Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2025

Vọng Nguyệt Hoài Viễn 望月懷遠 - Trương Cửu Linh 張九齡 (Thịnh Đường)


Trương Cửu Linh 張九齡 (678-740) tự Tử Thọ 子壽, hiệu Bác Vật 博物, người Khúc Giang 曲江, Thiều Châu 韶州 (nay thuộc tỉnh Quảng Đông), đỗ tiến sĩ lúc 29 tuổi (năm 707, đời Đường Trung Tông), được bổ làm Tả thập di, trong năm Khai Nguyên đời Đường Huyền Tông làm đến chức Trung thư lệnh. Về sau, ông làm chức Thượng thư hữu thừa, rồi bị bãi chức vì không hợp với Tể tướng Lý Lâm Phủ và mếch lòng vua.

Kỳ này diễn đàn LTCD thế kỷ 21 giới thiệu với các bạn một bài tình-nhớ của Trương Cửu Linh có nhan đề 望月懷遠 Vọng Nguyệt Hoài Viễn. Bài thơ tả một thiếu phụ nhớ chồng.

Nguyên Bản Dich âm

望月懷遠 Vọng Nguyệt Hoài Viễn

海上生明月 Hải thượng sinh* minh nguyệt,
天涯共此時 Thiên nhai cộng** thử thì.
情人怨遙夜 Tình nhân oán dao dạ,
竟夕起相思 Cánh tịch khởi tương ti (tư).
滅燭憐光滿. Diệt chúc liên quang mãn,
披衣覺露滋 Phi y giác lộ ti.(tư)
不堪盈手贈 Bất kham doanh thủ tặng,
還寢夢佳期 Hoàn tẩm mộng giai kỳ.

Chú giải

* Chữ 生 sinh trong câu 1 có một nghĩa rất bao hàm: đẻ ra, phát sinh ra… (Biển mênh mông, phản chiếu ánh trăng bao la trên mặt nước… trông giống như biển phát sinh ra ánh trăng. (Chàng cũng vậy, là nguồn phát sinh ra niềm nhớ mãnh nhiệt của thiếp…)

** Chữ 共 cộng trong câu 2 cũng rất bao hàm: cả thảy, cộng cả… Trăng lúc này sáng từ chân trời tới tận chỗ thiếp đang đứng (thiếp cảm thấy tình của chàng hiện hữu ở khắp mọi nơi). Rất chủ quan nhưng cực tả tình yêu chàng của thiếp.

Dịch nghĩa

Ngắm Trăng Nhớ Người Xa

Trăng sáng mọc (sinh ra) trên biển,
Lúc này soi (chung) cả trời đất.
Người (đa) tình oán đêm xa cách,
Suốt đêm trường thương nhớ nhau.
Tắt nến (rồi đi ra bãi biển bởi vì thiếp) thích ánh trăng hơn (ánh trăng chan hoà hơn ánh nến),
Khoác áo choàng vào (vì thiếp biết) sương móc sẽ thấm ướt làm lạnh thân mình của thiếp.
Không thể lấy tay vốc ánh trăng để (gửi) tặng chàng được,
Thà đi ngủ may ra còn được gặp chàng trong giấc mơ.

Dich thơ

Ngắm Trăng Nhớ Người Xa

Trăng sáng mọc trên biển,
Đang soi tận chân trời.
Lòng oán đêm xa cách,
Nhớ nhau đêm chơi vơi.
Tắt nến mê trăng tỏ.
Khoác áo đón sương rơi.
Không vốc trăng gởi được,
Tìm nhau trong mơ thôi./.

Lời bàn:

Bài thơ ngũ ngôn bát cú tả một cô phụ ngóng chồng ngoài bãi biển trong một đêm trăng. Những chữ trong ngoặc đơn và in nghiêng là những chữ hiểu ngầm.
Câu 1 & 2:
Bối cảnh là một bãi biển, trong một đêm trăng tỏ, có thể nhìn ra thật xa. (Chàng ở xa nhưng tình của chàng tỏa tới tận chỗ mà thiếp đang đứng…).
Câu 3 & 4:
Thiếp nhớ chàng vời vợi… Nhớ quá sinh ra oán thời gian vì thời gian đã làm thiếp xa chàng (oán lây đến thời gian hiện tại, cái đêm mà thiếp vẫn còn đang xa chàng).
Câu 5 & 6:
Thiếp tắt ngọn nến (đi ra bãi biển vì thiếp thích ánh trăng bao la hơn…), khoác cái áo choàng vào vì sương đang rơi (nàng bước từ trong nhà ra bãi biển có gió lạnh nên phải khoác áo choàng vào cho ấm… nàng sẽ đứng ở bãi biển khá lâu nên sương sẽ làm ướt áo). Chỉ có 5 chữ “khoác áo biết sương rơi” mà nói lên được những ý ấy. Đây là một trong những đặc điểm của thơ ngũ ngôn: súc tích, cô đọng.
Câu 7 & 8:
(Trăng quá đẹp, rất tiếc là thiếp) không vốc được ánh trăng để gửi cho chàng… Đành phài (trở vào trong nhà, đi ngủ để) tìm chàng trong giấc mơ…

Hay tuyệt vời! Chỉ có 40 chữ mà nói lên được ngần ấy ý! Ít lời mà nhiều thơ. Con Cò bắt đầu mê Trương Cửu Linh từ bài ngũ ngôn bát cú này (Hắn vốn dĩ thích ngũ ngôn bát cú hơn thất ngôn bát cú bởi vì niêm luật của ngũ ngôn bát cú không khắt khe lắm; kẻ dịch ngũ ngôn bát cú dễ diễn đạt hồn thơ của tác giả).

Con Cò
***
Ngắm Trăng Nhớ Người Xa

Chị hằng trên biển khơi,
Cùng lúc chiếu chân trời.
Đêm vắng tình xa oán,
Canh trường nhớ khó vơi.
Tắt đèn trăng sáng tỏ,
Khoác áo sương khuya rơi.
Vốc tặng tay không thể,
Đành mơ hẹn gặp người.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Feb. 1/2025.
***

Ngắm Trăng Nhớ Người Phương Xa

Trăng rằm treo biển rộng
Khắp đất trời mênh mông
Đêm dài thêm trống vắng
Tương tư dậy trong lòng
Nến tàn trăng càng sáng
Khoác áo ngại sương lồng
Hận trăng khó vốc gửi
Đành vào mộng nhớ mong

Kiều Mộng Hà
Feb.02.2025
***
Xa Nhớ Ngắm Trăng

Biển rộng trăng lên chiếu
Soi chung cả đất trời
Tình nhân xa cách oán
Đêm trắng nhớ đầy vơi
Tắt nến cao quang đãng
Sương khuya áo khoác rơi
Tay sao đầy vốc tặng?
Gặp gỡ giấc mơ thôi!

Lộc Bắc
***
Tấm hình LB mò ra cũng hết xẩy, nhưng chỉ có nửa đầu của bài thơ, nửa sau được một chữ !! (Thư ký đã đổi hình khác có bài thơ đầy đủ và có nghĩa hơn)
*Đúng như anh Tâm nói, hai chữ Tư, mà bị Thi Viện đổi thành Ti cho đúng vần là điều nên tránh.
*Cũng như chữ DAO, câu thứ ba, ở bài này phải phiên âm là DIÊU mới đúng, vì DIÊU DẠ, từ kép là đêm dài.
*Ở câu thứ 5, chữ LIÊN, có lẽ phiên âm là LÂN mới đúng, có nghĩa là yêu, tiếc, thương xót.
Ngoài ra, còn vài chữ khó:
*Cánh, là cuối cùng, cùng cực, biên giới. Trong bài này,có nghĩa là mà, lại.
*Phi là mở ra như phi lộ, rẽ, lướt, xẻ ra, như nhi phi kỳ địa, hoặc khoác áo, như phi cầu, là mặc áo cừu..
*Tư, ở câu 6, là nẩy nở, tăng thêm, phun, tưới, ướt…
*Tẩm là nằm, như sàng trừng tú bị quyển bất tẩm.

Vào một đêm trăng sáng, có lẽ chàng và nàng cùng ngắm trăng mà không ở gần nhau. Nàng oán đêm dài gợi mối tương tư, không ngủ được, tắt nến, ra ngoài nhìn trăng sáng mênh mông, khi cởi áo mới biết là có sương rơi… không vốc trăng mà gởi được cho chàng, thôi thì đi nằm cho xong, biết đâu trong mộng chẳng gặp được nhau… Thật là thiết tha và lãng mạn, đúng ý BS.

NgắmTrăng, Nhớ Người Xa.

Trên biển, trăng vằng vặc,
Cùng lúc ở ven trời,
Người oán đêm dài quá,
Gợi niềm nhớ khôn nguôi,
Tắt nến yêu trăng sáng,
Cởi áo biết sương rơi,
Chẳng vốc trăng tặng được,
Nằm mộng gặp nhau thôi.

Bát Sách.
(Ngày 02/02/2025)
*** 
Vọng Nguyệt Hoài Viễn

Ngắm trăng nhớ người xa
Trăng lung linh trên biển
Tỏa sáng cả đất trời
Chàng nơi đâu biền biệt
Đêm sầu nhớ bồi hồi
Tắt nến ra ngoài ngắm
Khoác áo che thân côi
Vớt trăng ngà gởi gấm
Mơ chàng lòng chơi vơi

Thanh Vân
***
Nguyên tác: Bính âm: Phiên âm:

望月懷遠 Wàng Yuè Huái Yuǎn Vọng Nguyệt Hoài Viễn

張九齡 Zhāng Jiǔ Líng Trương Cửu Linh

海上生明月 Hǎi shàng shēng míng yuè Hải thượng sanh minh nguyệt
天涯共此時 Tiān yá gòng cǐ shí Thiên nhai cộng thử thì
情人怨遥夜 Qíng rén yuàn yáo yè Tình nhân oán diêu dạ
竟夕起相思 Jìng xī qǐ xiāng sī Cánh tịch khởi tương tư
滅燭憐光滿 Miè zhú lián guāng mǎn Diệt chúc liên quang mãn
披衣覺露滋 Pī yī jué lù zī Phi y giác lộ tư
不堪盈手贈 Bù kān yíng shǒu zèng Bất kham doanh thủ tặng
還寢夢佳期 Huán qǐn mèng jiā qī Hoàn tẩm mộng giai kỳ

Mộc bản bài thơ có trong các sách:

Khúc Giang Tập - Đường - Trương Cửu Linh 曲江集-唐-張九齡
Văn Uyển Anh Hoa - Tống – Lý Phưởng 文苑英華-宋-李昉
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉 歷代詩選-明-曹學佺
Ngự Định Toàn Đường Thi Lục - Thanh - Từ Trác 御定全唐詩錄-清-徐倬
Đường Thi Tam Bách Thủ - Hoành Đường Thoái Sĩ 唐诗三百首, bài số 91 trang 103.

Con người là sinh vật có suy tư và phán đoán. Nhưng trong vài lãnh vực, trong đó có cổ thi văn, đôi khi chúng ta vô tình làm các con cừu Panurge. Chúng ta thích sao y bản tham khảo mà không/hoặc quên kiểm tra sự đúng sai của chúng.

Tôi lấy ví dụ về cách phiên âm bài thơ Vọng Nguyệt Hoài Viễn của Trương Cửu Linh, một bài thơ Đường luật 8 câu 5 chữ, một tuyệt tác chữ Hán. Nhưng khi bài thơ được phiên âm ra chữ Hán Việt, có hai âm hơi khác vần với nguyên tác. Rồi có thể tiền bối nào đó đã chỉnh sửa chữ cuối câu cho đúng vần, làm bài phiên âm nghe hay hơn, do ta không thông thạo chữ Hán cũng như chữ Hán Việt, và chúng ta cứ thế mà sao chép lại như trong các trang bên dưới:


Trong câu 4 của bài phiên âm, hai chữ tương ti từ đâu mà ra. Tự điển nào phiên âm 相思 là tương ti và từ lúc nào?

Trong câu 6, tự điển nào phiên âm 滋 là ti và từ lúc nào?

Tất cả các tự điển mà Thi Viện quy chiếu: Từ điển trích dẫn, Từ điển Thiều Chửu, Từ điển phổ thông, Từ điển Trần Văn Chánh, Từ điển Nguyễn Quốc Hùng…


không có từ điển nào nói đến chữ ti. Chữ ti là phiên âm của 15 chữ Hán khác nhau, nhưng không có chữ nào là 思 hoặc 滋 như trong bài thơ. Chữ ti không có trong tương ti và không có nghĩa gì trong lộ ti. Vậy tại sao ta cứ tiếp tục phiên âm như thế? Rất mong là tôi sai lầm vì kiến thức hạn hẹp, hơn là chúng ta đã quá thờ ơ từ nhiều năm qua.

Nguyên tác Hán bản bên trên đuợc chép lại từ sách Khúc Giang Tập - Đường - Trương Cửu Linh 曲江集-唐-張九齡, và được phiên âm với Hán Việt Tự Điển Thiều Chửu, Phiên bản 1.5 (2007.11.09).

Dịch thơ:

Ngắm Trăng Nhớ Người Phương Xa

Trăng tròn trên biển khơi,
Soi sáng cả bầu trời.
Ðem tình nhân xa cách,
Ðêm dài đến cùng nơi.
Tắt đèn không tăm tối,
Khoác áo không ấm hơi.
Không thể tự tay tặng,
Ðành mơ gặp trong đời.

Looking At The Moon Thinking Of Someone Far Away
by Zhang Jiuling

The bright moon climbs over the sea
Illuminates the entire sky at this time.
Lovers complain how endless is the night separating them
Missing each other all night long.
I blew out the candle for the love of moonlight
And realized the wet dew when putting on the coat.
As I could not gather and offer you the moonlight with my own hands,
I returned to sleep, hoping to see you in my dream.

Viewing the Moon and Missing the Dear One Afar by Zhang Jiuling
Translation by Ni Peiling
300 Tang Poems – A New Translation Edited by Xu Yuan Zhong

The moon is borne so bright above the sea
And bathes at once the distant one and me.
A lover hates the endless lonesome night,
For he would long for the one out of sight.
The candle blown out; I love moonlight more;
The dew damp, I dress to get out of door.
Since I can't make a gift of the moonbeams,
I turn in, wishing to see you in dreams.

Looking At The Moon And Longing For A Distant Lover by Zhang Jiuling
Translation by Innes Herdan

A clear moon climbs over the sea;
To its farthest rim the whole sky is glowing.
Lovers complain - how endless is the night!
Their longing thoughts rise till the dawn.

I blow out the candle to enjoy the clear radiance,
Slip on my clothes for I feel the dew grow thick.
Since I cannot gather a handful of moonlight to give you,
I shall go back to sleep and hope to meet you in a dream!

@ mirordor trả lời:

Góp ý về lời bàn của anh Tâm về các âm /tư/

Một số người Việt (trong đó có tôi) ngày xưa có khuynh hướng gọi tiếng Tàu nghe ở VN là tiếng Quảng (Đông) nhưng sự thật thì nhiều âm Tàu nghe ở VN giống tiếng Mân-/Phúc Kiến/Triều Châu. Nếu phải đoán nguyên nhân thì có thể là cho dù Quảng Đông gần VN hơn, đường đi tới băng qua núi rừng không dễ gì và có lẽ tổ tiên người Việt gặp nhiều thương gia Phúc Kiến/Triều Châu qua đường hàng hải nói tiếng Mân hơn và đa số âm Hán-Việt giống lối phát âm Mân-/PK/TC hơn là lối quan thoại. Trích đăng từ tđ Wikitonary cho lối phát âm của hai từ 思 và 滋

思=tư
• Mandarin sī (si1)
• Cantonese
(Guangzhou–Hong Kong, Jyutping): si1
(Taishan, Wiktionary): lhu1
• Hakka
(Sixian, PFS): sṳ̂ / sî
(Meixian, Guangdong): si1
• Eastern Min (BUC): sṳ̆
• Puxian Min (Pouseng Ping'ing): so1
• Southern Min
(Hokkien, POJ): su / sir / si
(Teochew, Peng'im): se1
Middle Chinese: si

滋=tư
Mandarin (Pinyin): zī (zi1)
Cantonese (Jyutping): zi1
Southern Min (Hokkien, POJ): chir / chu
Middle Chinese: tsi

Ta sẽ thấy rằng cho dù người Hán (tiếng quan thoại) phát âm hai từ đó là ti, giống lối phát âm thời Trung Cổ, người Mân phát âm các nguyên âm như /u/ hay /o/. Phát âm tư hay ti thì cũng vẫn là vần bằng, không ảnh hưởng gì với các vấn đề luật hay vần. Hai âm tư và ti có thể xem là vần “thông” ít nhất theo luật của người Việt.

Nói cách khác người Việt không học nói tiếng Hán-quan thoại mà học nói các tiếng Mân, Hẹ ở cực nam Hoa Lục. Cũng vì lý do đó, nhiều âm Hán-Việt giữ lối phát âm của tiếng Tàu thời Trung Cổ. Người Hán có chấp nhận dùng vần thông thay vì vần chính chăng thì tôi không hay, nhưng lúc người Mân đọc/xướng các bài thơ viết theo âm quan thoại thì có lẽ họ cũng gặp khó khăn như người Việt.

Huỳnh Kim Giám


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét