thi nhân. Bài thơ này ra đời trong dịp đó, hay rất có thể sau đó, khi họ Lý ở vùng Kiếm ngoại bốn năm giữ chức thư ký quèn và không hy vọng sẽ có dịp tiến thân ở triều đình. Một điểm khó khăn chung trong việc hiểu và dịch thơ Lý Thương Ẩn là ta có rất ít dữ kiện về thời điểm và hoàn cảnh khi chúng ra đời.

Bát Sách Góp ý về Kiếm ngoại:

Mặc dù cụm từ "kiếm ngoại' xuất hiện trong vài cổ thư cho tới thời nhà Thanh, một số các nhà nghiên cứu nghĩ rằng địa danh Kiếm ngoại ở hướng bắc - thay vì nam! - của Kiếm môn/Kiếm Các. Triều đình thời Đường không chính thức đặt tên Kiếm ngoại nhưng thành lập vùng nam Tứ xuyên thành Kiếm Nam Đạo (剑南道).Bát Sách góp ý về Kiếm ngoại:
Cám ơn anh Giám đã gửi hình và các địa danh. Đọc thì rất hay, nhưng theo ý bài thơ thì Kiếm ngoại phải là một vùng đất ở bên ngoài ải Kiếm Các chẳng hạn (tôi thuộc Tam Quốc nên chỉ nghĩ tới Kiếm Các) mà không nghĩ xa được như anh Tâm.

Tôi không thấy ai nói tới chuyện Lý đã có vợ trước khi lấy Vương Yến Mỹ, chỉ thấy họ nói Lý yêu một đạo cô, và mê hai chị em Phi Loan, Khinh Phượng. Hai nàng này bị bắt làm cung nữ, Lý thất tình nên mới có mấy bài Vô Đề, nói úp mở rất khó hiểu.

Bát Sách

Huỳnh Kim Giám trả lời:

Ít ai nghĩ rằng Lý đã có vợ trước Vương Yến Mỹ, nhưng người ta phân tách thời điểm khả hữu của vài bài thơ và đi đến kết luận rằng có lẽ Lý đã có vợ nhưng không có dữ kiện trong sử liệu. Lúc còn sinh thời, ít ai biết đến đời tư của thi nhân họ Lý, một phần vì ông chỉ được các chức tước thấp kém, tới hàng thất phẩm và thường là trong các mặc phủ!

Huỳnh Kim Giám

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét