Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

Lũng Tây Hành Kỳ Tam - 隴西行其三 - Trần Đào(Vãn Đường)


Trần Đào 陳陶 (khoảng 812-885) tên chữ là Tung Bá 嵩伯, một thi nhân thời Vãn Đường. Ông nổi tiếng nhất ở dòng thơ phản chiến (4 bài Lũng Tây Hành kỳ 1-4).

Nguyên tác Dịch âm

隴西行其三 Lũng Tây Hành Kỳ 3

隴戍三看塞草青 Lũng thú tam khan tái thảo thanh,
樓煩新替護羌兵 Lâu Phiền tân thế hộ Khương binh.
同來死者傷離別 Đồng lai tử giả thương ly biệt,
一夜孤魂哭舊營 Nhất dạ cô hồn khốc cựu doanh.

Lâu Phiền: Chúa của rợ Khương

Dịch thơ

Bài Điếu Lũng Tây Kỳ 3

Ải Lũng ba năm cỏ mọc xanh
Lâu Phiền tu chỉnh lại Khương binh
Cô hồn tử sĩ sầu ly biệt
Một tối thành xưa khóc khiếp kinh

Lời bàn:

Mục tiêu phản chiến của bài thơ rất rõ ràng.

Câu 1:
Sau 3 năm, cỏ ở ải Lũng đã xanh trở lại (cuộc chiến khốc liệt ở nơi này đã chấm dứt được 3 năm)
Câu 2:
Tướng Lâu Phiền đang tu chỉnh lại Khương binh (ngụ ý nguy cơ chiến tranh vẫn quanh quẩn đâu đây, có thễ đột phát bất cứ lúc nào)
Câu 3 & 4:
Cô hồn tử sĩ buồn cảnh ly biệt, một đêm khóc thê thảm trong thành cũ. Tác gỉa không nói rõ cô hồn tử sĩ của phía nào, điều này cho biết mục tiêu của bài thơ không trụ ở lòng ái quốc mà là phản chiến. Họ Mạnh chê cả hai bên (Hán và Hồ) không biết thương lượng để tạo hòa bình, chỉ lo chiến tranh làm muôn dân chết chóc.

Bài này và bài Lũng Tây hành kỳ 2 (LTCD thế kỷ 21 số 308) là thơ phản chiến; chỉ phục vụ nhân dân (của cả đôi bên), không phục vụ Tổ Quốc.

Con Cò
***
Đến Lũng Tây, Kỳ 3.

Ải Lũng ba năm cỏ mới xanh,
Lâu Phiền chỉnh lại lính Khương thành.
Người còn kẻ mất buồn tan rã,
Đồn cũ hoang hồn khóc trắng canh.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Oct. 18/2025.
***
***

Lũng Tây Hành Kỳ 3

Lũng Tây xanh cỏ đã ba lần
Biên giới sa trường đổi trú quân
Chết chóc chia ly sao thảm khốc
Đêm về rên rỉ những hồn oan

Thanh Vân
***
Lộc Bắc hiểu chữ 護 Hộ ở đây có nghĩa là 都護 đô hộ = thống trị khác với giúp đỡ nên diễn giải nghĩa của bài như sau:
Lâu Phiền là đất cũ của người Khương bị các thế lực trung nguyên chiếm đoạt, người Khương phải di chuyển đi nơi khác và gia nhập với Hung Nô chống lại. Để bảo vệ vùng đất chiếm được, nhà Hán đóng đồn tại Lâu Phiền. Theo bài này thì lính thú tại Lâu Phiền được thay phiên sau ba năm phục vụ. Ngày về, bạn bè đến cùng phiên hồi hương tứ xứ bỏ lại mộ phần của đồng đội xấu số. Cuộc chia tay thật đau đớn. Buổi tối hôm trước oan hồn của tử sĩ tụ tập khóc than thê thiết!

Lũng Tây Hành Kỳ 3

Ải Lũng ba lần cỏ mướt xanh
Lâu Phiền thay lính chống Khương binh
Bạn cùng còn-mất đau ly biệt
Một tối hồn ma khóc cổ thành!

Ba lần cỏ Lũng biếc xanh
Lâu Phiền lính mới Khương binh đối đầu
Người còn, kẻ mất lòng đau
Cô hồn đêm tối khóc gào thành xưa!

Lộc Bắc

***
Nguyên tác: Phiên âm:

隴西行其三-陈陶 Lũng Tây Hành Kỳ 3 - Trần Đào

隴戍三看塞草青 Lũng thú tam khan tái thảo thanh
樓煩新替護羌兵 Lâu Phiền tân thế hộ Khương binh
同來死者傷離別 Đồng lai tử giả thương ly biệt
一夜孤魂哭舊營 Nhất dạ cô hồn khốc cựu doanh

Bài thơ có mộc bản trong các sách:

Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 万首唐人绝句-宋-洪迈
Đường Thi Phẩm Hối - Minh - Cao Bính 唐诗品汇-明-高柄
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐 诗-清-圣祖玄烨

Ghi chú:

Lũng Tây: tỉnh Cam Túc ngày nay
Lũng thú: binh lính phòng thủ Lũng Sơn, Lũng Tây.
Tam khan: nhìn thấy ba lần/nhiều lần, ngụ ý rằng biên giới đã được lính canh gác trong nhiều năm.
Tam三=ba; theo Thiều Chửu Hán Việt Tự Điển, một âm là tám=hai ba lần, đọc đi đọc lại
Khán看=coi, xem; một âm là khan, cần xài thanh bằng ở đây cho đúng niêm luật thơ Đường.

Lâu Phiền: tên của một bộ tộc cổ xưa ở phía bắc Trung Hoa, tên một vùng/quốc gia thời Xuân Thu và Chiến Quốc, bị Hung Nô đô hộ vào cuối thời Tần; ở đây, ám chỉ khu vực biên giới bắc Trung Hoa, có nơi cho là tên Chúa Hung Nô, người lên thay thế Thiền Vu thứ 2 Mặc Đột, thường gọi là Lâu Phiền Vương; nhưng trong bài thơ nghĩa này không phù hợp.

Hộ Khương binh: Nhà Hán lập ra một đội Hộ Khương Tiểu Vệ đóng tại Lũng Tây để trấn áp người Khương, chỉ quân đồn trú.

Dịch nghĩa:

Lũng Tây Hành Kỳ 3

Lũng thú tam khan tái thảo thanh Những người lính phòng thủ Lũng Sơn đã ba lần thấy cỏ xanh nơi biên giới,
Lâu Phiền tân thế hộ Khương binh Lính Lâu Phiền mới đã thay thế những người lính Khương ban đầu.
Đồng lai tử giả thương ly biệt Một số người cùng đến đây với họ đã tử trận, cảm giác chia ly thật buồn bã,
Nhất dạ cô hồn khốc cựu doanh Ban đêm có những linh hồn cô đơn khóc than nơi doanh trại cũ.

Dịch thơ:

Lũng Tây Hành Kỳ 3

Cỏ xanh um núi Lũng bao lần,
Canh giữ thành, Phiền thế binh Khương.
Biệt ly buồn bã vấn vương.
Trại cũ hồn khóc thảm thương đêm dài.

Journey to Longxi No. 3 by Chén Táo

The soldiers defending Longshan had already seen the green grass of the frontier three times.
New recruits from Loufan replaced the Qiang soldiers who had previously defended the fort.
They were saddened by the separation with the dead who had come with them,
And at night their lonely souls wept in the old camp.

Phí Minh Tâm:
 ***
Góp Ý Cho Bài Lũng Tây Hành Kỳ 3 Của Trần Đào.

Trần Đào là nhà thơ được người Hoa xếp vào phái Biên Tái, làm nhiều thơ nói về chiến tranh Hồ Hán nơi biên giới. Ông có 4 bài Lũng Tây Hành, bài 1 và 4 thì vậy vậy, bài số 2 là hay nhất, ý lạ, được nhiều sách dịch, bài số 3 kỳ này đọc thấy rất thảm.

Trong lần gặp nhau ở Quận Cam, ÔC và BS đã bàn bạc về văn chương cả ngày, có nói tới bài Lũng Tây Hành kỳ 2, và bài này đã post rồi.

Thi Viện có rất ít chi tiết về Trần Đào, và ghi 812-885. Sách của Trần Trọng San khá hơn một chút: Ông sinh hay mất năm 841, tự là Tung Bá, người đất Kiếm Phố, huyện Bà Dương, tỉnh Giang Tây. Thi nhiều lần không đậu, ông về ở ẩn, tự xưng là “tam giáo bố y“, kẻ áo vải của ba giáo (Nho, Đạo và Phật giáo).

Đến đời Đường Tuyên Tông, ông tránh loạn ở núi Tây Sơn, Hồng Châu, cũng thuộc Giang Tây. Tới đây, vì cẩn thận, BS coi Wikipedia về Đường Tuyên Tông, thì thấy ghi là ông này làm vua từ 846 tới 859. Vậy là không ổn:

Nếu sinh năm 841, thì đời Tuyên Tông, ông mới 5 tuổi.
Nếu mất năm 841, thì ông mất trước khi Tuyên Tông lên ngôi.
Bèn đi tra lại mấy cuốn Đường Thi mình có, thì thấy:
- Trần Trọng Kim ghi rất sơ sài.
- Trương Đình Tín, Nguyễn Đức Lân không ghi năm.
- Chi Điền cũng ghi 841, nhưng thêm một giai thoại rất vui: Tiết Độ Sứ Giang Tây là Nghiêm Soạn thường tới đàm đạo cùng Trần Đào, lại cho kỹ nữ Liên Hoa đến hầu, nhưng ông chỉ cười, không thân mật với người đẹp. Liên Hoa làm thơ từ biệt, có 2 câu:

Xử Sĩ bất tri Vu Giáp mộng,
Hư lao vân vũ há Dương Đài.
Xử sĩ chẳng hay Vu Giáp mộng,
Mây mưa luống uổng xuống Dương Đài.

Sách Chi Điền ghi là của Trần Trọng San, nhưng trong sách của BS, in tại Toronto, không có chi tiết này, có thể ở trong sách in tại Việt Nam.

Như vậy thì năm sinh, năm mất trong Thi Viện là hợp lý.

Bài này không nhiều chữ khó:

- Lũng là Lũng Tây, phía tây bắc của Trung Hoa.
- Thế là bỏ phế hay thay thế. Ở bài này là thay thế. Lâu Phiền tân thế có nghĩa là Lâu Phiền, người mới thay thế vua cũ của rợ Khương. Hiểu theo cách này thì không hợp với góp ý của anh Giám.
- Hộ là giúp đỡ, bảo lãnh, bảo vệ, che giấu, như hộ đoản là che giấu cái kém cỏi của mình. Ở đây là giúp.
- Giả là chữ thay thế cho người hay vật, như nhẫn giả. Chữ trợ từ. Đồng ý, vâng.

Đặt sau một số chữ để tả, biểu thị các việc đã kể. Họ người, như Giả Sung.
-Thương: vết đau, làm hại, lo buồn, đi điếu tang.

Bài này, BS hiểu là người lính ở biên cương đã 3 năm, tuy không có chiến tranh, nhưng chúa mới Lâu Phiền đang giúp binh Khương tập luyện. Người lính thú nghĩ rằng các tử sĩ cả 2 bên gặp nhau rồi buồn rầu chia tay. Cứ đêm xuống là nghe cô hồn than khóc ở doanh trại ngày xưa…. Nghe sao mà thảm thiết.

Bài Hành Lũng Tây Kỳ Ba.

Đất Lũng ba năm thấy cỏ xanh,
Vua mới Lâu Phiền giúp Khương binh,
Gặp nhau, kẻ chết buồn ly biệt,
Đêm tối cô hồn khóc trại dinh.

Bát Sách.
(Ngày 21/10/2025)
***
Góp ý:

三看陇戍三看塞草青=Lũng thú tam khán tái thảo thanh

Lũng là từ viết tắt cho Lũng Tây quận (隴西郡). Địa danh phản ảnh sự kiện rằng nó nằm hướng tây của Lũng san (陇山, phần phía nam của 六盘山=Lục bàn San); nó ở trong tỉnh Cam Túc.
Từ 看=khán vẽ hình một bàn tay che con mắt để diễn tả ý niệm nhìn xa. Tam khán thảo thanh nghĩa là đã thấy cỏ xanh (lục) ba lần nên người lính thú đã ở Lũng Tây ba năm.
Từ 塞 có hai lối phát âm, lối thứ nhì là ‘tái’, với các nghĩa vùng đất hiểm trở, biên giới, ải địa đầu, v.v… và đây là những nghĩa dùng trong cụm từ (thi văn) ‘biên tái’.

樓煩新替護羌兵=Lâu Phiền tân thế hộ Khương binh.

Lâu Phiền là một quốc gia cổ thời Chu, tọa lạc tại Sơn Tây và Hà Sáo bây giờ. Nhà Triệu chiếm đóng phần đất Sơn Tây, rồi nhà Tần chiếm vùng Hà Sáo nên người dân ở đó dời về phương Bắc và gia nhập người Hung Nô, trở thành một chư hầu của Hung Nô. Sau khi nhà Hán đánh bại Hung Nô, tàn tích của Lâu Phiền thành người Hán hay người Hung Nô.

Từ 羌=Khương là tên của sắc dân cổ của Lâu Phiền nhưng bây giờ là từ để chỉ nhiều sắc dân khác nhau phía bắc Hoa Lục. Từ 羌 là một từ vừa hội ý, vừa hài thanh vì nó gồm bộ 羊=dương và chữ 人=nhân. Người Hán ngày xưa nghĩ rằng người Khương nuôi dê và đội sừng dê trên đầu, Tên các sắc dân tứ di đều có những từ-tên súc vật chỉ nghĩa (Mân có bộ trùng, Địch bộ khuyển, Hạc bộ trĩ và Khương bộ dương), Sự kiện rằng tên người Khương có bộ dương cho người thời sau hiểu là người Hán thời Thương xem là giống man rợ và thường bắt trói làm vật tế thần. Điều này được phản ảnh trong các chữ giáp cốt văn cho Khương với sự hiện diện của các bộ 糸=mịch và 火=hỏa rằng người Khương đã bi nhà Thương trói và hỏa thiêu. Và cũng vì thế một số nhà nghiên cứu nghĩ rằng tổ tiên của người Khương là hậu duệ của nước Hạ (夏) đã bị nhà Thương diệt. Và thế có nghĩa rằng người Khương xem Hán là kẻ thù truyền kiếp và giúp Hung Nô chống lại quân Hán.

Ngoài chuyện chống chiến tranh và chống chính phủ, nhà thơ Trần Đào muốn nói gì khi dùng các địa danh và nhân danh đã đi vào lịch sử một phần vì nhân loại bất công và tàn nhẫn với … đồng loại?

Huỳnh Kim Giám

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét