Thứ Tư, 19 tháng 2, 2025

Thành Nam 城南 - Tăng Củng (Bắc Tống, Liêu)


Tăng Củng 曾鞏 (1019-1083), tự: Tử Cố (子固), hiệu: Nam Phong tiên sinh, người Nam Phong, kiến Xương (nay là huyện Nam Phong, tỉnh Kiến Xương); là quan nhà Tống và là nhà văn đứng trong hàng tám nhà văn lớn thời Đường-Tống trong văn học sử Trung Quốc (bao gồm Liễu Tông Nguyên, Hàn Dũ, Tô Tuân, Tô Triệt, Tô Thức, Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Tăng Củng).

Thuở nhỏ, Tăng Củng là đứa trẻ thông minh, học giỏi. Năm 12 tuổi, ông đã nổi tiếng về tài văn, được lãnh tụ văn đàn lúc bấy giờ là Âu Dương Tu hết sức khen ngợi, cho rằng ông là thiên tài.

Năm Gia Hựu thứ hai (1057) đời Tống Nhân Tông (ở ngôi: 1022-1062), Tăng Củng cùng em là Tăng Bố và anh em Tô Thức, Tô Triệt đi thi Tiến sĩ và đều đỗ cao. Kỳ thi này do Âu Dương Tu làm Chánh chủ khảo.

Thi đỗ, Tăng Củng được bổ làm Tham quân tư pháp ở Châu Thái Bình (nay là phía đông huyện Đang Đồ, tỉnh An Huy). Sau đó, ông được chuyển đến kinh đô Khai Phong (nay thuộc tỉnh Hà Nam), chuyên làm công việc biên soạn và hiệu đính các thư tịch cho sử quán. Tiếp theo, đổi ông tới Việt Châu (nay thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang) làm Thông phán (tương đương chức Phó châu trưởng). Ở đây, ông xin bãi bỏ nhiều thứ thuế vô lý, và đề ra nhiều biện pháp để cứu đói cho dân.

Ít lâu sau, Tăng Củng được điều động đến làm Tri châu ở Tế Châu (nay là huyện Lịch thành, tỉnh Sơn Đông). Lúc bấy giờ ở đây có nhiều kẻ cướp, nhờ ông vừa tiễu phỉ vừa chiêu dụ, mà nơi ấy sớm được yên.

Thấy ông làm được việc, triều đình đổi ông làm quan ở Tương Châu (nay là huyện Tương Dương, tỉnh Hồ Nam), rồi Hồng Châu (nay là huyện Nam Xương tỉnh Giang Tây). Tại đây, nhờ ông đôn đốc việc dập dịch (ôn dịch) nên cứu sống được nhiều người, được người đời khen tặng là "vạn gia sinh Phật"

Vào thời Tống Thải Tông (ở ngôi: 1067-1085), Tăng Củng được triệu về triều làm Phán Tam Ban viện. Bị Tể tướng là Lã Công Trứ ghen ghét, nên ông chỉ được đổi làm Sử quán tu soạn (làm công việc biên soạn và sửa chữa các sách trong sử quán), dù nhà vua rất muốn trọng dụng ông.

Cuối đời, Tăng Củng còn được cử đi cai quản xứ Vương Điệp Tấu ở quận Iên An, nhưng chỉ mấy tháng sau thì ông phải về để cư tang cho mẹ; rồi ông cũng lâm bệnh mất mấy tháng sau đó (1083), thọ 64 tuổi.

Tác phẩm để lại có Nguyên Phong loại cảo, gồm 15 quyển.

Nguyên tác Dịch âm

城南 Thành Nam

雨過橫塘水滿堤 Vũ quá Hoành Đường thuỷ mãn đê,
亂山高下路東西 Loạn sơn cao hạ lộ đông tê (tây).
一番桃李花開盡 Nhất phiên đào lý hoa khai tận,
惟有青青草色齊 Duy hữu thanh thanh thảo sắc tề.

Chú giải

亂山 loạn sơn: nhiều núi lộn xộn; dịch là rặng núi.
路 lộ: đường đi
盡 tận: hết, không còn gì.
花開盡 hoa khai tận: hoa đã nở nay rụng không còn gì nữa.
齊 tề: đều nhau, không so le (như thảm cỏ).
青青草色齊 thanh thanh thảo sắc tề: cỏ màu xanh nhạt đều nhau; cỏ như tấm thảm xanh.

Dịch nghĩa

Phía Nam Thành

Mưa qua Hoành Đường, nước mưa làm ngập đê (tràn vào thành),
Các đường cao thấp của rặng núi phía đông và phía tây (Hoành Đường) đều lụt hết (nước đang đổ vào thành).
Một phen mưa nhiều làm hoa đào hoa mận đã nở nay rụng hết,
Duy chỉ có cỏ thì tươi như một tấm thảm xanh.

Dịch thơ

Phía Nam Thành

Mưa vượt Hoành Đường nước ngập đê,
Đông tây đồi núi lụt đường đi.
Một phen đào mận hoa rơi hết,
Duy cỏ xanh đều sắc khỏi chê.

Con Cò
***
Phía Nam Thành.

Mưa tạnh Hoành Đường nước ngập đầy,
Núi non cao thấp lối đông tây.
Một phen đào mận hoa tàn hết,
Duy chỉ xanh xanh cỏ mướt dầy.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Nov. 26/2024.
***
Phía Nam Thành

Mưa tới Hoành Đường nước ngập đê,
Đồi núi đông tây nước đổ về,
Một phen đào mận hoa nở rộ,
Duy cỏ xanh xanh đẹp não nề.

Bát Sách.
(ngày 29/11/2023)

***
Tường Thành Hướng Nam

Hoành Đường, mưa ngập tràn đê,
Đông tây rừng núi - ê chề lụt dâng.
Nước tuôn cao thấp khắp đàng,
Hoa đào lẫn mận rỡ ràng nở bung.
Cỏ xanh mơn mởn ngoài bưng,
Khác chi tấm thảm bày cùng đồng không.

Khánh-Hưng
***
Nam Thành

Mưa tạnh Hoành Đường lũ vượt đê
Đông tây núi lớn nước tuôn về
Một phen đào lý khai hoa tận
Chỉ thấy xanh xanh cỏ bốn bề!

Lộc Bắc
***
Phía Nam Thành

Bờ đê mưa ngập vượt Hoành Đường
Lũ khắp Đông/Tây thật thảm thương
Đào mận phen này bùng rộ nở…
Cỏ xanh, xanh mượt mướt đồng mương

Kiều Mộng Hà
Nov 26.2024
***
Nam Thành

Mưa lớn Hoành Đường lũ vượt đê
Núi đồi dào dạt nước trôi về
Hoa đào hoa mận khai rồi úa
Đồng cỏ xanh xanh khắp bốn bề

Thanh Vân
***
Góp ý của Phí Minh Tâm:

Không có cách gì biết chắc Hoành Đường của Tăng Củng là gì vì địa điểm không còn…

Hoành Đường: tên bờ kè do Hán Vũ Đế thời Tam Quốc xây ở bờ nam sông Nam Hoài 南 淮 (nay là sông Tần Hoài 秦淮) để ngăn lụt ở Kiến Nghiệp 建业, nay là Nam Kinh, Giang Tô. Sau này Hoành Đường được sử dụng để chỉ nhiều địa danh khác nhau như: Hoành Đường ở Trừ Châu, An Huy; Hoành Đường ở Tương Phiền, Hồ Bắc; Hoành Đường ở Nam Bình, Phúc Châu, Phúc Kiến…


Ngày nay Google Maps cho ít nhất 15 địa danh với tên Hoành Đường ở Trung Hoa. Trên hình chấm đỏ chỉ địa điểm nguyên thủy Hoành Đường, Giang Tô, cực nam là Hoàng Đường, Phúc Châu, cực tây là Hoành Đường, An Huy…

Thờì nhà Đường, các thi nhân dùng Hoành Đường để chỉ quê hương của cái đẹp, nơi từ biệt nhau và bày tỏ tình bạn…

Thôi Hiệu viết trong bài Trường Can Hành:
Quân gia tại hà xứ               君家在何處    Nhà anh ở đâu?
Thiếp trú tại Hoành Đường 妾住在橫塘    Nhà em ở Hoành Đường

Hàn Ốc viết trong bài Hoành Đường:

Tán khách xuất môn tà nguyệt tạ 散客出門斜月在  Mặt trăng lặn khi khách đi ra ngoài


Lưỡng mi sầu tư vấn Hoành Đường 兩眉愁思問橫塘  Câu mày lo lắng cho Hoành Đường

Lưu Phương Bình viết trong bài Ô Tê Khúc:

Môn tiền nguyệt sắc ánh Hoành Đường 門前月色映橫塘Trước cửa ánh trăng phản chiếu Hoành Đường,

Cảm lang trung dạ độ Tiêu Tương 感郎中夜度瀟湘 Cảm tạ ban đêm đưa tôi qua sông Tiêu Tương

Hơn 100 năm sau:

Tăng Củng (1019-1083) làm bài Thành Nam Nhị Thủ:

Kỳ 1:

Vũ quá Hoành Đường thủy mãn đê 雨過横塘水滿堤
Loạn sơn cao hạ lộ đông tê (tây) 亂山高下路東西
Nhất phiên đào lý hoa khai tận一 番桃李花開盡
Duy hữu thanh thanh thảo sắc tề 惟有青青草色齊

Mưa đến Hoành Đường nước ngập đê,
Đông tây cao thấp núi lê thê.
Hoa đào hoa mận rơi tơi tả,
Cỏ vẫn xanh rì mọc xum xuê.

Kỳ 2:

Thủy mãn Hoành Đường vũ quá thì 水滿横塘雨過時
Nhất phiên hồng ảnh tạp hoa phi 一番紅影雜花飛
Tống xuân vô hạn tình trù trướng 送春無限情惆悵
Thân tại thiên nhai vị đắc quy 身在天涯未得歸

Nước ngập Hoành Đường bão tả tơi,
Nền trời đỏ rực hoa hoa rơi.
Tiễn xuân cảm xúc buồn vô tận,
Không thể về quê tận cuối trời.

Phạm Thành Đại (1126-1193) có viết trong bài tứ tuyệt Hoành Đường:

Nam Phổ xuân lai lục nhất xuyên 南浦春來綠一川
Thạch kiều chu tháp lưỡng y nhiên 石橋朱塔兩依然
Niên niên tống khách Hoành Đường lộ 年年送客橫塘路
Tế vũ thùy dương hệ họa thuyền 細雨垂楊繫畫船

Nam Phổ xuân về nước đậm xanh,
Tháp chùa cầu đá cảnh yên lành
Hoành Đường năm tháng đưa tiễn khách,
Neo chặt thuyền sơn liễu rũ cành.

Khi đọc qua bài thơ của Tăng Củng, người ta nghĩ ngay Hoành Đường trong bài thơ là Hoành Đường nguyên thủy ở Tô Châu vì có tài liệu cho thấy nhà Hán xây đê ở đây để chặn lũ lụt. Khi biết lúc làm bài thơ, Tăng Củng đang ở Phúc Châu cách Tô Châu gần 800 km về phía nam, có người cho Hoành Đường thời Tống ở Nam Bình chỉ cách xa Phúc Châu khoảng 200 km. Còn có người cho Hoành Đường/Thành Nam ở tại hay gần Phúc Châu, nhưng không có tài liệu nào xác nhận sự việc nầy, ngoài các màu sắc và chi tiết sống động trong bài thơ như đang thấy tận mắt. Ngược lại câu chót của thủ 2 bài thơ, Thân tại thiên nhai vị đắc quy 身在天涯未得歸 Ở tận chân trời nên không thể trở về nhà, hoàn toàn phủ nhận Hoành Đường gần Phúc Châu. Người Trung Hoa cũng không đồng ý nhau và chỉ có thể đoán về địa điểm của Hoành Đường trong bài thơ của Tăng Củng.

Phí Minh Tâm
***
Góp Ý:

橫塘=Hoành Đường. 塘=đường có hai nghĩa i) cái đê và ii) cái ao vuông. Trong bài thơ này Hoành Đường là tên của một cái ao (giờ không còn nữa) bên tả ngạn sông Tần Hoài, hướng nam của thị trấn Tần Hoài (秦淮), một địa khu phía nam của Giang Ninh (江寧, Nanjing/Nam kinh bây giờ) thời Bắc Tống. 城南=thành nam trong tựa đề bài thơ chỉ vùng Tần Hoài. Tần Hoài (hà/he) cũng là một phụ lưu nhỏ của Trường Giang, chảy ngang theo hướng Đông-Tây (gốc của tên Hoành) phía Nam của Tần Hoài trước khi chuyển hướng Tây Bắc để đổ vào Trường Giang.


Trên hình chụp của bản đồ địa thế Google cho Giang Ninh/Nam Kinh, chấm đỏ là nơi sông Tần Hoài đổ vào Trường Giang, và thị trấn Tần Hoài ở hướng Nam của Nanjing (trên xa lộ S87). Trên trục hoành, có ba ngọn núi, Lão sơn (老山), ở hướng Tây, bên kia Trường Giang, Chung sơn (钟山) sát bên hướng Đông, và nhóm núi Bảo Hoa (宝华山) ở xa hơn hướng Đông. Câu 亂山高下路東=loạn sơn cao hạ lộ đông tây nói đến cả ba nhóm núi quanh Tần Hoài/Giang Ninh đó.

Điểm chính đáng để ý về bài thơ là việc Tăng Củng tương phản các hoa đào mận với thảm cỏ. Các loài đào mận là biểu tượng trong văn thơ để tả cảnh đẹp phù du của mùa xuân, hoa nở rồi sẽ tàn sau vài ngày, hay sau một cơn giông bão, nhưng cỏ xanh thì vẫn tươi xanh với thời gian và thiên tai. Đây chỉ là một bài ngẫu hứng tả cảnh thiên tai hay thi nhân họ Tăng muốn hàm ý triết lý về cuộc đời thì đạo Mò không biết.

Huỳnh Kim Giám

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét