Thứ Ba, 9 tháng 9, 2025

Thanh Thanh Thủy Trung Bồ kỳ 1, 2 & 3 青青水中蒲其一二 & 三 - Hàn Dũ (Trung Đường)

 

Hàn Dũ 韓愈 (768-824) tự là Thoái Chi 退之, sinh quán ở Nam Dương nay thuộc tỉnh Hồ Bắc. Tổ phụ là người huyện Xương Lê nên ông thường tự xưng là Hàn Xương Lê. Ông sinh năm 768, mất năm 824 và do đó được xếp vào những tác gia của Trung Ðường. Mồ côi cha mẹ từ năm ba tuổi, thuở nhỏ ông có một cuộc sống rất cực khổ, sống chung với anh và khi anh chết thì ông được người chị dâu dưỡng dục cho đến khi thành tài. Tình cảm sâu đậm giữa ông và gia đình người anh sau này đã được ông kể lại trong bài Tế thập nhị lang văn bất hủ. Ông rất thông minh, mới hai mươi bốn tuổi đã đỗ tiến sĩ. Hoạn lộ bắt đầu bằng chức Thôi quan cho các Tiết độ sứ, rồi được gọi về triều giữ chức Tứ môn bác sĩ, sau thăng lên Ngự sử. Không rõ vì lẽ gì, ông bị Dục Tông biếm đi làm huyện lệnh ở một huyện nhỏ nhưng chỉ ít lâu sau lại được triệu về kinh giữ chức Quốc tử giám bác sĩ. Khi tể tướng Bùi Ðộ và Lý Sóc (Lý Tố) vâng lệnh cầm quân dẹp loạn Hoài Tây, ông cũng đi theo giữ chức Hành quân tư mã. Dẹp loạn thành công, Ðường Hiến Tông sai ông viết bài văn Bình Hoài Tây bi. Bài văn làm tăng thêm sự rạn nứt giữa Bùi Ðộ và Lý Sóc vì Hàn cho rằng tất cả công lao đều thuộc về Bùi Ðộ. Ðiều này có lẽ cũng dễ hiểu vì giữa hai phái bảo thủ và cách tân đang dằng co giữa triều đình lúc bấy giờ, Hàn là người của phe bảo thủ. Ông được thăng Hình bộ thị lang sau đó.

Ðường Hiến Tông vào những năm cuối đời rất tin đạo Phật. Nghe nói trong Pháp Môn Tự có thờ một đốt ngón tay của đức Phật trong một tòa tháp, cứ 30 năm mới mở ra một lần cho mọi người vào chiêm bái, Hiến Tông lập tức cho người rước đốt xương đó vào cung thờ phụng, sau lại rước ra chùa cho mọi người xem. Những cuộc đưa rước, chiêm bái của ông hết sức linh đình, xa xỉ. Vua tin thì quan viên cũng hùa theo, một phong trào sùng bái xương Phật lan tràn khắp nơi, người giàu thì đua nhau quyên tiền hương hỏa, người nghèo thì chầu chực xin những nén hương trong chùa tự đốt phỏng thân thể để chứng tỏ lòng thành kính.

Hàn Dũ phóng bút viết bài Gián nghinh Phật cốt biểu (còn gọi là Luận Phật cốt biểu) dâng lên can gián Hiến Tông, lời lẽ rất đanh thép, cứng rắn, có đoạn khuyên vua nên ném xương Phật vào nước lửa, Phật có giáng tội ông xin chịu hết. Hiến Tông vô cùng thịnh nộ, đã định đem ông ra chém, may nhờ có nhiều người can gián ông mới thoát chết, chỉ bị đày đến Triều Châu, thuộc Quảng Tây ngày nay. Ðây cũng chính là nơi ông để lại bài Tả thiên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương và bài Tế ngạc ngư văn nổi tiếng. Tế ngạc ngư văn đã khiến ông được Hiến Tông phục chức cho trở lại kinh đô giữ chức Quốc tử giám tế tửu, sau thăng Binh bộ thị lang.

Với bài Luận Phật cốt biểu, ta phải nghĩ rằng những chuyện mê tín dị đoan chắc chẳng thể nào vào tai Hàn. Nhưng ông lại chết vì uống thuốc trường sinh. Có lẽ đây là do ảnh hưởng của người cháu là Hàn Tương, một tín đồ của Ðạo gia, mà truyền thuyết cho rằng là một trong Bát Tiên.

Về mặt văn học, Hàn để lại ít thơ nhưng là một văn gia kiệt xuất của Ðường triều. Là người đứng đầu trong Ðường Tống bát đại văn gia, ông chủ trương từ bỏ lối văn biền ngẫu lời đẹp mà ý rỗng. Ông viết rất nhiều bài văn gây ảnh hưởng lớn trong văn đàn thời đó. Bài Tống Lý Nguyện quy Bàn Cốc tự và bài Tế thập nhị lang văn của ông được dùng để làm ví dụ về văn phong giản dị, ý tứ chân thành, trong nhiều tuyển tập cổ văn Trung Việt.

Ba bài ngũ ngôn tứ tuyệt dưới đây tóm lược nỗi lòng sâu thăm thẳm của người vợ sống xa chồng ở tuổi đôi mươi. Mời các bạn thưởng thức và góp ý. 


Nguyên tác          Dịch âm

青青水中蒲其一 Thanh Thanh Thủy Trung Bồ kỳ 1


青青水中蒲 Thanh thanh thuỷ trung bồ,
下有一雙魚 Hạ hữu nhất song ngư.
君今上隴去 Quân kim thượng Lũng khứ,
我在與誰居 Ngã tại dữ thuỳ cư?

青青水中蒲其二 Thanh Thanh Thủy Trung Bồ kỳ 2

青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ,
長在水中居 Trường tại thuỷ trung cư.
寄語浮萍草 Ký ngữ phù bình thảo,
相隨我不如 Tương tuỳ ngã bất như.

青青水中蒲其三 Thanh Thanh Thủy Trung Bồ kỳ 3

青青水中蒲 Thanh thanh thuỷ trung bồ,
葉短不出水 Diệp đoản bất xuất thuỷ.
婦人不下堂 Phụ nhân bất hạ đường,
行子在萬里 Hành tử tại vạn lý.

Chú giải:

Ba bài này Hàn Dũ viết lúc 25 tuổi gửi tặng vợ, tỏ niềm thông cảm với nỗi cô quạnh của nàng. Bồ: Cỏ bồ, thứ cỏ rất nhẹ.

Dịch thơ

Cỏ Bồ Xanh Trong Nước kỳ 1


Bồ trong nước xanh rờn
Cặp cá lội an nhàn
Nay chàng ở đất Lũng
Thiếp phải sống cô đơn.

Cỏ Bồ Xanh Trong Nước kỳ 2

Bồ trong nước xanh rờn
Bồ nước tợ keo sơn
Nhắn cánh bèo trôi nổi
Ta theo chẳng kịp chàng

Cỏ Bồ Xanh Trong Nước kỳ 3

Bồ trong nước xanh rờn,
Lá ngắn chẳng bỏ nước.
Nữ nhi không xuống đường
Theo chàng vạn dặm được!


Lời bàn

Chỉ cần đọc ba bài này cũng đủ biết chân tình của Hàn Dũ đối với vợ. Ông là thi sĩ thời Đường, sau Lý Thương Ẩn và Nguyên Chẩn, làm nhiều thơ ca tụng vợ; rất may vợ ông đã dẫn ông đi trọn đường đời. (Không bạc như bà Cò, đã để ÔC đi một mình trên một đoạn đường có thể dài tới 20 năm).
Rất thương mến. Rất chân thành. Rất keo sơn.
 
 Con Cò
***
Cỏ Bồ Xanh Trong Nước.

Kỳ 1


Trong nước bồ xanh lơ,
Dưới đôi cá lượn lờ.
Chàng nay lên đất Lũng,
Thiếp ở với ai cơ?


Kỳ 2.

Bồ trong nước xanh mầu,
Nhà ở đây từ lâu.
Nhắn gửi bèo trôi nổi,
Theo nhau có được đâu.


Kỳ 3.

Bồ xanh xanh dưới nước,
Lá ngắn không ngoi được.
Vợ chẳng thể xa nhà,
Chàng muôn dậm cất bước.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Aug. 30/2025.
***
Góp ý của Bát Sách:

Góp Ý Cho Bài THANH THANH THUỶ TRUNG BỒ Của Hàn Dũ.

Ba bài thơ của Hàn Dũ, đều bắt đầu bằng cái tựa: thơ ngũ ngôn, rất dễ thương, không có chữ khó, nói về nỗi lòng của người vợ khi phải xa chồng.

Cỏ Bồ có 2 loại chính là Hương Bồ (hay Thuỷ Hương Bồ) và Xương Bồ.
* Thủy Hương Bồ không thơm vì hoa mà vì củ.
- Hương Bồ, Typha Ceae, cỏ lác, bồn bồn.
- Hương Bồ lá hẹp, Typha Angustifolia, thủy hương, bồ hoàng.
- Hương Bồ lá rộng, Typha Latifolia, cũng gọi là bồn bồn.

*Xương Bồ, có
-Thuỷ Xương Bồ (Acorus Calamus và Acorus Verus)
-Thạch Xương Bồ (Acorus Gramineus)

Mấy loại này không biết mình gọi là gì.

Trong bài thơ Nguyên Chẩn tặng Tiết Đào có câu “Xương Bồ hoa phát ngũ vân cao “. Bồ này chắc Thủy Xương Bồ.
Trong truyện Thạch Nữ Giá Bồ Lang của Hư Chu, kề về cuộc hôn nhân của cô gái họ Thạch với chàng trai họ Bồ trên núi Tản Viên, thì Bồ này chắc Thạch Xương Bồ.

Cây Bồ trong thơ của Hàn Dũ, mọc dưới nước, phải là Thuỷ Hương Bồ hay Thủy Xương Bồ, nhưng không có loại nào chìm trong nước vì lá ngắn như trong bài 3.

Ba bài thơ này, BS dịch theo lục bát, coi êm tai và lãng mạn hơn.

Cỏ Bồ Xanh Xanh Trong Nước

Kỳ 1:

Cỏ bồ trong nước xanh xanh,
Có đôi cá lượn loanh quanh vui vầy,
Nay chàng đi tới Lũng tây,
Ai người cùng thiếp ở đây bây giờ?

Kỳ 2:

Cỏ bồ trong nước xanh xanh,
Cả đời phải chịu ngâm mình một nơi,
Nhắn lời với đám bèo trôi,
Rằng ta chẳng thể theo người được đâu.

Kỳ 3:

Cỏ bồ trong nước xanh xanh,
Lá kia quá ngắn nên đành chìm sâu,
Đàn bà không thể đi đâu,
Chàng xa vạn dặm tìm nhau được nào.

Bát Sách.
(Ngày 02/09/2025)

***

Bồ Bồ Xanh Trong Nước

Kỳ 1

Bồ bồ trong nước mọc xanh
Đôi cá thanh thản bơi quanh lượn lờ
Lũng Tây chàng ngụ bây giờ
Còn em ở lại bơ vơ một mình


Kỳ 2

Bồ bồ trong nước xanh tươi
Đã sống sung mãn bao mươi năm dài
Rong bèo trôi dạt miệt mài
Như ta không giống hình hài với mi


Kỳ 3

Bồ bồ trong nước mọc xanh
Ngắn lá nên chỉ mỏng manh là là
Phận gái không ra khỏi nhà
Chàng thì vạn dặm cách xa muôn trùng


Thanh Vân
***

Thủy hương bồ (Typha augustifolia, tên thông tục quen biết với người xứ Huế là bồn bồn.)
Cỏ Bồ là loại cỏ hoang dại mọc ở bãi bùn mé sông, ao hồ, ruộng; mọc ở nhiều nơi trên thế giới. Gần đây cây này được dùng như một loại rau có giá trị được nhiều người trong nước ưa chuộng và được trồng tỉa. Ở Canada nhiều người ở ven sông cũng thích và tìm kiếm loại cỏ này làm thực phẩm.

Xin mời xem 2 clips theo links sau đây:
https://www.youtube.com/watch?v=2ZPfZIXCjF8
https://www.youtube.com/watch?v=2vFNQh-sMn8

Giống như hoa sen cỏ bồ mọc trong bùn nhưng không ‘hôi tanh mùi bùn’. Qua bài này Hàn Dũ mượn cỏ bồ để tự ví mình

Phỏng dịch ba bài Thanh thanh thủy trung bồ của Hàn Dũ:

Xanh xanh trong nước cỏ bồ


Kỳ 1


Trong nước xanh cỏ bồ
Phiá dưới lượn song ngư
Nay chàng đi đất Lũng
Sống cùng ai bây giờ?


Kỳ 2


Trong nước xanh cỏ bồ
Luôn tại sông gần bờ
Nhắn với lục bình nổi
Trôi theo chẳng được như!


Kỳ 3


Trong nước xanh cỏ bồ
Lá ngắn khôn rời nước
Phụ nữ chẳng ra đường
Người thì muôn dặm lướt


Lộc Bắc

***
Cỏ Bồ Xanh Trong Nước

Kỳ 1

Cỏ Bồ trong nước xanh xanh
Tung tăng đôi cá lượn quanh lững lờ
Nay chàng đất Lũng mịt mờ
Còn thiếp ở lại bơ vơ ai cùng.

Kỳ 2

Cỏ Bồ trong nước xanh màu
Trầm mình sống đã từ lâu nơi này
Nhắn với bèo dạt trôi hoài
Ta đây chẳng thể miệt mài như ngươi.

Kỳ 3

Cỏ Bồ trong nước xanh xanh
Lá ngắn không vượt thôi đành náu nương
Nữ nhi chẳng thể lên đường
Có tìm nhau được dặm trường chàng xa

Kim Oanh
***
Nguyên tác:     Phiên âm:                          Dịch thơ:

青青水中蒲     Thanh Thanh Thủy Trung Bồ


三首-韓愈 Tam Thủ - Hàn Dũ Bồ             Bồ Xanh Trong Nước

其一 Kỳ 1

青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ      Bồ bồ xanh trong nước,
下有一雙魚 Hạ hữu nhất song ngư              Đôi cá lội khoan thai.
君今上隴去 Quân kim Thượng Lũng khứ   Chàng đã đi Thượng Lũng,
我在與誰居 Ngã tại dữ thùy cư                   Em biết sống cùng ai?

其二 Kỳ 2

青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ   Bồ bồ xanh trong nước,
長在水中居 Trường tại thủy trung cư      Năm tháng sống nơi này.
寄語浮萍草 Ký ngữ phù bình thảo          Nhắn với bèo trôi dạt,
相隨我不如 Tương tùy ngã bất như         Hãy cùng ở lại đây.


其三 Kỳ 3

青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ     Bồ bồ xanh trong nước,
葉短不出水 Diệp đoản bất xuất thủy         Lá ngắn nước không vượt.
婦人不下堂 Phụ nhân bất hạ đường          Đàn bà không bỏ nhà,
行子在萬里 Hành tử tại vạn lý                  Vạn dặm chàng đi xa.

Đây là ba bài ngũ ngôn theo thể nhạc phủ mà Hàn Dũ viết năm 793 khi còn trẻ, sống xa vợ, bày tỏ sự thông cảm với nỗi cô đơn của nàng. Mộc bản bài thơ có chép trong các sách:
Biệt Bổn Hàn Văn Khảo Dị - Đường - Hàn Dũ 别本韩文考异-唐-韩愈
Đông Nhã Đường Xương Lê Tập Chú - Đường - Hàn Dũ 东雅堂昌黎集注-唐-韩愈
Nhạc Phủ Thi Tập - Tống - Quách Mậu Thiến 乐府诗集-宋-郭茂倩

Ghi chú:

Bồ蒲 còn gọi là bồ bồ hay thủy xương bồ, tên khoa học Acorus Calamus, một giống cây thân cỏ, mọc trong ao và đầm lầy, cao đến 2 mét, lá dài và nhọn, nở hoa màu vàng nâu (còn được gọi là cattail) vào mùa hè.
Thanh thanh: lấy cảm hứng từ hình ảnh những cây bồ bồ xanh mướt trong nước.
Song ngư: ngày xưa, hai con cá được dùng để tượng trưng cho thư tín, ẩn dụ cho nỗi cô đơn khi vợ chồng xa cách nhau.
Thượng Lũng: địa danh trên dãy núi Lũng Sơn, xưa là nơi biên giới phía Tây của Trung Hoa, nay là Lũng Châu tỉnh Cam Túc, có nơi nói là Lũng Tây tỉnh Thiểm Tây.
Ký ngữ: nói ẩn dụ, bèo rong dưới nước có thể ở bên nhau và nương tựa vào nhau
Phù bình: chỉ loại bèo rong xanh nổi trôi trên mặt nước
Tương tùy: đồng hành, tùy thuộc nhau.
Bất như: không giống nhau, không thể so sánh được.
Diệp đoản: lá ngắn chỉ lá ngắn của cây bồ bồ, không thể mọc trên mặt nước, ẩn dụ cho việc không thể cùng chồng ra khỏi nhà.
Xuất thủy: ra khỏi mặt nước, ở đây ý nói rời bỏ cuộc sống trong nước.
Phụ nhân: người phụ nữ, đàn bà.
Bất hạ đường: không thể rời gian nhà chính, không đi ra khỏi nhà một mình.
Hành tử: người đàn ông đang đi xa nhà.

Dịch nghĩa:

Thanh Thanh Thủy Trung Bồ  Bồ Bồ Xanh Trong Nước

Kỳ 1

Thanh thanh thủy trung bồ      Cây bồ xanh xanh mọc trong nước,
Hạ hữu nhất song ngư             Bên dưới có một cặp cá bơi.
Quân kim Thượng Lũng khứ  Nay chàng đã đi Lũng Tây,
Ngã tại dữ thùy cư                  Em ở lại nhà biết sống cùng ai?

Kỳ 2

Thanh thanh thủy trung bồ    Cây bồ xanh xanh mọc trong nước,
Trường tại thủy trung cư       Sống lâu dài tại đây.
Ký ngữ phù bình thảo           Nhắn với cánh bèo trôi dạt,
Tương tùy ngã bất như         Ta chẳng nổi trôi như ngươi được.

Kỳ 3

Thanh thanh thủy trung bồ    Cây bồ xanh xanh mọc trong nước,
Diệp đoản bất xuất thủy        Lá ngắn không ra khỏi nước được.
Phụ nhân bất hạ đường         Đàn bà không được ra khỏi nhà,
Hành tử tại vạn lý                 Người ra đi giờ xa ta vạn dặm.

Green Calamus by Han Yu

Green calamus grows in the water, and beneath it swims a pair of fish.
Now you are traveling far to Longzhou, with whom shall I live here?
Green calamus grows in the water, and it has always lived here.
A message to the drifting duckweed: I would rather you stay with me all the time
Green calamus grows in the water, its leaves so short that they cannot leave the surface of the water.
Women often find it difficult to leave the house, and the one who travels is thousands of miles far away.

31-8-2025
Phí Minh Tâm
***
Góp ý:

青青水中蒲 Thanh thanh thuỷ trung bồ


Bồ là ... cái chi chi? (vì Cò nhắc tới vợ đã quá cố trong một bài về thơ của Hàn Dũ, người ni cũng viết lạc đề về một huyền thoại cho tên sông Hương để nhắc đến quê hương của các người thân sinh.)

Người ni đã đọc nhiều bài xã luận, nghiên cứu về nguồn gốc tên sông Hương và thấy rằng đa số tác giả hoặc sao chép lẫn nhau, hoặc cương ẩu về nguồn gốc tên Hương. Họ bảo rằng hương-mùi thơm đến từ tên cỏ thạch xương bồ - Acorus gramineus, tên Hán là 石菖蒲/thạch xương bồ - mọc đâu đó bên bờ sông Hương. Thậm chí có người còn lên tận A Lưới nhờ thổ dân bản xứ đi tìm loài cỏ này, y như thể nó hiếm lắm; hiếm đến nỗi hình như không người dân xứ Huế biết đời có cỏ này! Hình chụp ở dưới đến từ sách của Phạm Hoàng Hộ.


Tại sao người Việt lại dùng tên Hán-Việt của một loài cỏ/thuốc của người Tàu đặt tên cho sông của ta? Các bạn có thể để ý rằng PHHộ chua tên Việt là bồ bồ nhưng không có chữ 'hương', và không nói đến nhưng chính người Tàu cũng cho ta biết rằng chỉ củ của xương bồ mới có mùi thơm. Và người ni chưa hề nghe ai khen sông Hương thơm cả, cho dù nó chưa bị ô nhiễm, ít nhất ngày xưa.

形似菖蒲, ...; 根莖細長, 具氣味 (根 莖有特化的精油細胞 (aromatic oil cell)) 。hình tự xương bồ, ...; căn hành tế trường, cụ khí vị (căn hành hữu đặc hóa đích tinh du tế bào (aromatic oil cell)). [trích từ zn.Wikipedia]

Mời các bạn nhìn hình không ảnh của Huế-Thừa Thiên.


và sẽ thấy có nhiều địa danh với tên bắt đầu bằng Hương, kể cả huyện Hương Trà phía tây của Huế (trong vòng chấm đỏ ngoằn ngoèo.) Biên giới hướng bắc của Hương Trà là con sông tên ... Bồ. Bút hiệu của thân phụ tôi là Bồ Nam; ngày xưa tôi nghe nói bút hiệu đứng cho 'sông Bồ, núi Nam' nhưng tôi tìm mãi không ra một núi nào tên Nam ở Thừa Thiên nên giờ suy ra rằng bút hiệu muốn nói 'hướng nam của sông Bồ'. Sông Bồ là phụ lưu chính của sông Hương và đổ vào sông Hương ở Thanh Phước, 2.5 km hướng bắc của Huế.

Từ bồ này không đến từ cỏ thạch xương bồ mà từ cây thủy sinh hương bồ (Typha angustifolia, 香蒲, quen thuộc ở Mỹ dưới tên cattail và ở Pháp dưới các tên quenouille, massette, và dưới các tên bồn bồn, bồ hoàng, thủy hương ở Việt Nam.)


Dưới đây là hình của thủy hương/hương bồ bên bờ sông.


Phải chăng các tên thủy hương hay hương bồ là gốc hợp lý hơn cho tên sông Hương?

葉短不出水 Diệp đoản bất xuất thuỷ

Theo người ni biết thì lá của các cây hương bồ rất dài, quanh một mét và không có chuyện chỉ mọc chìm dưới nước, và không có mùi thơm. Và vì từ bồ trong bài thơ đứng cho ít nhất ba loài cây khác nhau. Acorus sp. và Typha sp., ta chỉ có thể đoán rằng cây bồ của Hàn Dũ có thể là thủy xương bồ (A. calamus) hay hương bồ (T. angustifoilia), những cây mọc bờ nước.

***
Bát Sách:
Anh Giám góp ý rất nhanh, giải thích về chữ BỒ, là một loài cỏ. Đọc xong thì BS cũng rối mù, phải đọc thêm Wikipedia, rồi cố sắp xếp cho gọn.

Kim Giám:
Bát Sách 'rối mù' là phải vì các tên cây chỉ khác nhau bởi phụ âm h và x, nhưng nhận ra những điểm chính có thể giúp ta định loại cây 蒲=bồ của Hàn Dũ và nguồn gốc tên sông Hương. BS không biết người Việt có tên cho 石菖蒲=thạch xương bồ (Acorus gramineus) chăng, và Phạm Hoàng Hộ cho ta biết là nó có tên bồ bồ, thường trồng ở non bộ. Vì đã gặp nhiều thuốc ta với tên toàn Hán-Việt, tôi nghĩ ngay rằng thạch xương bồ là một tên thông dụng cho thuốc bắc và phân vân tại sao người Việt lại dùng một tên thuốc bắc đặt tên cho con sông Hương như các huyền thoại nói. Nếu thật sự thạch xương bồ là một loài cỏ có mùi thơm để làm sông Hương nổi tiếng thì người dân Huế đã phải biết nhưng tôi chưa hề nghe nói đến loài cỏ này cho dù thân phụ tôi thích xây non bộ và đã có thể trồng thạch xương bồ để trang trí. Tôi chỉ tìm thấy những bài viết gán tên thạch xương bồ cho sông Hương từ sau '75 nên nghĩ rằng chúng là những hư cấu của con cháu cán ngố.

Vì là người xứ Huế và lớn lên bên cạnh hai con sông Hương và Bồ, dĩ nhiên tôi nghĩ rằng hương bồ có thể là nguồn gốc của các địa và thủy danh. Không như thạch/thủy xương bồ không có ở Việt Nam, hương bồ (Typha sp.) thì lại mọc khắp thế giới. Hai hình dưới với thạch xương bồ bên trái và thủy hương bồ bên phải:


cho ta thấy nguồn gốc của cái tên bồ: bồ là tên chung của các loài cây có hoa đặc thù như trong hình, (spadix-spadice trong Anh/Pháp ngữ, và tên Hán là 肉穗花=nhục tuệ hoa.) Mặc dù hoa của thạch xương bồ nhỏ xíu, nó cũng cấu trúc như hoa của thủy hương bồ (Typha augustifolia, tên thông tục quen biết với người xứ Huế là bồn bồn) bên bờ sông trong bài trước. Và BS cũng viết đúng khi nói rằng thạch xương bồ không thể là cây bồ của Hàn Dũ vì nó không mọc chìm dưới nước.

Vì dược tính của nó Acorus calamus (水菖蒲=thủy xương bồ) được nghiên cứu nhiều nhưng cũng nhờ thế tôi tìm ra rằng cả thạch lẫn thủy xương bồ không có gốc ở VN và PHH không liệt kê thủy xương bồ, nên thủy xương bồ cũng không thể là nguồn gốc của tên sông Hương, và có thể là cây bồ của Hàn Dũ, cho dù tôi cũng thắc mắc như BS rằng tại sao họ Hàn lại nói 葉短不出水=diệp đoản bất xuất thủy? Phải chăng ông ta cương ẩu cho hợp tình ý của người chinh phụ?

Huỳnh Kim Giám



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét