Chương III
Phân Tích Bản Văn
Đoạn Trường Tân Thanh
III.1- Phần dẫn nhập: Xây dựng nền tảng của tư tưởng
Chủ đề của tác phẩm
Phần dẫn nhập tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh gồm tám câu thơ, nhưng hai câu 7 và 8 là lời chuyển vào câu truyện Kiều, nên có thể nói rằng phần nầy thực sự chỉ có sáu câu chia làm 2 phần:
Nêu lên chủ đề của tác phẩm: Tác giả chỉ dùng hai câu thơ đầu để cô đọng hết chủ đề toàn bộ tác phẩm:
Trăm năm, trong cõi người ta,
Chữ Tài chữ Mệnh, khéo là ghét nhau
Câu 3 và 4 diễn rộng nội dung câu 1
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Câu 5 và 6 là một cách nói khác câu thứ 2
Lạ gì bỉ sắc, tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Học giả Vũ Đình Trác, khi đối chiếu phần nầy với nguyên tác Hán văn còn đi đến một nhận xét mạnh dạn hơn:
Nguyên văn mở đầu bằng một bài từ nói về thuyết "hồng nhan bạc mệnh", rồi kể lại những mẩu chuyện giai nhân bạc mệnh đời xưa, để phụ họa cho thuyết ấy. Nhưng Nguyễn Du chỉ nói vắn tắt bằng một câu thơ tám chữ: "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau" để nêu lên cuộc va chạm giữa Trời và Người .
Theo thiển ý của chúng tôi, câu thơ thứ nhất rất quan hệ vì hai lý do:
Toàn bộ câu truyện Kiều, đặc biệt nhân vật Kiều (và ở câu sáu là má hồng) được dùng để diễn tả "cõi người ta" ở câu 1.
Về mặt tư tưởng, chúng ta thấy tác giả xác định lãnh vực của suy tư, đó là hiện sinh con người, tức là tra vấn về cõi người ta nầy.
Vì thế, chúng tôi cho rằng Nguyễn Du dẫn nhập toàn bộ tác phẩm vào chủ đề được cô đọng trong hai câu đầu.
b- Những điểm nổi bật
trong sáu câu thơ mở đầu
Đối chiếu với hai tác phẩm bằng văn nôm đi trước và rất gần với Đoạn Trường Tân Thanh, chúng ta thấy Chinh Phụ Ngâm (bản dịch của Đoàn Thị Điểm) và Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu có nhiều chỗ tương hợp về cả ý lẫn lời văn, đặc biệt trong phần dẫn nhập.
"Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nổi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy" (CPN, câu 1-4).
"Trải vách quế, gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ-y lạnh ngắt như đồng;
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào! (CONK, câu 1-4)
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu? (CONK, câu 57-58)
Sáu câu thơ đầu của Đoạn Trường Tân Thanh rõ rệt nằm trong ngôn ngữ và ý tưởng chung của hai tác phẩm Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc. Sự kiện đó, một mặt phản ảnh một tâm tư rất cá biệt của con người Việt Nam nói chung, và rõ rệt hơn là của các nhà văn hào thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Như thế, điểm nào là điểm độc đáo của Đoạn Trường Tân Thanh và của Nguyễn Du?
- Điểm độc đáo quan trọng nhất, không phải chỉ đối với hai tác phẩm Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc, mà còn đối với hầu hết tác phẩm văn học Việt Nam khác trước đó, là việc đưa ra một chủ đề phổ quát cho thân phận con người. Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc nêu lên một hoàn cảnh đặc biệt, hoặc của một người cô phụ, hoặc của một cung phi về tuổi xế chiều, và gợi lên một nội dung tư tưởng đặc loại: sự xa cách hoặc sự dòn mỏng của kiếp người trong thời gian qua đi. Nhưng ở Đoạn-Trường Tân-Thanh, chủ đề được nâng lên ở cấp độ phổ quát của toàn bộ ý nghĩa cuộc sống, qua câu "Trăm năm, trong cõi người ta" (ĐTTT, câu 1).
Hệ quả chúng ta thấy là chữ Tài không chỉ hạn chế trong số ý nghĩa thông thường là sắc đẹp, tài năng thi phú, đàn..., và chữ Mệnh cũng không gò bó trong một số hoàn cảnh bên ngoài, thường còn gọi là số rủi may. Các hình ảnh văn chương chỉ là những tượng trưng gợi lên những diễn tiến trong cuộc vật lộn, hay nói theo Hán Chương Vũ Đình Trác là cuộc va chạm giữa Trời và Người, kết dệt nên cõi người ta.
Điểm độc đáo thứ hai là các từ ngữ được nhân cách hoá: ghét, quen thói... đánh ghen. Đoàn Thị Điểm và Ôn Như Hầu cũng có dùng thuật ngữ nầy khi nêu lên chữ "ai", kéo Trời Xanh xuống cõi người để đối chất, nhưng trong phần dẫn nhập tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh, thuật ngữ nhân cách hoá hiện diện trong mỗi câu thơ tạo nên một khung sinh hoạt đặc loại, mà Nguyễn Du gọi là "cõi người ta" hàm ngụ một lời chất vấn về chân tính con người.
c- Trăm năm, trong cõi người ta
Cảm thức về hữu hạn tính
Trong đoạn trình bày về bố cục của tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh, chúng ta xác định được rằng chủ đề chính nằm trong hai câu đầu:
"Trăm năm, trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh, khéo là ghét nhau".
Nội dung thiết yếu nằm trong câu thứ hai. Tuy nhiên nội dung đó cũng chỉ thiết định được trong cái khung khai mở ra suy tư văn hoá, tức là cảnh vực con người nằm trong câu đầu.
Điều đáng lưu ý là ở câu thứ hai, chủ tâm của tác giả không nhằm trình bày ý nghĩa hay bản chất của chữ Tài hay chữ Mệnh là gì hay thế nào, nhưng nhấn mạnh đến sự xung đột giữa Tài và Mệnh. Như thế chủ đề chính là một thảm kịch, một cuộc chiến . Và muốn rõ hơn về hai đối thủ tranh chiến nhau, thì phải tìm vết tích của chúng, một phần ở ngay từ ngữ "ghét" được nhân cách hoá và mặt khác ở trong cái khung của câu một.
Câu một có hai phần: phần đầu gồm hai chữ trăm năm, một con số chẵn tượng trưng cho mức tối đa của thời gian cuộc sống con người tại thế; phần thứ hai gồm bốn chữ trong cõi người ta.
Cõi người ta. Chữ cõi gợi lên một không gian, hoặc tách rời khung cảnh sống chung như cõi biên cương, cõi xa xôi, hoặc giới hạn vào một thế giới đặc loại như cõi trần, cõi tiên...; người ta, theo nghĩa thông thường được hiểu là chung chung cho mọi người hàm ngụ một cách biệt nào đó với tôi.
Chẳng hạn:
"Người ta đi cấy lấy công
Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề".
Hoặc: Người ta nghĩ vậy, còn tôi nghĩ khác.
Tính cách chung chung nầy, khi đưa vào lãnh vực tư tưởng, thường được gọi là dư luận (theo lối nói của Platon), hoặc ngay cả dùng lại chữ nầy (tiếng Pháp gọi là "le on dit") để nói đến một lối suy tư thiếu phản tỉnh (xem cách trình bày của Heidegger).
Nhưng ở đây người ta, cũng không phải là dư luận cũng không phải kết hợp giữa hai chữ người và ta, mà nối kết trong toàn bộ bốn chữ trong cõi người ta; và tiếp sau hai chữ trăm năm, nó chỉ có nghĩa là con người.
Hai phần nầy của câu thơ đầu làm nên thời gian - không gian hạn định thế giới của tư tưởng.
Quan niệm về thời gian - không gian để nói lên một toàn khối cống hiến sự nhất thống cho nhận thức không phải là một sáng kiến mới mẻ. Tiếng Trung Hoa dùng lối nói vũ trụ (Vũ biểu thị không gian, trụ biểu thị thời gian) để chỉ toàn khối nầy; còn Kant thì gọi thời gian - không gian là là những hình thái tiên thiên của trực giác tạo điều kiện cho việc nhận thức các đối tượng của tri thức sự vật.
Nếu không gian - thời gian là một trực giác phổ biến làm nên khung của nhận thức, thì sự giới hạn một loại không gian, một loại thời gian đặc loại, cũng như việc nêu cảnh vực nầy ở đầu tác phẩm, là những yếu tố có tầm vóc quan trọng buộc ta phải đào sâu ý nghĩa.
Qua công việc phân tích của các bản văn trong cuốn I của tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính, chúng tôi cũng đã khám phá được rằng ưu tư văn hoá trong các bản văn ấy không phải là truy tìm bản chất hay nguồn gốc của mọi vật theo nhận thức dựa vào nguyên tắc nhân quả; nhưng ưu tư văn hoá được gói gọn trong việc mô tả các trực giác về các mối tương quan của hữu thể con người.Trong Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du lại nói rõ hơn nữa về mối ưu tư đặc loại nầy của tư tưởng: Cảnh vực thiết yếu trong đó tư tưởng đến với con người là chính cuộc đời con người chứ không ở nơi nào khác.
Nhưng nếu hai tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái và Đoạn Trường Tân Thanh nêu lên cảnh vực hiện sinh con người, thì không có nghĩa là hai tác phẩm nầy chỉ biết đến một lãnh vực trong ba lãnh vực của bộ môn siêu hình học Tây phương (vũ trụ, con người và Thượng đế).
Để có thể am tường sự khác biệt tinh tế nầy, chúng ta thấy trong tiến trình lịch sử triết học Tây phương, Kant đã dày công kiểm thảo nền tảng của truyền thống tư tưởng ấy và đi đến kết luận:
Khung của triết học, theo ý nghĩa toàn bích nầy của nó, qui về bốn câu hỏi sau đây:
1- Tôi có thể biết gì ?
2- Tôi phải làm gì ?
3- Tôi hy vọng được điều gì ?
4- Con người là gì ?
Qua câu hỏi cuối cùng của Kant, chúng ta thấy truyền thống triết học Tây phương đã quay lại khởi nguyên câu hỏi của Socrate, đã lấy con người làm ưu tư tối hậu cho tư tưởng; nhưng trong sự quay lại đó, Kant vẫn bị ràng buộc với đường mòn siêu hình học cũ khi nêu lên "con người là gì?". Chữ là gì (=quid) trong câu nầy phản ảnh tiền kiến về một sự am tường về thế giới chung của hữu thể (= cái gì) mà con người được nêu lên để đối chiếu.
Tiếp sau thời phục hưng Tây phương, trào lưu nhân bản dần dà được triển khai về mọi mặt trong lịch sử văn hoá nhân loại. Nhưng xuyên qua các câu hỏi rốt ráo cuối cùng Kant nêu lên để thiết định lại nền tảng siêu hình học truyền thống Tây phương, ta thấy mặc dù lấy "Con người" làm "bản", nghĩa là con người trở thành ưu tư tối thượng và nền tảng của tư tưởng, thì con người đó cũng không vượt qua khỏi tiền kiến của một câu hỏi tiên thiên - nó là gì? -, nói một cách khác cái gì (quid) đã được mặc nhiên nhìn nhận như một nền tảng đã có sẵn trong tầm tay con người để "con người" có thể qui chiếu.
Câu chuyện Bánh chưng trong quyển I Lĩnh Nam Chích Quái cống hiến một lối giải thích chu đáo về sự khác biệt giữa trực giác về nhân tính trong văn hoá Việt Nam và những quan điểm về con người trong các nền nhân bản đang thịnh hành.
Vua Hùng Vương thứ ba muốn truyền ngôi báu (tượng trưng cho Vương đạo, tức là nhân tính con người) cho 22 người con. Ngài ra lệnh cho các con đi tìm lễ vật nào ngài vừa ý nhất để truyền ngôi báu. Hai mươi mốt (21) vị đã dựa vào tài sức của mình đi tìm được nhiều loại lễ vật vàng bạc, châu báu...chỉ có Lang Liệu lắng nghe lời thần dạy làm bánh dày - bánh chưng, tượng trưng cho Đất - Trời - Người kết hợp, nên được vua cha truyền ngôi Vua.
Các nền nhân bản đang phổ biến đã tiền kiến ngôi vua (tức là tượng trưng của nhân tính) có thể ví như một cái gì quý giá nhất mà tài sức mình đánh giá được để có thể sang đổi. Họ đã dựa vào sự giúp đỡ của các quan lại thân thiết, cũng như nỗ lực tìm tòi của mình, và cũng dựa vào giá trị của các phẩm vật quý giá bên ngoài. Nhưng với Lang Liệu, chàng thấy hụt chân vì không thấy được có cái gì theo sự hiểu biết của chàng trong vũ trụ nầy có thể đẹp được lòng vua cha. Chàng theo lời thần nhân, khởi đầu với nhân tính qua mối tương giao trời Đất - Trời - Người mà tượng trưng là hai chiếc Bánh dày - Bánh chưng và hoàn thành các mối tương giao đó, nên đạt được Vương Đạo.
Với câu truyện tượng trưng nầy, chúng ta thấy ưu tư của văn hoá, của tư tưởng nơi Vũ Quỳnh, nơi Nguyễn Du không phải xây dựng một nền nhân bản nào đó, một loại nhân bản trong muôn ngàn nền nhân bản ngày nay, tiền kiến rằng con người là một cái gì, dù cao quí hơn những cái gì chung quanh nó, nhưng vẫn đặt nền tảng trên "cái gì" nói chung.
"Trăm năm trong cõi người ta" là thế giới của những con người, những ai, như có một sự xa cách hữu thể học đối với những gì trước mắt, làm ta suy tư. Trong kỹ thuật văn chương, Nguyễn Du dùng thuật ngữ nhân cách hoá ở phần dẫn nhập để đưa đọc giả vào cảnh vực đặc loại nầy. Một lời nói làm ta vui, ta hy vọng, ta ghét, ta giận...chỉ có thể cảm nghiệm được trong "cõi người ta"; nó không có một cứ điểm nào trong thế giới những cái gì nào đó để thiết định cả. Và chính cái lạ kỳ của sự kiện nhỏ nhoi đó cũng cho thấy nét "linh ư vạn vật" của nhân tính, và cảnh vực riêng của sinh hoạt gọi là văn hoá và tư tưởng.
"Trăm năm trong cõi người ta", cảnh vực giới hạn đó có gì khác với "hai chục năm, vài trăm năm tuổi thọ tối đa của một sinh vật nào đó trong thiên nhiên, cây cỏ, thú rừng..., với những sinh hoạt riêng thuộc giống loại của chúng"?
Trên bình diện gọi là khoa học khách quan, hay nhận thức đặt nền tảng trên câu hỏi căn nguyên là "cái gì", hai đối tượng truy cứu nầy không có gì khác nhau.
Thời hạn của một sinh vật sống chỉ được 5, 10 phút hay vài trăm năm đến với con người như một nhận thức của một sự hiểu biết gọi là vô tư. Nếu thi ca có đặt thành vấn đề phù du của tạo vật, thì không phải vấn đề phát xuất từ sự kiện bên ngoài để đối chiếu với thân phận hữu hạn của cuộc đời con người. Cảm thức về hữu hạn tính thực sự chỉ xuất hiện ra trong "cõi người ta", hàm ngụ một tâm tình bất an: nhận thức hữu hạn đó bị chính chủ thể từ khước, không thể nào chấp nhận được. Sự chối từ căn nguyên nầy biểu lộ qua chữ "không" căn nguyên tạo nên một tranh chấp, va chạm với nhận thức của chính mình.
Và kinh nghiệm nầy được diễn tả rất linh hoạt trong tư tưởng của Lão tử về cái "Vô" căn nguyên, cũng như trong từ ngữ Polemos (cuộc chiến) của Héraclite.
Cũng như lối nói truyền thống Hy lạp về Nỗi nhớ căn nguyên hay Đại-ký-ức, tác giả chuyện Họ Hồng Bàng đã từng dùng lối văn tượng trưng để diễn tả cảm thức về hữu hạn tính và những con đường khác nhau của tư tưởng.
Hai nhân vật tượng trưng cho ý thức hữu hạn tính là Đế Lai và Âu Cơ.
Đế Lai tuy đang trị vì phương Bắc, nhưng "sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ".
Phương Bắc là tượng trưng cho giới hạn tự nhiên cho cảnh vực con người, nhưng tự trong giới hạn nầy, nỗi nhớ phương Nam dấy lên trong người mình buộc Đế lai phải ra đi.
Nhưng nổi nhớ có sức đưa Đế Lai về phương Nam cũng đồng thời xuất hiện với chủ tâm riêng của Đế Lai:
Vất bỏ Âu Cơ một mình
Chu lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình thể...để vơ vét thật nhiều của.
Phương Nam của cảnh vực siêu việt con người nay bị chuyển thành phương Nam của toàn thể các sự vật mà mình ham muốn.
ở đây một lần nữa cho thấy có sự tương hợp giữa cách đặt vấn đề của Đế Lai và nền nhân bản phát xuất từ Kant. Thế giới vô tận làm khung cho nhận thức siêu nghiệm của Kant là không gian vô tận, thời gian vô tận nhằm giúp con người thu thái càng ngày càng nhiều kiến thức về sự vật. Trong Kant chúng ta cũng thấy nhận thức siêu nghiệm được khám phá đồng thời với ý thức về hữu hạn tính của con người. Nhưng ngay cả ở trong đặc tính hữu hạn nầy, tư tưởng Việt Nam có những điểm khác biệt với tư tưởng Kant:
Nhận thức hữu hạn của Âu Cơ là nỗi cô đơn, không những bị nhốt một mình trong trại của Đế Lai, mà cảm thức thiếu vắng mối tương giao với một ai khác. Nàng chung mang nỗi khổ của nhân dân nước Nam và đêm ngày mong đợi Long Quân. Từ thân phận hữu hạn nầy, nàng được Lạc Long Quân đột nhiên đến, nâng nàng lên thân phận đồng sàng với Thần thánh, thể hiện trọn vẹn nhân tính.
ở vào đoạn khác, cũng nhân vật Âu Cơ và cũng ở trong một hoàn cảnh diễn tả hữu hạn tính của thân phận nàng; nhưng ở đây Âu Cơ nằm trong một cuộc tương tranh khi thì vừa muốn mặc lấy tâm tình của Đế Lai, khi thì vừa giữ lấy tâm tình Âu Cơ ở đoạn đầu. Lúc ở một mình, vì vắng mặt Long Quân đang ở Thủy phủ, nàng lại đem con trở về Bắc Quốc của Đế Lai, nhưng vì con đường đó bít lối, nàng lại quay đầu về phương Nam kêu cứu Long Quân.
Tác giả Lĩnh Nam Chích Quái chọn hai phản ứng tiêu biểu đối nghịch nhau trước cảm thức về nhân tính dấy lên từ kinh nghiệm hữu hạn của thân phận con người, sau đó mới đưa vào cõi thực của nhân sinh như một cuộc chiến giữa hai đối lực. Nhưng trong mỗi một lối trình bày, ta luôn thấy tư tưởng phát xuất từ hai yếu tố bất khả phân ly: siêu việt và hữu hạn, nỗi nhớ Một phương Nam ẩn dấu, hay sự hé lộ của siêu việt tính, xuất hiện khi con người chạm trán với thân phận hữu hạn của mình.
Nơi Đoạn Trường Tân Thanh ta không thấy tác giả minh nhiên nêu lên trực giác về nỗi nhớ hay siêu việt tính đi trước theo lối văn chương diễn dịch cổ điển của Trung hoa, Hy lạp hay cả trong Lĩnh Nam Chích Quái; trái lại tác giả dùng lối diễn tả hiện thực, khởi đầu từ việc chứng kiến cuộc chiến đang xảy ra trong cuộc đời, cảm nhận nỗi đau, và từ đó đưa ra một nhận định theo khả năng hạn chế của thân phận hữu hạn của mình. Có thể nói đây là bước đi của Âu Cơ đi về phía Bắc của Đế Lai và đang gặp bế tắc, nhưng chưa từng ngộ được Long Quân trong Đại-ký-ức. Siêu việt tính vẫn ở cận kề, nhưng tương quan với hiện sinh như một sự vắng mặt, một sự làm thinh phi lý xét về phía con người. Sự bất tương hợp Tài - Mệnh, nỗi đau về tình trạng phi lý và không có cách gì cứu gỡ được nầy, dấy lên nỗi phẫn uất hoặc than oán qua những chữ dùng rất mạnh được nhân cách hoá, ở phần dẫn nhập nầy: ghét, ghen. Trong truyền thống văn hoá nhân loại, ta chứng kiến lối nói nầy của Job (sách Job trong Thánh kinh Do-thái) Prométhée (trong kịch bản Prométhée bị trói của Eschyle) hoặc trong các tác phẩm của Nietzsche. Trong phần truyện Kiều, cũng như các tác phẩm đương thời của văn học Việt Nam như Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, trong mỗi hoàn cảnh hữu hạn phi lý, các tác giả không ngại diễn tả phản ứng bực dọc:
- Phũ phàng chi mấy Hoá công!
Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha (ĐTTT, 85-86).
- Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn
Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay? (ĐTTT, 411-412)
- Mặt trông đau đớn rụng rời
Oan nầy còn một kêu Trời, nhưng xa! (ĐTT, 595-596)
- Trăng già độc địa làm sao?
Cầm dây chẳng lựa, buộc vào tự nhiên! (ĐTTT, 687-688)
- Hoá nhi thật có nỡ lòng
Làm chi dày tía, vò hồng lắm nao! (ĐTT, 1129-1130)
- Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy (CPN, 3-4)
- Trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán
Chết đuối người trên cạn mà chơi (CONK, 73-74)
Tóm lại cảm thức hữu hạn tính là một trực giác căn nguyên gắn liền với "cõi người ta", dấy lên một cuộc chiến nội tâm, khai lộ nhận thức về lời tra vấn liên quan đến chân tính con người. Và sáu chữ đầu của Đoạn-trường Tân thanh đã cô động toàn bộ chủ đề nền tảng đó của tư tưởng.
d- Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
Đây là câu tra vấn nền tảng về chân tính con người tại thế.
Câu thứ hai là chủ đề, nêu lên sự kiện thiết yếu buộc con người phải suy tư. Riêng vị trí ở câu hai gắn liền với câu đầu định vị "cõi người ta", ta thấy sự kiện đó không phải là một kinh nghiệm hậu thiên, của một sự việc đã xảy ra rồi, nhưng xuất hiện như một trực giác căn nguyên, một khả năng tiềm ẩn nơi tâm con người trong thân phận tại thế của nó. Nếu đối chiếu với bố cục của truyện Kiều ở phần thứ hai, ta càng thấy rõ hơn. Trước khi chứng kiến Tài và Mệnh xung khắc qua những giai đoạn khổ đau sau nầy của mình, Kiều đã tiền cảm "một thiên bạc mệnh":
"Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân" (ĐTTT, 34).
Ta cũng gặp lại cảm thức nền tảng và căn cơ đó trong một câu thơ hầu như đương thời nơi Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu:
"Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra" (CONK 55-56).
Hơn thế nữa, trực giác nầy không hướng đến một hoàn cảnh riêng biệt để dừng lại trong một sự kiện cá biệt; nhưng trước một kinh nghiệm nhất định, nó tiếp nhận ngay yếu tính toàn bích của "cõi người ta". Trong câu truyện Tất Đạt Đa gặp một số cảnh tang thương của những kẻ ngoài phố cho ta một thí dụ điển hình. Từ những kinh nghiệm nhất định nầy, Ngài đã chứng ngộ được yếu tính căn cơ về cuộc đời là hữu hạn, bất tất và khổ. Kiều cũng có một kinh nghiệm tương tự, khi đứng trước một ngôi mộ vô chủ:
"Đau đớn thay, phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh của là lời chung (ĐTTT, 83-84).
Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu" (ĐTTT, 107-108)
Đáng lưu ý nữa là trong câu "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau", điểm nhấn mạnh cũng còn là lời tra vấn buộc mọi người phải giải đáp ở đây không phải là câu hỏi nhằm tìm hiểu bản chất của chữ tài hay chữ mệnh, nhưng là thắc mắc về tương quan xung khắc của hai đối lực trong nội tâm con người tại thế.
Nếu Hécraclite dùng chữ cuộc chiến (Polemos) thì thánh Augustinô lại dùng chữ bất an (Cor inquietum), Kierkegaard đã dùng chữ khắc khoải và từ ngữ nầy được dùng lại trong lối diễn tả của M. Heidegger.
Trong truyện Họ Hồng Bàng, có hai chi tiết trùng hợp với câu thơ nầy về ý tưởng. Trước hết là ý nghĩa tên gọi Âu Cơ, tượng trưng của hiện sinh bất an của con người, và chi tiết thứ hai là sự mâu thuẫn dồn dập nơi thái độ Âu Cơ khi Long Quân vừa vắng mặt: Tuy nhớ Long Quân, nhưng Âu Cơ lại quay về phương Bắc của Đế Lai và bị Hoàng Đế ra lệnh chậm lại nên bí lối.
Cuộc chiến "nội tâm" dấy lên nhằm tra vấn về một nội dung duy nhất: đâu là chân tính của con người để vượt thắng nỗi bất an nầy?
Câu trả lời phát xuất từ tài sức và trí tưởng tượng của con người: là hẳn phải do một đối lực đầy quyền uy nhưng xa cách và ghen ghét, thù oán, thân phận con người tại thế:
"Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen (ĐTTT, câu 6)
Nếu đối chiếu với truyện Họ Hồng Bàng, ta thấy rõ rệt có một sự khác biệt về phẩm tính gán cho siêu việt tính hay Trời xanh, hoặc Lạc Long Quân, trong hai tác phẩm. Lạc Long Quân ở truyện Họ Hồng Bàng là người đến trước nâng con người lên địa vị thần thánh, luôn gia ơn và gần với con người mặc dù ẩn kín. Trong Đoạn Trường Tân Thanh, ở phân dẫn nhập, (cũng như trong Chinh-Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc) Trời xanh, tuy vẫn ẩn dấu, nhưng luôn xa cách và xuất hiện gián tiếp qua Mệnh (thường hiểu là bạc mệnh) như một đối thủ oan nghiệt với con người. Tuy kết luận hai bên sẽ đồng qui (chúng ta sẽ trở lại vấn đề nầy khi phân tích phần tổng kết) nhưng vì hai tác phẩm mỗi bên nhấn mạnh đến một lãnh vực sinh hoạt khác nhau của nhân tính, nên có hai lối diễn tả:
Ở truyện Họ Hồng Bàng, tác giả đi từ nguyên thủy nhân tính ghi ở Đại-ký-ức con người; chân tính ẩn dấu mặc dù thực tại của lịch sử lãng quên nhưng được nêu lên trước để làm nền. Và, lối văn được diễn tả là lối văn huyền thoại. Nó đi từ khung cảnh tích cực từ phía siêu việt tính, để khai mở cho thấy điểm tiêu cực của lịch sử qua cuộc phiêu lưu về phương Bắc của Âu Cơ.
Ở phần dẫn nhập Đoạn-Trường Tân-Thanh là lối văn tả thực, bám sát vào hiện sinh tại thế đang gặp phải cảnh bí lối, bất an, hàm ngụ trước hết siêu việt tính đang vắng mặt một cách phi lý đi từ nhận thức lầm lạc cố hữu của con người. Nhưng chính từ cảm thức bất an, bí lối đó, toàn bộ nhận thức, cảm xúc và ngay cả phán đoán nhất thời của con người, được đặt thành câu hỏi trường kỳ về nhân tính. Nếu ở truyện Họ Hồng Bàng, con người đã được diễn tả đến mức độ thần hoá (không ăn, không bú mà tự nhiên trường đại), thì ở phần dẫn nhập của Đoạn Trường Tân Thanh ta thấy hiện tượng siêu việt tính là Trời xanh lại mang thân phận hữu hạn của chính con người (= quen thói mà hồng đánh ghen).
Trong cuộc sống của con người, và đặc biệt của người Việt Nam, chúng ta thường xuyên gặp lại hai phương cách diễn tả nầy về mối tương giao với siêu việt.
Khi đã lưu ý đến điểm chủ yếu của toàn câu thơ nằm ở phần "khéo là ghét nhau", thì chữ Tài chữ Mệnh sẽ được hiểu trong khuôn khổ của toàn bộ nhân sinh; nghĩa là một khung trời hay con đường đi của con người (tài) và một câu trả lời của một đối lực ẩn dấu cũng ở trong mình, phủ định con đường mình đang đi (đó là mệnh).
Với cách đặt vấn đề bi tráng và rốt ráo về thân phận con người tại thế đối chất với trực giác về sự vắng mặt hay ẩn dấu của chân tính, Nguyễn Du, qua phần dẫn nhập Đọan Trường Tân Thanh đã đưa nền văn học Việt Nam vào mức cao điểm của những ưu tư nền tảng về tư tưởng hướng dẫn cuộc sống nhân loại.
Nó phản ảnh hai chân trời tương phản của ngài Tất Đạt Đa, con người trong hoàng cung và con người khắc kỷ tìm Đạo để chứng nghiệm bế tắc trước khi gặp chân trời giải thoát mới.
Nó diễn đạt hùng hồn những câu văn nghịch lý của Đạo-đức-kinh về cõi "thiên hạ", để làm nổi bật "Đạo thường ẩn dấu" khác với "Đạo khả đạo" của nhân vi.
Nó phác họa những lý chứng được xem là tự nhiên của "tâm duy nguy" trong thế giới hữu hạn của "bá đạo" để tra vấn về siêu việt tính "duy vi" của Tâm đạo.
Nó cô động lối nói về cuộc chiến nguyên sơ của Héraclite, để gợi lên sự giả tạo, thiếu nền tảng của niềm vui hài hoà dựa vào nỗ lực của tài trí con người, để hướng tư duy về một Logos ẩn kín, siêu việt, mà tiếc thay truyền thống triết học Tây phương đã đồng hoá với khả năng luận lý trong tầm tay của lý trí con người: "Chữ Logos mà người ta hiểu, không bao giờ biết được, trước khi nghe nói đến cũng như sau khi đã được nghe" ; "Sự hài hoà ẩn kín có giá trị hơn nhiều so với sự hài hoà trước mắt" ; "Về chữ Logos mà người ta biết được, và Logos bao trùm tất cả, hai bên xung khắc nhau, và điều mà người ta đều phải hiểu thì lại còn xa lạ với họ" ; "Sự sắp xếp có đầu đuôi (theo khả năng con người) dù đạt đến mức hoàn hảo tốt đẹp nhất cũng chỉ là một đống phân được tổng hợp lại do may rủi" .
Nó là nội dung thiết yếu của tư tưởng Sophocle trong đại tác phẩm "Oedipe vua", diễn tả sự xung khắc rõ rệt giữa Tài và Mệnh và nỗi đau thống thiết của kiếp làm người trước sự phi lý của hiện sinh mà không có cách gì giải nổi.
Nó cũng là cảm thức phẫn nộ của Promethée trong tác phẩm "Prométhée bị trói" của văn hào Eschyle, một nhân vật tượng trưng đã tận lực phục vụ cho hạnh phúc và tiến bộ của nhân loại, nhưng bị đọa đày bởi Trời xanh Zeus.
Nó thể hiện linh động tình trạng mâu thuẫn của tư tưởng Socrate, vừa cổ súy con người "hãy tự biết mình" vừa tự thú là điều thực sự mình biết là mình không hề biết gì cả!
Nó là nỗi khắc khoải của nhà tư tưởng thánh Augustinô, khi tự thú: "Tâm hồn chúng con khắc khoải, bất an".
Nó gần gũi với thái độ được xem là khôn ngoan của con người đau khổ Job, khi bất chấp mọi lý chứng truyền thống, đã kêu lên với Trời xanh để tra vấn về sự phi lý của thân phận con người vô tội đang bị định mệnh oan nghiệt đổ trên mình.
Nó đi vào thân phận tự do kinh hoàng của con người theo lối nhìn của Dostoievski, qua một lăng kính tinh thần xa lạ với cái nhìn về con người "nhân bản" phát xuất từ thời Phục hưng Tây phương. Thân phận con người tinh thần, tự do bi thương đó được triết gia Nicolas Berdiaeff diễn tả như sau:
"Shakespeare, nhà tâm lý tuyệt vời, vẫn là nhà tâm lý của nghệ thuật nhân bản.
Còn Dostoievski lại xuất hiện vào một thời đại khác của thế giới, ở một giai đoạn khác của nhân loại. Nơi ông con người cũng đã chấm dứt tình cảm thuộc về vũ trụ khách quan mà Dante đã từng dừng lại.
Tiếp diễn qua Thời Tân Kỳ, con người đã tự định vị mình trên mặt đất, tự nhốt mình trong một vũ trụ thuần con người - Thiên Chúa, quỷ, trời xanh và địa ngục đã bị đẩy lui vào cõi bất tri, không còn liên hệ đến cõi trần nữa, đến độ tất cả những thực thể đó mất hết dấu tích. Con người bây giờ trở thành một tạo vật trơ trẽn với hai chiều kích, con người đã mất đi chiều kích của siêu việt tính thâm sâu. Chỉ còn sinh hồn (là đối tượng tâm lý), còn thần trí (linh hồn) của nó như đã biến đi đâu rồi. Nhưng, một ngày nào đó, các sinh lực sáng tạo, niềm vui đã khởi phát và tô điểm cho thời đại Phục hưng, cạn đi. Con người cảm thấy nền đất dưới chân mình không còn vững chãi và kiên cố như mình tưởng. Từ chiều sâu ẩn kín nầy, những tiếng vọng bỗng nhiên bật vang lên, sự hiện hữu của miền nằm sâu dưới từng đất nầy và bản chất núi lửa phun trào của nó bắt đầu xuất lộ. Một hố thẳm mở ra từ đáy vực của lòng con người, và bây giờ Thiên Chúa và quỷ thần, Trời xanh và địa ngục sẽ tái xuất hiện. Trước hết, trong cõi thâm sâu nầy người ta sẽ chập chững di động: ánh sáng ban ngày dành riêng chiếu dọi thế giới của sinh hồn và thế giới vật chất bắt đầu tàn lụi, nhưng ánh sáng mới vẫn chưa sáng rực lên" .
Câu "chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau" đánh dấu trực giác của ngày mà ánh sáng ban ngày của tài sức con người đang tàn lụi và cũng là ngày mà tự đáy vực của siêu việt tính thâm sâu dấy lên tiếng vọng chất vấn con người phải suy tư về chân tính trọn vẹn của mình. Ánh sáng của chân tính chưa rực lên, nhưng âm vọng của nó đã đến trong sự chối từ trật tự hoan lạc, hữu lý của ánh sáng ban ngày của con người (= tài). Cảm thức về sự phi lý của cuộc đời và nỗi đau nguyên sơ nầy là ngưỡng cửa đi vào "Nhà chân tính siêu việt", tức là ngưỡng cửa Tiền Đường.
Lối dẫn nhập đó của Đoạn Trường Tân Thanh làm ta liên tưởng đến lời than oán của tác giả Thánh vịnh trong bản văn Cựu ước mà Con Người Giêsu đã dùng để kêu lớn tiếng trước khi chết trên thập giá: "Êli, Êli lema sabakthani": lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi! nhân sao Ngài lại bỏ tôi? (Mt. 27, 46).
20 Hán Chương VŨ ĐÌNH TRÁC, Triết lý nhân bản Nguyễn Du, tr. 270.
21 Theo lối nói của Héraclite là Polemos.
22 Kant, Oeuvres, (Cass.) VIII, p. 343.
23 Xem Nguyễn Đăng Trúc, Tiếp cận Tư tưởng Việt Nam , quyển I, Phần 2.
24 Héraclite, Fg. 1.
25 Sđd, Fg. 54
26 Sđd, Fg. 72.
27 Sđd, Fg. 124.
28 Nicolas Berdiaeff, L'esprit de Dostoievski, bản dịch của Alexis Nerville, ed. Stock, Paris, 1974, tr. 54-55.
29 Tv. 22, 2.
(CÒN TIẾP)
---O0O---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét