Thứ Ba, 6 tháng 10, 2020

Thục Đạo Nan 蜀道難 - Lý Bạch


Nguyên tác        Dịch âm

蜀道難              Thục Đạo Nan


噫吁戲                      Y hu hy!
危乎高哉                   Nguy hồ cao tai!
蜀道之難                   Thục đạo chi nan
難於上青天                Nan ư thượng thanh thiên!
蠶叢及魚鳧                Tàm Tùng cập Ngư Phù
開國何茫然                 Khai quốc hà mang nhiên
爾來四萬八千歲         Nhĩ lai tứ vạn bát thiên tuế
不與秦塞通人煙         Thủy dữ Tần tái thông nhân yên
西當太白有鳥道         Tây đương Thái Bạch hữu điểu đạo
可以橫絕峨眉巔         Khả dĩ hoành tuyệt Nga Mi điên
地崩山摧壯士死         Địa băng sơn tồi tráng sĩ tử
然後天梯石棧方鉤連 Nhiên hậu thiên thế thạch sạn phương câu liên
上有六龍回日之高標 Thượng hữu lục long hồi nhật chi cao tiêu
下有衝波逆折之回川 Hạ hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên
黃鶴之飛尚不得過     Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc
猿猱欲度愁攀援         Viên nhu dục độ sầu phan viên
青泥何盤盤                 Thanh Nê hà bàn bàn!
百步九折縈巖巒         Bách bộ cửu chiết oanh nham loan
捫參歷井仰脅息         Môn Sâm, lịch Tỉnh ngưỡng hiếp tức
以手撫膺坐長歎         Dĩ thủ vũ ưng tọa trường than
問君西遊何時還         Vấn quân tây du hà thì hoàn?
畏途巉巖不可攀         Úy đồ sầm nham bất khả phan
但見悲鳥號古木         Đản kiến bi điểu hiệu cổ mộc
雄飛雌從繞林間         Hùng phi tòng thư nhiễu lâm gian
又聞子規啼夜月        Hựu văn tử qui đề dạ nguyệt
愁空山                        Sầu không sơn
蜀道之難                    Thục đạo chi nan
難於上青天                Nan ư thượng thanh thiên
使人聽此凋朱顏        Sử nhân thính thử điêu chu nhan
連峯去天不盈尺        Liên phong khứ thiên bất doanh xích
枯松倒掛倚絕壁        Khô tùng đảo quải ỷ tuyệt bích
飛湍瀑流爭喧豗        Phi suyền bộc lưu tranh huyên hôi
砅厓轉石萬壑雷        Phanh nhai chuyển thạch vạn hác lôi
其險也如此                Kỳ hiểm dã nhược thử!
嗟爾遠道之人            Ta nhĩ viễn đạo chi nhân
胡為乎來哉                Hồ vi hồ lai tai!
劍閣崢嶸而崔嵬        Kiếm các tranh vanh nhi thôi ngôi
一夫當關                    Nhất phu đương quan
萬夫莫開                    Vạn phu mạc khai.
所守或匪親                Sở thủ hoặc phi thân
化為狼與豺                Hoá vi lang dữ sài!
朝避猛虎                    Triêu tị mãnh hổ
夕避長蛇                    Tịch tị trường xà
磨牙吮血                    Ma nha duyện huyết
殺人如麻                    Sát nhân như ma
錦城雖云樂                Cẩm thành tuy vân lạc
不如早還家                Bất như tảo hoàn gia
蜀道之難                    Thục đạo chi nan
難於上青天                Nan ư thượng thanh thiên
側身西望長咨嗟        Trắc thân tây vọng trường tư ta

Lý Bạch
***
Chú giải

(Năm 732) Thục: tên nước cũ thời Xuân Thu, nay là tỉnh Tứ Xuyên.
Y, Hi, Hu: tiếng than. 之 chi: trợ từ giữa câu. Tàm Tùng và Ngư Phù: 2 vua sáng lập nước Thục. Cập: với, và. Hà?: sao? Mang nhiên: mờ mịt. Nhĩ: trợ từ dứt câu: vậy, như thế. Lai: lại. Thủy: mới bắt đầu. Tái: cửa ải. Nhân yên: chỗ có người ở, có khói. Điểu đạo: đường nhỏ hẹp (như vừa đủ cho chim đi). Đương: đương thời. Tuyệt: rất. Hoành: ngang. Điên: ngọn, đỉnh núi. Nga mi: tên núi đất Thục (Tứ Xuyên ngày nay). Tồi: bẻ gẫy. Sạn: cầu treo bằng gỗ. Câu: móc, lưỡi câu. Hồi: về, cong queo. Cao tiêu: cái nêu cao. Chiết: bẻ, gẫy. Xung: xông ra, sấn thẳng lên. Phan: kéo lại, vin trèo. Viên: vin, kéo, dắt. Thanh Nê: tên núi ở Thiểm Tây. Bàn bàn: quanh co. Oanh: quay vòng quanh. Nham: đá núi. Loan: chỗ núi quanh co. Lịch: trải qua. Sâm, Tỉnh: 2 ngôi sao trong nhị thập bát tú. Ngưỡng: ngẩng nhìn. Dĩ: dùng, lấy. Phủ: vỗ về, thoa bóp. Ưng: ngực. Úy: sợ. Đồ: đường đi. Sàm nham: núi đá hiểm trở. Hào: kêu khóc. Nhiễu: vòng quanh. Tử qui: tên gọi chim đỗ quyên. Sử: sai khiến. Điêu: héo rụng. suy bại. Chu: sắc đỏ. Phong: chỏm núi. Doanh: đầy đủ. Xích: thước đo.*Liên phong khứ thiên bất doanh xích: những ngọn núi liền nhau cách trời không đầy thước. Câu dịch dùng 6 chữ vần trắc để tả độ cao này. Đảo: xô đổ. Quải: treo lên, đeo ở mình. Tuyết bích: sườn núi cao, dốc. Suyền: nước chảy mau. Bộc: nước trên núi chảy xuống suối. Huyên hôi: ầm ỹ. Phanh: đập vào, công kích. Nhai: sườn núi. Hác: khe. Lôi: sấm. Nhược: như bằng. (nhược sử như thử: bằng khiến như thế). Dã: vậy. Ta: than thở. Kiếm Các: dẫy núi ở Tứ Xuyên có nhiều ngọn cao, hiểm trở. Tranh vanh: chót vót. Thôi ngôi: núi đá lẫn đất cao ngất. Sở: nơi, xứ sở. Thủ: coi giữ. Phi: không. Sài lang: chó sói. Tị: tránh. Ma: mài. Duyện huyết: hút máu. Ma: cây gai. Vân: nói rằng. Trắc thân: nghiêng mình. Tư ta: than thở.

Dịch nghĩa

Ôi, Nguy tai!
Nguy hiểm thay, cao thay!
Đường Thục đi khó, khó hơn lên trời xanh.
Các vua Tàm Tùng và Ngư Phù
Mở nước bao la khổ nhọc biết bao!
Từ đó đến nay, đã bốn vạn tám nghìn năm,
Mới thông suốt từ ải Tần đến chỗ có khói (nơi có người ở)
Phía tây là núi Thái Bạch có đường hẹp chỉ đủ cho chim đi,
Vắt ngang đến tận đỉnh núi Nga Mi.
Đất lở, núi sập, tráng sĩ chết,
Rồi mới có thang trời, đường đá móc nối liền nhau.
Phía trên có ngọn núi cao giống như sáu rồng lượn quanh mặt trời.
Phía dưới có dòng sông uốn khúc sóng xô ngược dòng nước chảy.
Hạc vàng còn không bay qua được;
Vượn khỉ muốn vượt qua, cũng buồn bực vịn để tới, leo trèo mà sang.
Rặng núi Thanh Nê khuất khúc biết bao!
Cứ trăm bước lại có chín khúc quặt vòng quanh núi non hiểm trở.
Đứng trên cao, ngẩng trông nín thở, tưởng chừng như mó được sao Sâm, sao Tỉnh (sao Hôm sao Mai),
Đưa tay vỗ bụng, ngồi than thở hoài.
Hỏi ông bạn đang đi về phía Tây, bao giờ mới về?
Đường đi cheo leo, nguy hiểm, không với tới được.
Chỉ nghe thấy tiếng chim kêu đau thương trong hàng cây cổ thụ,
Con trống bay theo con mái, lượn quanh trong rừng.
Lại nghe thấy tiếng chim tử qui (dịch là con cuốc) kêu dưới bóng trăng đêm, buồn trong núi vắng.
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.
Khiến người ta nghe nói đến cảnh đó, phải héo hắt vẻ mặt trẻ trung.
Các ngọn núi liền nhau, cách trời không đầy một thước.
Cây thông khô vắt vẻo tựa vào vách đá cao ngất.
Nước bay, thác chảy ầm ầm.
Đập vào sườn núi, rung động đá, muôn khe suối vang như sấm.
Đường Thục hiểm trở là như thế!
Thương thay cho những người đi đường xa,
Tại sao mà đến đây?
Miền Kiếm Các cheo leo, chót vót!
Chỉ một người canh giữ ải,
Đến muôn người cũng không qua nổi.
Những lính giữ ải hoặc là người không thân (với bạn),
Đều có thể biến thành lang sói.
(Những người đi đường thì) ban sáng phải lánh cọp dữ,
Buổi tối phải tránh rắn dài;
Bọn chúng mài nanh, hút máu,
Giết hại người nhiều như cây gai.
Thành Cẩm Quan tuy vui (đối với mình),
Nhưng sao bằng sớm trở về nhà.
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh.
Nghiêng mình trông sang phía tây, than thở hoài.

(Năm 732)
Thục là tên nước cũ thời Xuân Thu, nay là tỉnh Tứ Xuyên.

Dịch thơ:

Đường Thục Khó

Ôi nguy tai!
Cao thay! Hãi kinh!
Đường Thục đi khó,
Khó hơn lên trời xanh!
Từ Ngư Phù, Tàm Tùng,
Mở nước non gian khổ,
Qua bốn vạn tám ngàn năm ròng,
Nối ải Tần giao thông xóm nhỏ.
Xưa Thái Bạch phía tây hiểm trở,
Vượt Nga Mi hẻm núi chơi vơi.
Bao tráng sĩ chết vì đá lở,
Để ngày nay nối thành sạn đạo thang trời.
Trên, dẫy núi cao như sáu rồng chầu nhật,
Dưới, một dòng quanh co nước giật sóng xô.
Bay qua hạc vàng còn chóng mặt,
Muốn sang buồn nhọc vượn vịn trèo.
Thanh Nê đá cheo leo,
Trăm bước đi cong queo chín chỗ.
Sao Sâm sao Tỉnh với tay khều.
Nhìn lên vỗ bụng ngồi than khổ.
Hỏi anh sang Thục bao giờ về?
Đường núi chênh vênh thấy mà ghê.
Chim trống, mái, rượt quanh rừng rậm,
Đậu cành cổ thụ kêu thảm thê.
Nghe cuốc kêu thâu đêm trăng tỏ.
Núi buồn tênh.
Đường Thục đi khó,
Khó hơn lên trời xanh.
Ai nghe cũng mặt nhăn mày ngược.
Núi sát núi cách trời nửa thước*.
Thông khô vắt vẻo ngả sườn non.
Thác bay suối chạy đua nhau tuôn,
Quật trên đá ầm ầm như sấm.
Đường hiểm nguy biết mấy!
Thương viễn khách xa xăm,
Tới đây làm chi vậy!
Ngặt nghèo Kiếm Các rặng cao thâm.
Một lính giữ ải quan,**
Vạn người qua không nổi.**
Lính hoặc kẻ không thân,
Đều biến thành chó sói.
Sáng tránh hổ gầm,
Chiều lo rắn đói,
Lũ qủy sát nhân,
Ăn tươi nuốt vội.
Cẩm thành tuy yên thân,
Về nhà vui gấp bội.
Đường Thục khó khăn,
Khó hơn lên trời xanh.
Hướng về tây nghiêng mình than mãi!

Mùa hè năm 2008
Con Cò


* Bài dịch dùng 6 chữ vần trắc (trong 7 chữ của một câu thất) để dịch độ cao chót vót gần tới trời của rặng núi.
** Bài dịch phải thêm 1 chữ (5 chữ thay vì 4) trong hai câu này cho rõ nghĩa.

Lời bàn của Con Cò:
Bài thơ độc đáo này đã khắc phục sự khô khan của thơ tả cảnh để̀ tả, một cách vô cùng hấp dẫn, con đường sạn đạo nối Trung nguyên với đất Thục.
- Có gần 50 câu tả cảnh tuyệt tác (bài dịch giữ nguyên thể cổ phong, giữ nguyên số câu và số chữ trong mỗi câu ngoại trừ hai câu 38**, 39**).
- Tiểu sử, cái hùng vĩ và cái chênh vênh, hiểm trở của con đường đã được tả thật tỉ mỉ bằng thơ.
- Những chỗ mà các câu từ 9 chữ giảm dần xuống 3 chữ rồi lại tăng dần lên 7 chữ giống như những chỗ thắt ngẵng của hẻm núi.
- Những đoạn đường quanh co, khúc khuỷu, gập ghềnh đã được diễn tả bằng nhịp điệu của vần thơ, phối hợp với từ ngữ tương đương, là một thách thức vô củng khó khăn cho người dịch.
- Trong loại thơ tả chân của thế giới, chưa thấy ai táo bạo như Lý Bạch. Muốn tả núi cao, ông dùng thái độ rụt rè của chim hạc (loại chim thường bay cao trên 9 từng mây): 黃鶴之飛尚不得過 Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc (dịch thoát là: Hạc vàng bay qua còn chóng mặt). Thấy chưa đủ cao, ông còn bồi thêm một câu thậm xưng: 捫參歷井仰脅息 Môn Sâm, lịch Tỉnh ngưỡng hiếp tức (dịch thoát là: Sao Sâm sao Tỉnh với tay khều). Vẫn chưa hài lòng, ông còn lấy thước đo Trời: 連峯去天不盈尺 Liên phong khứ thiên bất doanh xích (dịch thoát là: Núi sát núi cách Trời nửa thước).
- Tả mức hiểm trở của quan ải, ông chỉ dùng hai câu tổng cộng 8 chữ: 一夫 當關 Nhất phu đương quan 萬夫莫開 Vạn phu mạc khai. (bài dịch phải dùng 10 chữ để dịch thoát: Một lính giữ ải quan, Vạn người qua không nổi ).
- Những nguy hiểm bất chợt do thú dữ như hùm beo, rắn độc cũng được nhắc tới. Con người sống ở đó, kể cả lính canh gác, nếu không phải là thân nhân của bạn, đều có thể biến thành chó sói để hại bạn.
- Một câu hỏi giản dị nêu lên bởi họ Lý như câu 問君西遊何時還 Vấn quân tây du hà thì hoàn? (dịch thoát là: Hỏi anh sang Thục bao giờ về?) cũng chứa đựng nhiều ẩn ý của họ Lý (anh sang Thục, có lẽ vì công việc chứ chả điên rồ mà đi ngắm cảnh ở con đường gian nguy này, vậy thì nghỉ ngơi cho lại sức rồi về cho sớm nhé!….).
Một văn hào Tây phương đã nhận xét rằng con đường sạn đạo trong thơ của Lý Bạch ấn tượng hơn con đường sạn đạo được tả trong những áng văn xuôi.
***
Bài Thục Lộ Nan của Lý Bạch trên 50 câu là một tuyệt tác tả cảnh, được công nhận trong Đường Thi Tam Bách Thú của Hàn Đường Tuế Sĩ. Tôi gởi bản dịch ra Anh ngữ của Witter Bynner để quý anh chị tham khảo thêm.

Hard Roads In Shu by Li Bai


Translation by Witter Bynner (1920)

Oh, but it is high and very dangerous!
Such travelling is harder than scaling the blue sky.
...Until two rulers of this region
Pushed their way through in the misty ages,
Forty-eight thousand years had passed
With nobody arriving across the Qin border.
And the Great White Mountain, westward, still has only a bird's path
Up to the summit of Emei Peak --
Which was broken once by an earthquake and there were brave men lost,
Just finishing the stone rungs of their ladder toward heaven.
...High, as on a tall flag, six dragons drive the sun,
While the river, far below, lashes its twisted course.
Such height would be hard going for even a yellow crane,
So pity the poor monkeys who have only paws to use.
The Mountain of Green Clay is formed of many circles-
Each hundred steps, we have to turn nine turns among its mound --
Panting, we brush Orion and pass the Well Star,
Then, holding our chests with our hands and sinking to the ground with a groan,
We wonder if this westward trail will never have an end.
The formidable path ahead grows darker, darker still,
With nothing heard but the call of birds hemmed in by the ancient forest,
Male birds smoothly wheeling, following the females;
And there come to us the melancholy voices of the cuckoos
Out on the empty mountain, under the lonely moon....
Such travelling is harder than scaling the blue sky.
Even to hear of it turns the cheek pale,
With the highest crag barely a foot below heaven.
Dry pines hang, head down, from the face of the cliffs,
And a thousand plunging cataracts outroar one another
And send through ten thousand valleys a thunder of spinning stones.
With all this danger upon danger,
Why do people come here who live at a safe distance?
...Though Dagger-Tower Pass be firm and grim,
And while one man guards it
Ten thousand cannot force it,
What if he be not loyal,
But a wolf toward his fellows?
...There are ravenous tigers to fear in the day
And venomous reptiles in the night
With their teeth and their fangs ready
To cut people down like hemp.
Though the City of Silk be delectable, I would rather turn home quickly.
Such travelling is harder than scaling the blue sky....
But I still face westward with a dreary moan.

Phí Minh Tâm

***

Đường Thục Khó

Y hu hy, cao thay nguy hiểm
Đường Thục khó, khó lên trời xanh
Tàm Tùng, Ngư Phù liêt oanh
Dựng nước tự thuở mông mênh dáng hình

Mất bốn vạn tám nghìn năm lẻ
Mới qua Tần, vắng vẻ khói im
Phía tây Thái Bạch đường chim
Vắt ngang đỉnh núi như tìm Nga My

Tráng sĩ chết, đất di non lở
Tiếp thang trời, núi vỡ móc liền
Sáu rồng chầu nguyêt bên trên
Sóng xô phía dưới ngược triền uốn cong

Hạc vàng bay còn không thể vượt
Khỉ vượn rên tay buốt vin trèo
Thanh Nê một dãy cheo leo
Đường đi quanh quẹo bước theo núi vòng

Sao Tĩnh, Sâm nhìn không dám thở
Vỗ bụng hờ than nhỏ nhiều khi
Bạn Tây du, lúc nao về?
Đường nguy, hiểm trở chẳng hề dễ leo

Nghe chim khóc, buồn theo cổ thụ
Trống mái bay, rộn phủ cánh rừng
Tử quy kêu nguyệt rưng rưng
Núi buồn vắng vẻ thê lương não nề

Đường Thục khó, hơn về trời thẳm
Khiến người nghe lệ thảm dung nhan
Núi, trời cách một tấc gang
Thông khô vắt vẻo dựa ngang đá bừa

Nước thác đổ tranh đua huyên náo
Dập sườn non, đá đảo, khe vang
Đường hiểm trở, khổ đoạn tràng
Thương người phiêu bạt quan san bao ngày

Tại sao lại đến đây
Kiếm Các núi ngất mây
Một người canh giữ ải
Muôn người vượt khó thay
Gặp kẻ không nhân ái
Sài lang thú tính bày
Sáng lánh xa mãnh hổ
Chiều né gặp rắn dài
Thường mài nanh hút máu
Giết người cây dầu gai
Dù Cẩm thành vui thú
Sao bằng về nhà ngay

Đường Thục khó, khó hơn trời thẳm
Luôn thở than, nghiêng nhắm về Tây!

Lộc Bắc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét