Bạch Cư Dị 白居易 (772-846) tự Lạc Thiên 樂天, hiệu Hương Sơn cư sĩ 香山居士 và Tuý ngâm tiên sinh 醉吟先生, người Hạ Khê (nay thuộc Thiểm Tây). Ông là thi nhân tiêu biểu nhất giai đoạn cuối đời Đường, là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Ông xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ, nhà nghèo nhưng rất thông minh, 9 tuổi đã hiểu âm vận, mười lăm tuổi đã bắt đầu làm thơ. Ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức. Ông thường nói: "Làm văn phải vì thời thế mà làm... Làm thơ phải vì thực tại mà viết, mục đích của văn chương là phải diễn đạt tình cảm của nhân dân”. Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Họ Bạch chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được; tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự. Thơ ông rất trữ tình. Khi ông bị đi đày từ Tràng An đến Tây Giang, ba bốn ngàn dặm, dọc đường thấy trường học, chùa chiền, quán trọ, hồ sen… đều có đề thơ của mình.
Khéo vô cùng!
Nguyên tác Dịch âm
重陽蓆上賦白菊 Trùng Dương Tịch Thượng Phú Bạch Cúc
滿園花菊鬱金黃 Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng,
中有孤叢色白霜 Trung hữu cô tùng sắc bạch sương.
還似今朝歌舞席 Hoàn tự kim triêu ca tửu tịch,
白頭翁入少年場 Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường.
Dịch thơ
Vịnh Hoa Cúc Trắng Trong Bữa Tiệc Mừng Ngày Trùng Dương
Khắp vườn hoa cúc ửng vàng anh
Duy một cây kia sắc trắng tinh
Giống hệt sáng nay mừng tiệc rượu
Bạc đầu chen giữa đám đầu xanh
Lời bàn:
Bài thơ dùng hai loại cúc vàng và trắng để mô tả hai lứa tuổi chênh lệch nhau qúa xa. Một vườn đầy những cây cúc vàng tươi tiêu biểu cho lứa thiếu niên căng nhựa sống. Một cây đơn độc có sắc trắng của sương, tượng trưng cho một cụ già quắc thước còn yêu đời.
Bạch Cư Dị dùng cảnh cây tùng trắng chen giữa đám cúc vàng để vịnh bữa tiệc mừng thượng thọ của mình trong buổi sáng ngày tết Trùng Dương. Tết Trùng Dương là tết chúc thượng thọ, được tổ chức hàng năm vào ngày 9 tháng 9 cho nên còn được gọi là tết Song Cửu. Quan khách của bữa tiệc này gồm một đàn thiếu niên tóc xanh vây quanh một cụ gìà tóc bạc.
Nét tươi đẹp của hai lứa tuổi được tả bằng màu vàng và màu trắng của hai loại cây. Niềm hạnh phúc của đại gia đình thì được tả bằng rượu, thịt, hát ca. Nét già nua được giấu rất kỹ trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này.
Rất trang trọng. Rất hữu tình. Rất ngoạn mục.
***


Huỳnh Kim Giám
Trong Tiệc Mừng Ngày Trùng Dương Vịnh Hoa Cúc.
Trong vườn kim cúc nở đầy hoa,
Một cụm lẻ loi sắc trắng pha.
Giống sáng nay trên bàn tiệc rượu,
Giữa đoàn trẻ tuổi lẫn ông già.
Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Nov. 1/2025.
Trùng Dương Hoa Cúc Tắng
Hoa cúc vườn sau ánh nghệ vàng
Bên trong một khóm sắc như sương
Khác gì ban sáng tiệc ca hát
Tóc bạc mình ên, đám trẻ nhường!
Đầy vườn cúc, trổ hoa vàng nghệ
Giữa đám cây, chòm lẻ trắng ngà
Như ban sáng, chiếu tiệc ca
Thanh niên một đám, lão già mình ên!
Lộc Bắc
Oct25
***
Ở Bàn Tiệc, Vịnh Cúc Ngày Trùng Dương
Cúc vàng, vàng nghệ nở đầy vườn
Chen lẫn một chùm trắng tựa sương
Cũng giống tiệc bày mừng tuổi thọ
Lão già giữa đám trẻ kiên cường
Thanh Vân
***
Góp Ý Cho Bài Trùng Dương Tịch Thượng Phú Bạch Cúc Của Bạch Cư Dị
Đây là một bài thơ có ý lạ, chỉ thấy trong sách của Chi Điền, dịch theo thể lục bát, câu cuối là lạc trong đám trẻ sương pha mái đầu, tuy hay, nhưng không rõ nghĩa.
Lê Nguyễn Lưu: giữa đám thanh niên một lão già.
Trương Nam Hương : lọt ông đầu bạc giữa bầy tóc xanh.
Trương Việt Linh : một ông già giữa đám thanh niên.
Mấy câu sau này rõ nghĩa hơn, nhưng tùy mấy câu trên, và tùy vần. Dịch câu này khó lắm, Bát Sách cũng bị lấn cấn.
Nếu để ý thì thấy chữ TỊCH ở tựa đề, và chữ tịch ở câu 3 viết khác nhau, nhưng cùng nghĩa: cái chiếu, nơi ngồi ăn uống, nơi tụ họp, dựa vào, chức vụ như chủ tịch, họ người.
Tùng là tụ tập đông đảo, nhiều, cây cối rậm rạp, khóm hay chòm cây, nhỏ, khéo léo, họ người.
Anh Giám đã tìm tòi, tra cứu thật kỹ, đọc thích lắm, nhưng không giúp gì cho việc hiểu bài thơ và dịch ra tiếng Việt.
Đây là bài dịch của Bát Sách:
Vịnh Hoa Cúc Trắng Trong Tiết Trùng Dương
Hoa cúc vàng tươi nở đầy vườn,
Trong có chòm côi trắng tựa sương,
Như tiệc sáng nay cùng múa, hát
Một ông đầu bạc lạc môi trường.
Bát Sách.
(Ngày 04/11/ 2025)
***
Nguyên tác: Phiên âm:
重陽席上賦白菊 Trùng Dương Tịch Thượng Phú Bạch Cúc
白居易 Bạch Cư Dị
滿園花菊郁金黃 Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng
還似今朝歌酒席 Hoàn tự kim triêu ca tửu tịch
白頭翁入少年場 Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường
Ghi chú:
Trùng Dương: lễ hội ngày mùng chín tháng chín âm lịch
Uất kim hoàng: tên một loài hoa, còn được gọi là kim quế, rễ cho củ làm bột nghệ, được sử dụng ở đây để so sánh hoa cúc vàng với màu vàng của nghệ hơn là với hoa uất kim
Cô tùng: một cụm hoa đơn độc.
Bạch Đầu Ông: ông lão tóc bạc, nhà thơ tự xưng
Dịch nghĩa:
Vịnh Cúc Trắng Ngày Trùng Dương Trên Bàn Tiệc
Hoa cúc đầy vườn vàng như nghệ
Giữa có một chùm lẻ loi màu trắng như sương
Cũng giống như sáng nay trong bàn tiệc
Có một ông già đầu bạc ngồi giữa đám tuổi trẻ tóc đen.
Reciting a Poem on White Chrysanthemum at a Banquet on Zhong Yang Day by Bai Ju Yi
The garden is filled with chrysanthemums, yellow as turmeric
In the middle, a lone plant shows its foggy white color.
Similarly, at a banquet this morning,
A white hair old man sits among the black hair teens.
Dịch thơ:
Vịnh Cúc Trắng Ngày Trùng Dương Trên Bàn Tiệc
Cúc vàng như nghệ đầy vườn hoa
Một cụm lẻ loi sắc trắng ngà
Tại tiệc hôm nay cũng thế đấy
Giữa đàn trai trẻ một ông già.
Phí Minh Tâm
Góp ý:
Góp ý cho các từ 鬱=uất và 叢=tùng
Từ tạo ra theo lối hội ý cho âm uất, với nghĩa buồn rầu, đã hiện diện trong thời giáp cốt văn và vẽ hình một người phủ phục giữa một lô (2-4) cây, hàm ý người đi lạc giữa rừng thì phải ... buồn. Một nghĩa nguyên thủy khác là cây cành rậm rạp trong rừng. Dĩ nhiên lối viết này không dính dáng gì với tên Hán-Việt cổ của cây nghệ, một loài gừng (薑=khương) Loài nghệ có một gốc ở bắc Hoa Lục nhưng hình như lối viết sau này cho nghệ chỉ bắt đầu từ thời tiểu triện vì không phản ảnh trong các chữ kim văn.
Dù lối viết đó vẫn còn hiện diện trong kim văn (hình 6) người đời sau không thấy rừng cây mà lại nghĩ rằng đây là hình vẽ một người to lớn (chữ 大=đại) đạp một người quỳ dưới đất và người kia ... buồn! Qua thời tiểu triện (hình 7, 8) chữ đại bị biến thể thành 缶=phẫu, và các bộ 鬯=sưởng, 彡=sam được thêm vào. Phẫu là chum, vò và sưởng là rượu nếp thơm nên quá trình tạo chữ viết này cho ta biết là người Hoa Lục ướp nghệ vào rượu từ hơn 2000 năm trước. Thật sự ra, thuở ban đầu chữ viết cho nghệ (Curcuma sp.) không phải là 鬱 mà là 𩰪 và ta có thể thấy rằng phần dưới của hai chữ giống nhau (bộ 鬯 và 彡), và điều này gợi ý rằng người tạo chữ tiểu triện cho uất mượn phần dưới chữ 𩰪; sau đó, lối viết 鬱 với hai bộ mộc chiếm chổ lối viết cũ, theo lối giả tá.
Và một nghĩa nữa của 鬱 là địa danh Uất, tên của một ấp phong cho một đại phu nước Ngô; hậu duệ dòng đại phu đó lấy họ Uất. Rất có thể rằng địa danh này là nguồn gốc của tên uất cho cây nghệ vì sử liệu nói người Uất ướp rượu nghệ và dùng làm cống phẩm (遠方𩰪人所貢=viễn phương Uất nhân sở cống).
[các chữ Hán trong trích văn từ một bản dịch cuốn Bổn Thảo Cương Mục trên là ‘uất kim’ và ‘sưởng’]
Curcuma longa là uất kim (không có cả từ hương trong tên), thời bây giờ dùng tên 薑黃=khương hoàng - nghĩa gừng vàng trong tiếng Việt. Nếu ta hiểu uất kim hoàng là tên của một loài hoa thì câu đầu (滿園花菊鬱金黃 mãn viên hoa cúc uất kim hoàng) phải dịch là "hoa cúc và (hoa) nghệ vàng nở đầy vườn"!
Phải chăng nghĩa “buồn” của một từ đồng âm cho tên (cây) nghệ 鬱金 phản ảnh tâm tình thi nhân họ Bạch giữa tiệc rượu khi thấy mình là một thân già tóc bạc đơn côi giữa đám thiếu niên tươi vui?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét