Thứ Tư, 16 tháng 11, 2022

Tiếp Cận Tư Tưởng Việt Nam (Tư Tưởng Nguyễn Du Qua Đoạn Trường Tân Thanh) - Chương III (III.2- Câu Truyện Kiều )

 

III.2- Câu truyện Kiều 

         Kiều thân phận con người


  1. Những chỉ dẫn thiết yếu để đi vào phân tích tư tưởng truyện Kiều


Việc phân tích Phần dẫn nhập, dựa vào chính bản văn của Đoạn Trường Tân Thanh, giúp chúng ta đi vào chính chủ đề mà Nguyễn Du muốn khai triển, đó là "tra vấn về chân tính của con người từ thực trạng của con người tại thế".

Câu truyện Kiều ở phần thân bài là một tượng trưng điển hình, nó chỉ có giá trị tư tưởng khi lồng vào khung của chủ đề nầy. Hệ luận của hướng nghiên cứu về truyện Kiều trước hết là tìm sự nhất quán của bản văn nối kết liên tục giữa chủ đề và chất liệu dùng làm điển hình để chứng minh. Cần lưu ý sự nhất quán nầy để hiểu những điểm độc đáo của chính tác giả:

Cũng như bao nhiêu nhà văn hào khác, luôn luôn có sẵn những truyền thống tư tưởng ảnh hưởng trên tâm tư của mình. Nhưng, một mặt tư tưởng xuất hiện trong mỗi tác giả có thể trùng hợp, ngay cả trong từ ngữ được dùng, mà không nhất thiết đã có những ảnh hưởng trên nhau; mặt khác sự thâu hoá các kiến thức do các truyền thống văn hoá khác nhau đem lại cũng không loại trừ thiên tư độc đáo của một nền văn hoá đặc loại hay một tác giả trong nỗ lực, tiếp thu, thanh lọc, tổng hợp dựa vào trực giác sẵn có nơi mình.

Thứ đến, khi dựa vào sự vay mượn một mẫu truyện Trung hoa đã có sẵn để làm chất liệu khai triển tư tưởng của mình, Nguyễn Du chân nhận nơi nguyên bản có những dữ kiện chung chung, hoặc hướng tư tưởng trùng hợp với chủ đề của mình, nhưng dù sao việc vay mượn đó có những giới hạn:

- Dù đã loại trừ hay sửa đổi nhiều chi tiết như học giả Hán Chương Vũ Đình Trác đã dày công truy cứu trong luận án Triết lý nhân bản của Nguyễn Du, nhưng không thể loại bỏ hay sửa đổi hết những nếp suy tư, thủ thuật văn chương gắn liền với tài năng sáng tác của tác giả nguyên bản.

- Một bản văn rút ra từ một cuốn tiểu thuyết cống hiến cho ta nhiều mảnh tâm tư khác nhau, được diễn tả ngôn ngữ riêng của từng nhân vật. Sự kiện đó tạo nên một kho tàng phong phú về mặt nghiên cứu tâm lý xã hội, biến chuyển về nội dung của một từ ngữ theo tâm thức của mỗi khung văn hoá, hay nhân vật khác nhau. Nhưng tính cách phong phú của lối văn nầy, nếu đối chiếu với lối văn qui ước để diễn tả tư tưởng thành hệ thống, trong đó mỗi từ ngữ được xác định trong một nội dung nhất định, thì dễ tạo nên một cảm tưởng rằng Đoạn Trường Tân Thanh có quá nhiều mâu thuẫn xét về mặt tư tưởng nhất quán của nó.

Trong nỗ lực tìm cốt lõi tư tưởng của Nguyễn Du qua Đoạn Trường Tân Thanh, được nêu rõ trong phần dẫn nhập cũng là chủ đề của tác phẩm, chúng ta sẽ đặc biệt theo sát sự nhất quán của chủ đề và tạm đóng ngoặc lại những vấn đề liên quan đến luân lý tâm lý xã hội của câu truyện.


  1. Nội dung của tượng trưng nhân vật Kiều


Kiều là hiện thân cuộc chiến giữa TàiMệnh. Trong phần giới thiệu Kiều Nguyễn Du đã đưa nàng lên mức độ cao nhất mà con người đánh giá được để diễn tả mức rốt ráo của chữ Tài:


Sắc đành đòi một, tài đành họa hai (ĐTTT, 28).


Và qua lời phát biểu của một tiểu Kiều trong giấc mộng (Đạm Tiên), nàng cũng là người đứng giải nhất trong sổ đoạn trường, nghĩa là hiện thân của nỗi đau làm người hay bạc mệnh. Nên tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh được dân gian gọi tắt là truyện Kiều lại đi đúng với chủ đề hơn những lối gọi tên khác như Thúy Kiều hoặc Kim Văn Kiều Tân Truyện. Các cách gọi tên thứ hai nhấn mạnh đến câu truyện hơn là chủ đề được Nguyễn Du nêu lên.

Nhân vật Kiều được mặc nhiên dùng để chỉ về "cõi người ta" hay thân phận con người tại thế. Nhiều câu thơ trong Đoạn Trường Tân Thanh gợi lên tính phổ quát mà nhân vật nầy tượng trưng:


Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu (ĐTTT, 107-108)


hoặc


Trời kia đã bắt làm người có thân

. . . . 

Có đâu thiên vị người nào,

Chữ tài chữ mệnh, dồi dào cả hai (ĐTTT, 3242, 3246, 3247).


Nhưng trong lối áp dụng tượng trưng có tính cách phổ quát nầy, tác giả cũng đã đùng một số qui ước văn chương đặc biệt để nhấn mạnh đến hoàn cảnh tại thế của con người, qua Kiều.

Trước hết, là hình ảnh người phụ nữ. Người phụ nữ tượng trưng cho thân phận hữu hạn tại thế của con người cũng rất quen thuộc trong các lối nói văn chương của các nền văn hoá nhân loại. Huyền thoại Trung hoa đã nói đến Nữ Oa; Thánh kinh Do thái, Kitô giáo đã luôn dùng thành ngữ con gái Sion, người nữ được Thiên Chúa sủng ái; và đặc biệt trong câu truyện lập quốc Họ Hồng Bàng, Âu Cơ là người Mẹ nhân loại, biểu thị cho thân phận con người trong thời gian. Trong Đoạn Trường Tân Thanh Kiều mặc lấy thân phận người đàn bà nói chung nầy, nghĩa là nhân loại trong "cõi người ta".


Đau đớn thay, phận đàn bà!

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.  (ĐTTT, 83-84)


Qui ước văn chương thứ hai cũng rất thường được dùng là sắc đẹp trên mặt = má hồng, hồng nhan.

Trong truyện Họ Hồng Bàng, nàng Âu Cơ được tác giả truyện ấy mô tả là "dung mạo đẹp lạ lùng". Ôn Như Hầu trong truyện Cung Oán ngâm khúc dùng chữ má đào: 


Mà xui phận bạc nằm trong má đào! (CONK, câu 4).


Chữ Tài trước hết được cô động trong sắc đẹp, mà màu sắc tượng trưng là màu đỏ, màu hồng gợi lên sự sống (màu máu huyết) của thân xác bên ngoài nơi sinh vật. Màu đỏ trên khuôn mặt, trên đôi má diễn tả cảm năng tự nhiên của con người bị thu hút bởi hình ảnh trước mắt. Trong ngôn ngữ Việt Nam, để nói đến nội dung khác so với cái đẹp hồng nhan nầy, người ta dùng chữ duyên. Duyên hàm ngụ một sắc đẹp không thấy bằng mắt, mà sau nầy Kiều nhờ đấy mà biết đến (Giác Duyên) một chân trời khác sau khi kết liễu đời mình trên sông Tiền Đường nhờ Giác Duyên cứu vớt. Dostoievski trong truyện anh em nhà Karamazov có lần đã thấy sự xung đột giữa hai thế giới qua hai sắc đẹp má hồngDuyên như sau:


"Sắc đẹp không phải chỉ là một cái gì đáng kinh hoàng, mà còn là một điều kỳ bí. Nơi ấy, quỷ chiến đấu với Thiên Chúa, và bãi chiến trường là tâm con người" .


"Má hồng" tóm lại là tượng trưng của năng lực lôi kéo Đế Lai đi tìm các của lạ ở phương Nam, là bước đi tự do của Âu Cơ quay lại phương Bắc của Đế Lai, hàm ngụ việc quên lãng Lạc Long Quân. Má hồng trong Đoạn Trường Tân Thanh là khả năng phán đoán, đánh giá của con người trong thân phận tại thế, quên lãng siêu việt tính trong Tâm mình.

Qui ước văn chương thứ ba là thành ngữ bạc mệnh. Ở trong phần dẫn nhập chỉ nói đến chữ Mệnh mà thôi. Chính vì chữ Mệnh nằm một mình không kèm theo chữ bạc đi trước, mà nhiều cuộc tranh cãi về ý nghĩa chữ nầy khi đề cập đến tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh. Ôn Như Hầu không dùng chữ Mệnh mà dùng chữ phận bạc, và đặc biệt nói rõ hơn nữa khi ghép phận bạc nầy như một thành tố của má đào:


Mà xui phận bạc nằm trong má đào" .


Các nhà nghiên cứu về đề tài nầy thường đồng hoá Mệnh trong câu hai với nội dung chữ định mệnh thường được hiểu chung chung là định luật tất yếu, máy móc, theo nguyên tắc nhân quả áp dụng cho kiến thức của ta về sự vật. Thực ra, quan niệm chung chung đó mâu thuẫn với chính cách đặt vấn đề của Nguyễn Du. Nếu định mệnh tất yếu được nêu lên như một định luật mà con người am tường được, khi A là Tài và B sẽ gặp tai họa (bạc mệnh), thì đâu là tấn bi kịch làm con người khổ đau đến đứt ruột!

Khi nghiên cứu về nội dung chữ khổ theo quan niệm của các nền văn minh cổ xưa, nhà tư tưởng Mircea Eliade đã cho thấy rằng "khổ đau" có giá trị bi kịch và làm con người suy tư khi con người chới với không biết căn nguyên từ đâu:


"Phút giây gây cấn của "khổ đau" được kết tạo ngay khi nó xuất lộ; khổ đau chỉ dấy lên nỗi bất an khi căn do của nó còn chưa thấu rõ"


Mà nếu truy xa hơn nữa về sự tương quan tài - mệnh có nguồn gốc là kiếp trước, được hiểu là một cuộc đời nào đó của chính nhân vật nầy trong một vòng quay đi trước của vũ trụ, thì về phương diện hữu thể học, lối quan niệm nhân quả mà con người vốn đã am tường lại đi trước cả sự kiện nầy. Hẳn nhiên trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh nhiều lần nói đến nợ kiếp trước nầy, nhưng nợ nầy có được hiểu trong khuôn khổ nhận thức sự vật hay không? Hay đây chỉ là một lối nói tượng trưng đưa ngôn ngữ diễn tả sự vật vào ngôn ngữ diễn đạt nhân tính (Tây phương gọi là ý nghĩa hữu thể học). Chữ "kiếp trước" theo nghĩa hữu thể học nầy trùng hợp với chữ thiên mệnh, ở chương đầu sách Trung Dung, theo nghĩa Mệnh con người làm người một cách tiên thiên bất chấp ý muốn và suy nghĩ của con người. Trong phần Tổng luận, Nguyễn Du dùng lối văn hoàn toàn độc đáo, khi phát biểu:


"Trời kia đã bắt làm người có thân.

. . . . .

Đã mang lấy nghiệp vào thân" (ĐTTT, 3242-3249).


Như thế Mệnh không phải là kết quả của một diễn tiến máy móc theo quan niệm nhân quả, hàm ngụ rằng toàn bộ vận hành nầy nằm trong một định luật tất yếu của vũ trụ mà con người có thể tự sức mình am tường được.


Quan niệm chung chung về tất định thuyết nói trên khi đề cập đến chữ mệnh dù có những tình tiết dị biệt, nhưng về mặt hữu thể học lại tương ứng với quan niệm về định mệnh thuyết của Phái Khắc Kỷ trong truyền thống Tây phương.

Theo trường phái nầy, con người nằm trong một vận hành của thế giới được điều hành bởi Lý trí phổ quát, mà trí năng suy tư của triết nhân có thể am tường được. Mọi sự xảy ra đều được điều hành hợp lý, khi vui cũng như lúc khổ đau, nên con người khôn ngoan là đón nhân một cách bình thản, không ngạc nhiên về bất cứ những gì xảy đến cho mình, vì mọi cái xảy ra đều là định mệnh.  Không thắc mắc, ngạc nhiên, nhưng vô cảm là thái độ tuyệt vời của con người am tường định mệnh thuyết. 


Nhưng, đối chiếu lại nỗi đau và những phản kháng nơi những câu dẫn nhập tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh, ta không hề thấy dấu tích về tâm tình nầy.

Người ta cũng nêu lên quan điểm nhân quả của nhà Phật.

Một điều chắc chắn là Đoạn-Trường Tân Thanh đã sử dụng rất nhiều ngôn ngữ của truyền thống tư tưởng nầy; nhưng cách hiểu của Nguyễn Du có những điều phải truy cứu thêm mới thấu đáo được vấn đề.

Nhân quả được nhà Phật nói đến nằm trong khuôn khổ của nhận thức dấy lên từ Karma, tức là hành tạo nghiệp. Con đường nầy Tất Đạt Đa đã chứng nghiệm ở giai đoạn đầu đi tìm đạo và ngài đã tìm cách diệt căn của qủa khổ khi áp dụng phương thức khắc kỷ hàm ngụ rằng nhândục nơi thân xác. Nhưng con đường suy luận nhân quả đó đưa đến bế tắc. Ngài đã ngộ tức là gặp được ánh sáng của chân tính đến với ngài bằng một hướng khác. giai đoạn giác ngộ nầy, vận hành nhân quả của Karma được ánh sáng làm cho ngài ngộ mặc khải rằng tất cả vũ trụ quan nằm trong vòng vi của giả ảo đều phát xuất từ dục; và dục tức là ước vọng con người tự làm nên mình với tài sức của mình. Chấm dứt nhận thức về thực tại nhân sinh dựa vào nhân quả để đưa con người vào chân trời tự do của chân tính siêu việt nơi đáy lòng con người đó là cốt lõi của tư tưởng nhà Phật. ít nhất đó là tư tưỏng của Nguyễn Du khi kết luận toàn bộ tác phẩm bằng cách nêu lên "Thiện căn ở tại lòng ta" (ĐTTT, 3251). 


Như thế Kiều gắn liền với Mệnh, và cũng là bạc mệnh phải được hiểu thế nào?

Nếu chữ Tài được hiểu như Đế Lai hiểu lầm phương Nam, để tìm của cải vật chất nơi ấy theo ước mơ của riêng mình, hoặc như Âu Cơ vì quên Lạc Long Quân mà quay tìm về phương Bắc của Đế Lai, nghĩa là nghiệp sai lầm căn nguyên của con người tại thế, thì chữ Mệnh hay Mệnh bạc, phải được hiểu là tự con đường đi đó đã hàm ngụ một sự chối từ phát xuất từ chân tính con người (đối chiếu lời thơ trong Cung Oán ngâm khúc).

Trước hết chữ bạc hàm ngụ một sự đối xử tàn tệ, làm mất đi niềm vui đang có. Nếu chữ Mệnh được hiểu như là chữ phận, thì âm hưởng gợi lên là thân phận được xếp đặt sẵn rồi, như phận làm tôi, làm con. Và chữ nầy ăn khớp với câu thơ ở phần Tổng luận "Trời kia đã bắt làm người có thân" (ĐTTT, 3242).

Nói cách khác thân phận làm người tiên thiên hàm ngụ cuộc chiến nầy và chính cuộc chiến ấy được Nguyễn Du gọi là nghiệp.


Đã mang lấy nghiệp vào thân.  (ĐTTT, 3249).


Nghiệp là lối nói của chữ "có thân" hay nhân tính nhập thế. M. Heidegger dùng chữ thời tính để diễn tả nghiệp hay chân tính của con người tại thế không chỉ được hiểu theo nhận định khách quan của nhận thức thường nghiệm là bị giới hạn trong một thời gian và không gian nhất định. Ý thức về giới hạn trong khuôn khổ của vũ trụ bên ngoài nhằm phân biệt vật nầy với vật khác, tự nó không dấy lên một câu tra vấn nào về chân tính con người tại thế. Hữu hạn tính chỉ đến với tư tưởng khi hàm ngụ (cảm nghiệm trước) siêu việt tính của nhân tính con người. Nói cách khác, chỉ con người mang lấy nghiệp mới cảm nghiệm được hữu hạn tính của mình, đồng thời với nỗi khổ đau phát xuất từ hữu hạn tính đó.

Và đây là ngưỡng cửa để hiểu được chữ "khổ" trong ngôn ngữ nhà Phật, cũng như khổ đau trong Kitô giáo. Nếu dùng ngôn ngữ Việt Nam chúng ta, chúng ta có thể nói rằng các sinh vật có thể có cảm giác đau nhưng chỉ có con người mới biết được khổ.

Tàimệnh bạc trong một giới hạn văn chương tượng trưng có thể chia ra hai cảnh vực một bên là hoàn cảnh vui tươi, tài sắc, và hoàn cảnh thứ hai đi tiếp theo là hoàn cảnh bi thương, ngang trái. Nhưng văn chương tượng trưng luôn sử dụng hình ảnh thế giới vật thể để gợi lên một cảnh vực con người siêu việt, nên ta phải hiểu hai hoàn cảnh, hai thời gian trước sau đó chỉ là hai đối lực tương tranh (Coincidentia oppositorum) trong nghiệp. Xem ra như là nhân quả xét theo nhận thức về thế giới vật thể, nhưng kỳ thực nói như Ôn Như Hầu "Phận bạc nằm trong má đào" rồi, Nguyễn Du cũng đã minh nhiên nhận thức như thế:


Rằng: hay thì thiệt là hay,

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào! (ĐTTT, 489-490).

Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai(ĐTTT, 1247-1248)


Và trong Tài của Kiều đã hàm ngụ "Thiên bạc mệnh" ở trong :


Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân (ĐTTT, 34)


Tính đa sầu, đa cảm của Kiều, không dừng lại ở mức tâm lý của một phụ nữ mới lớn lên, nhưng là cảm năng nhạy bén về nghiệp làm người bi thảm, nghĩa là phải lao vào cuộc chiến mà tự sức mình không hiểu nguyên do :


Lòng đâu sẵn mối thương tâm

Thoát nghe Kiều đã đầm đầm châu sa. (ĐTTT, 81-82).


Thúy Vân dừng lại ở nhận thức thường nghiệm khách quan, nên trước cảm năng nhạy bén của Kiều về thân phận con người, thì không hiểu gì hết, và phát biểu :


Vân rằng : chị cũng nực cười,

Khéo dư nước mắt, khóc người đời xưa !  (ĐTTT, 106-107).


Cũng một lối cười nầy, Lão Tử đã viết trong Đạo-Đức-kinh :


Kẻ sĩ thật sự nghe Đạo,

Cố gắng thực hành ; 

Kẻ sĩ trung bình nghe Đạo, 

Thoạt nhớ, thoạt quên ; 

Kẻ thấp nghe Đạo, 

Ha hả cười .


Vào thời hiện đại, M. Heidegger lại nói một cách khác, nhưng cũng rất chõi tai :

Khoa học về phần mình không suy tư, và không thể suy tư .


Mệnh, như thế, không thể hiểu được trong khung của thuyết định mệnh, được hiểu là một lý thuyết dựa vào nguyên tắc nhân quả ứng dụng cho nhận thức các sự vật hiện hữu trong vũ trụ tự nhiên. Dù trí tưởng tượng của con người có thể vẽ ra một kiếp trước hay kiếp sau, thì các dữ kiện đó của trí tưởng tượng cũng đặt nền trên nhận thức về sự vật trong không gian - và thời gian bên ngoài gắn liền với bản chất của nhận thức nầy. Hình ảnh tưởng tượng nói về thời gian kiếp trước chỉ là một lối nói nhằm gợi lên chân trời ẩn dấu của một thực tại là chính thân phận con người, thân phận của gánh nặng tự do : có thể nhớ nhưng có thể quên. Nói đến kiếp trước cũng như lối nói về Đại-ký-ức, tức là một thực tại ẩn dấu cũng còn gọi là "Tâm duy vi" xuất lộ cho cảm thức con người như một tiếng vọng của một quá khứ thật xa vượt lên quá khứ của thời gian ta nơi nhận thức thường nghiệm. Vì thế các nhà tư tưởng lớn của nhân loại thường dùng lối nói thi ca để chỉ về nhận thức chân tính nơi thân phận con người là sự quay trở lại (Phản phục trong lối nói của Lão, hồi đầu kiến ngạn : quay đầu thì thấy bến, của nhà Phật...)

Tài là thân phận con người có thân bước ra với vũ trụ, đồng thời khi mở ra thì lãng quên chính chân tính của mình. Nhưng tình trạng lãng quên đó chưa phải là cảm thức về chữ mệnh. Mệnh hàm ngụ có lối cảnh tỉnh dấy lên từ chân tính ẩn dấu, để con người ngộ được cái khổ khi ý thức về sự bế tắc hay lạc lầm của Tài. Nên Mệnh bạc là lối phát biểu về sự thất bại của lối mở ra, hàm ngụ sự quên lãng chân tính của con người. Nhưng tự căn con người thấy đã mang thân làm người tại thế thì tất yếu phải mở ra, không phải do tự ý mình nhưng do tự phận làm người có thân mà thôi. Đó là cảm thức về sự phi lý, con người không biết còn dựa vào đâu để trụ được, như chơi vơi giữa hố thẳm. Và mặc khải một số tôn giáo cho rằng đấy là tội căn nguyên, hay nghiệp làm người.

Nhưng trong nỗi chới với, nỗi khổ nầy, siêu việt tính hé lộ như một sự chối từ chữ Tài trong thân phận con người : tất cả thế giới tài kia không phải là chân tính, tất cả không trừ một cái gì. Vì không một cái gì dù được tôn vinh đến đâu có thể kết dệt nên chân tính con người cả. Chân tính đó thuộc chân trời của ai và những ai, siêu việt lên tất cả những cái gì cộng lại. Lý do đó cho ta thấy Kiều phải chết đi nghiệp cũ của Tài ở trước cửa nhà chân tính (sông Tiền Đường), nhờ Duyên cứu vớt để mặc lại thân phận mới của Thiện căn từ Đạo Tâm.

Mệnh bạc, nhưng trong cuộc chiến với cái vui của Tài, nó là âm vọng khai mở tư tưởng hướng về một cõi chân thật của phận làm người. Một loại khổ đau mang lại phúc lớn, như lời phát biểu của Nguyễn Du trong phần Tổng luận của Đoạn Trường Tân Thanh :


Đã mang lấy nghiệp vào thân

  Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa,

  Thiện căn ở tại lòng ta,

  Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài" (ĐTTT, 3249-3252)


Nguyễn Đăng Trúc

--------------------------------------------

30 Rút từ câu trích của N. Berdiaeff, trong L'esprit de Dostoievski, tr. 67. 

31 Sđd.

32 Mircea Eliade, le mythe de l'éternel retour, Gallimard Paris, 1969, tr. 114.

33 Đạo Đức Kinh, XLI.A. Thưng sĩ văn Đạo, cần nhi hành chi; trung sĩ văn đạo nhược tồn nhược vong; hạ sĩ van Đạo, đại tiếu chi,

34 M. Heidegger, Qu'appelle-t-on penser ? bản dịch của A. Becker và G. Granel, PUF, Paris 4 e  éd., 1983, tr. 72.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét