Nguyên bản Dịch âm
自君之出矣其一 Tự Quân Chi Xuất Hĩ Kỳ 1
自君之出矣 Tự quân chi xuất hĩ,
千山只等閒 Thiên San chỉ đẳng nhàn.
托與相思夢 Thác dữ tương tư mộng,
一宵數迴還 Nhất tiêu sổ hồi hoàn.
Tác giả:Khuyết Danh
***
Chú giải
宵 tiêu, tiểu: Có 2 nghĩa: 1. Đêm, thí dụ: trung tiêu 中宵 nửa đêm. 2. Nhỏ bé, kẻ tiểu nhân gọi là tiêu nhân 宵人.
數 sổ: Đếm, tính. Thí dụ: Trang Tử 莊子: Phún tắc đại giả như châu, tiểu giả như vụ, tạp nhi hạ giả, bất khả thắng sổ dã” 噴則大者如珠, 小者如霧, 雜而下
者, 不可勝數也 (Thu thủy 秋水) Phun ra giọt lớn bằng hạt trai, giọt nhỏ như hạt sương mù, lộn xộn rơi xuống, không thể đếm xuể.
Dịch nghĩa:
Từ Thuở Chàng Ra Đi Kỳ 1
Từ khi chàng ra đi,
Những lúc nhàn dỗi thiếp chỉ nhìn ngàn núi.
Đem nỗi nhớ gởi trong mộng,
Mỗi đêm ngóng chàng về.
Dịch thơ:
Từ Thuở Chàng Ra Đi Kỳ 1
Từ khi chàng xa thiếp,
Ngàn non buồn tái tê.
Tương tư đành gởi mộng,
Mỗi đêm ngóng chàng về.
***
Nguyên bản Dịch âm
自君之出矣其三 Từ Khi Chàng Ra Đi Kỳ 3
自君之出矣 Tự quân chi xuất hĩ,
紅妝誰人看 Hồng trang thuỳ nhân khan.
可憐石榴裙 Khả liên thạch lựu quần,
久置心亦寒 Cửu trí tâm diệc hàn.
Chú giải
置 trí: ① Ðể, cầm đồ gì để yên vào đâu đều gọi là trí. ② Vứt bỏ, như phế trí
廢置 bỏ đi, các trí 擱置 gác bỏ.
③ Yên để, như thố trí 措置 đặt để, vị trí 位置 ngôi ở, nghĩa là đặt để ngôi nào
vào chỗ ấy. 久置 cửu trí: mặc, bận lâu.
Dịch nghĩa
Từ Khi Chàng Ra Đi Kỳ 3
Từ khi chàng ra đi,
Thiếp trang điểm cho ai nhìn?
Khá thương cho cái quần màu thạch lựu (đỏ),
Càng bận lâu lòng càng lạnh lùng.
Dịch thơ
Từ Khi Chàng Ra Đi Kỳ 3
Từ khi chàng xa thiếp.
Trang điểm để ai nhìn?
Khá thương quần thạch lựu,
Càng bận càng buồn thêm.
***
Nguyên bản Dịch âm
自君之出矣其四 Tự quân chi xuất hĩ kỳ 4
自君之出矣 Tự quân chi xuất hĩ,
香苑絕人煙 Hương uyển tuyệt nhân yên.
天上有七夕 Thiên thượng hữu thất tịch,
心海無渡船 Tâm hải vô độ thuyền.
Dịch nghĩa
Từ Khi Chàng Ra Đi Kỳ 4
Từ khi chàng ra đi
Vườn thơm vắng hơi người
Trên trời có dằm tháng bảy
Nhưng thiếp thì như con thuyền giữa biển mênh mông không bờ
Dịch thơ
Từ Khi Chàng Ra Đi Kỳ 4
Từ khi chàng xa thiếp,
Vườn tình vắng hơi người.
Trời có rằm tháng Bảy,
Biển không bờ thuyền ơi!
Đây là 3 trong 4 bài Tự Quân Chi Xuất Hĩ kỳ 1, 3, 4 tả phản ứng cổ điển của thiếu phụ vắng chồng. Cả 3 bài đều có chung câu 1 (Từ khi chàng xa thiếp) Tuy ý và lời trong 3 câu cuối của mỗi kỳ khác nhau nhưng chúng lại giống nhau ở chỗ chỉ than vãn nỗi sầu muộn khi vắng chồng (chứ không có thái độ cứng rắn như kỳ 2).
Bài 1:
Thường ngày thỉ khuây khỏa trong công việc nội trợ; mỗi khi nhàn rỗi thì chỉ nhìn rặng núi xa xôi mà buồn rầu. Ban đêm thì gởi nỗi nhớ vào giấc mộng.
Bài 3:
Vắng chàng thì thiếp trang điểm cho ai nhìn? Quần màu thạch lựu là thứ mà chàng ưa nhìn nhất nhưng từ nay thiếp không dùng nữa; càng bận càng buồn thêm.
Bài 4:
Vắng chàng, vườn hoa không còn hơi người nữa. Sông Ngân Hà, nơi vắng vẻ nhất trên trời còn được chứng kiến vợ chồng Ngâu gặp nhau mỗi năm một lần;thiếp như con thuyền lênh đênh trên đại dương không bờ bến, chả biết ghé bến nào.
Con Cò
***
Từ Ngày Chàng Ra Đi
Từ anh cất bước lên đàng,
Còn vì ai phải điểm trang má đào?
Thương cho chiếc áo lụa mầu,
Để lâu chẳng mặc, ôm sầu giá băng.
Bát Sách.
Từ khi chàng đi xa
Núi non rộng bao la
luôn nhớ chàng trong mộng
Mong chàng mau về nhà
宵 tiêu, tiểu: Có 2 nghĩa: 1. Đêm, thí dụ: trung tiêu 中宵 nửa đêm. 2. Nhỏ bé, kẻ tiểu nhân gọi là tiêu nhân 宵人.
數 sổ: Đếm, tính. Thí dụ: Trang Tử 莊子: Phún tắc đại giả như châu, tiểu giả như vụ, tạp nhi hạ giả, bất khả thắng sổ dã” 噴則大者如珠, 小者如霧, 雜而下
者, 不可勝數也 (Thu thủy 秋水) Phun ra giọt lớn bằng hạt trai, giọt nhỏ như hạt sương mù, lộn xộn rơi xuống, không thể đếm xuể.
Dịch nghĩa:
Từ Thuở Chàng Ra Đi Kỳ 1
Từ khi chàng ra đi,
Những lúc nhàn dỗi thiếp chỉ nhìn ngàn núi.
Đem nỗi nhớ gởi trong mộng,
Mỗi đêm ngóng chàng về.
Dịch thơ:
Từ Thuở Chàng Ra Đi Kỳ 1
Từ khi chàng xa thiếp,
Ngàn non buồn tái tê.
Tương tư đành gởi mộng,
Mỗi đêm ngóng chàng về.
***
Nguyên bản Dịch âm
自君之出矣其三 Từ Khi Chàng Ra Đi Kỳ 3
自君之出矣 Tự quân chi xuất hĩ,
紅妝誰人看 Hồng trang thuỳ nhân khan.
可憐石榴裙 Khả liên thạch lựu quần,
久置心亦寒 Cửu trí tâm diệc hàn.
Chú giải
置 trí: ① Ðể, cầm đồ gì để yên vào đâu đều gọi là trí. ② Vứt bỏ, như phế trí
廢置 bỏ đi, các trí 擱置 gác bỏ.
③ Yên để, như thố trí 措置 đặt để, vị trí 位置 ngôi ở, nghĩa là đặt để ngôi nào
vào chỗ ấy. 久置 cửu trí: mặc, bận lâu.
Dịch nghĩa
Từ Khi Chàng Ra Đi Kỳ 3
Từ khi chàng ra đi,
Thiếp trang điểm cho ai nhìn?
Khá thương cho cái quần màu thạch lựu (đỏ),
Càng bận lâu lòng càng lạnh lùng.
Dịch thơ
Từ Khi Chàng Ra Đi Kỳ 3
Từ khi chàng xa thiếp.
Trang điểm để ai nhìn?
Khá thương quần thạch lựu,
Càng bận càng buồn thêm.
***
Nguyên bản Dịch âm
自君之出矣其四 Tự quân chi xuất hĩ kỳ 4
自君之出矣 Tự quân chi xuất hĩ,
香苑絕人煙 Hương uyển tuyệt nhân yên.
天上有七夕 Thiên thượng hữu thất tịch,
心海無渡船 Tâm hải vô độ thuyền.
Dịch nghĩa
Từ Khi Chàng Ra Đi Kỳ 4
Từ khi chàng ra đi
Vườn thơm vắng hơi người
Trên trời có dằm tháng bảy
Nhưng thiếp thì như con thuyền giữa biển mênh mông không bờ
Dịch thơ
Từ Khi Chàng Ra Đi Kỳ 4
Từ khi chàng xa thiếp,
Vườn tình vắng hơi người.
Trời có rằm tháng Bảy,
Biển không bờ thuyền ơi!
Đây là 3 trong 4 bài Tự Quân Chi Xuất Hĩ kỳ 1, 3, 4 tả phản ứng cổ điển của thiếu phụ vắng chồng. Cả 3 bài đều có chung câu 1 (Từ khi chàng xa thiếp) Tuy ý và lời trong 3 câu cuối của mỗi kỳ khác nhau nhưng chúng lại giống nhau ở chỗ chỉ than vãn nỗi sầu muộn khi vắng chồng (chứ không có thái độ cứng rắn như kỳ 2).
Bài 1:
Thường ngày thỉ khuây khỏa trong công việc nội trợ; mỗi khi nhàn rỗi thì chỉ nhìn rặng núi xa xôi mà buồn rầu. Ban đêm thì gởi nỗi nhớ vào giấc mộng.
Bài 3:
Vắng chàng thì thiếp trang điểm cho ai nhìn? Quần màu thạch lựu là thứ mà chàng ưa nhìn nhất nhưng từ nay thiếp không dùng nữa; càng bận càng buồn thêm.
Bài 4:
Vắng chàng, vườn hoa không còn hơi người nữa. Sông Ngân Hà, nơi vắng vẻ nhất trên trời còn được chứng kiến vợ chồng Ngâu gặp nhau mỗi năm một lần;thiếp như con thuyền lênh đênh trên đại dương không bờ bến, chả biết ghé bến nào.
Con Cò
***
Từ Ngày Chàng Ra Đi
Từ anh cất bước lên đàng,
Còn vì ai phải điểm trang má đào?
Thương cho chiếc áo lụa mầu,
Để lâu chẳng mặc, ôm sầu giá băng.
Bát Sách.
***
1-
1-
Từ lúc chàng xa thiếp,
Khi nhàn ngắm núi non,
Tương tư đành gửi mộng,
Đêm ngóng chàng mỏi mòn.
3-
Khi nhàn ngắm núi non,
Tương tư đành gửi mộng,
Đêm ngóng chàng mỏi mòn.
3-
Từ lúc chàng xa thiếp,
Điểm trang chẳng kẻ nhìn,
Khá thương quần sắc lựu,
Cứ mặc lại sầu thêm
4-
Điểm trang chẳng kẻ nhìn,
Khá thương quần sắc lựu,
Cứ mặc lại sầu thêm
4-
Từ lúc chàng xa thiếp,
Vườn hoa bặt hơi người,
Trời cao có tháng bảy,
Không bến đỗ lòng khơi.
Mỹ Ngọc.
Oct. 7/2021.
***
1-
Vườn hoa bặt hơi người,
Trời cao có tháng bảy,
Không bến đỗ lòng khơi.
Mỹ Ngọc.
Oct. 7/2021.
***
1-
Mơ được gặp chàng
Từ xa nhau núi non nào khác
Nhớ thương chàng ký thác mộng lòng
Đêm đêm mơ giấc tương phùng
3-
Từ xa nhau núi non nào khác
Nhớ thương chàng ký thác mộng lòng
Đêm đêm mơ giấc tương phùng
3-
Xa chàng, gương lược cũng buồn lây
Vắng chàng
Xiêm áo bẽ bàng
Tô hồng chuốc lục
Điểm trang
Ai nhìn?
4-
Vắng chàng
Xiêm áo bẽ bàng
Tô hồng chuốc lục
Điểm trang
Ai nhìn?
4-
Chơi vơi
Vắng bóng chàng vườn hương ngắt tạnh
Thuyền lênh đênh hiu quạnh bến bờ
Châu về hiệp phố bao giờ?
Yên Nhiên
***
1-
Vắng bóng chàng vườn hương ngắt tạnh
Thuyền lênh đênh hiu quạnh bến bờ
Châu về hiệp phố bao giờ?
Yên Nhiên
***
1-
Từ Chàng Xa Vắng Đó
Từ chàng xa vắng đó
Thiên san ngóng lúc nhàn
Gởi mộng niềm thương nhớ
Một đêm thỏa dăm lần!
3-
Từ chàng xa vắng đó
Thiên san ngóng lúc nhàn
Gởi mộng niềm thương nhớ
Một đêm thỏa dăm lần!
3-
Từ Chàng Xa Vắng Đó
Từ chàng xa vắng đó
Không người ngắm điểm trang
Thương thay quần lựu đỏ
Để lâu buốt lạnh tràn!
4-
Từ chàng xa vắng đó
Không người ngắm điểm trang
Thương thay quần lựu đỏ
Để lâu buốt lạnh tràn!
4-
Từ Chàng Xa Vắng Đó
Từ chàng xa vắng đó
Vườn hết hơi người quen
Trời cao rằm tháng bảy
Trùng dương chẳng bến thuyền!
Lộc Bắc
Từ chàng xa vắng đó
Vườn hết hơi người quen
Trời cao rằm tháng bảy
Trùng dương chẳng bến thuyền!
Lộc Bắc
***
Từ Khi Chàng Đi Xa Từ khi chàng đi xa
Núi non rộng bao la
luôn nhớ chàng trong mộng
Mong chàng mau về nhà
LạcThủyÐỗQuýBái
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét