Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2022

Góc Đường Thi: Những Bài Thơ Trường Tương Tư (Vương Duy, Lương Ý Nương, Lý Bạch)


A. Bài thơ TƯƠNG TƯ ngắn nhất:

Tương truyền, nước Nam ngày xưa, gồm Lưỡng Quảng bây giờ, có người chinh phụ hay tin chồng đã chết ở chiến trường, nên đau lòng khóc thương đến chết ở bờ rào. Ít lâu sau nơi đó mọc lên một dây đậu trổ ra toàn là đậu đỏ. Dân làng gọi đó là " Tương Tư Tử 相思子 " : là Hạt Nhớ Nhau. Trong Đường Thi có bài thơ Tương Tư 相思 nổi tiếng của Vương Duy nhắc đến loại Đậu Đỏ nầy :

Hồng ĐẬU sanh nam quốc, 紅豆生南國,
Xuân lai phát kỷ chi ? 春來發幾枝 ?
Nguyện quân đa thái hiệt, 願君多採擷,
Thử vật tối tương ti (tư) . 此物最相思。

Diễn nôm:
Nước Nam có đậu hồng,
Xuân về trổ mấy bông ?
Xin người hái lấy để trong...
Áo xiêm xao xuyến cho lòng nhớ nhau!

B. Khúc hát TƯƠNG TƯ dài và gây tranh cải nhất:

Khúc hát TƯƠNG TƯ dài và gây tranh cải nhất, đó chính là khúc cổ cầm TƯƠNG GIANG OÁN 湘江怨. Tương truyền là của Lương Ý Nương một cô gái tài hoa tinh thông âm luật soạn ra, theo tích sau đây:
LƯƠNG Ý NƯƠNG 梁意娘 (khoảng thế kỷ thứ 10) là cô gái giỏi về từ của nhà Hậu Chu đời Ngũ Đại, tài hoa rất mực. Cô cùng với biểu huynh là Lý Sinh yêu nhau và cùng đính ước chung thân với nhau. Cha cô biết được, trách cứ và cấm hai người qua lại cùng nhau. Cả hai đều rất ưu sầu tương tư đến sinh bệnh. Sau Lý Sinh nhờ mai mối đến ân cần dạm hỏi; Cha của Ý Nương sợ chuyện xấu đổ bể bèn ưng thuận cho cả hai được hoàn thành hôn sự đoàn tụ cùng nhau.
LƯƠNG Ý NƯƠNG rất giỏi về cổ cầm và âm luật, trong khoảng thời gian bị ngăn cách, tương tư tưởng nhớ đến Lý Sinh, cô đã nương theo tích xưa : Khi vua Thuấn đi tuần về miền nam rồi chết ở vùng Thương Ngô; Hai bà phi là Nga Hoàng và Nữ Anh tìm đến khóc chồng đến nỗi nước mắt chảy thành máu vãi đầy lên những cây trúc ở đó làm cho các cây trúc đều có đốm đỏ (loại trúc nầy rất quý, gọi là TƯƠNG PHI TRÚC 湘妃竹); Cuối cùng hai bà cùng chết ở bên bờ sông Tương và được phong làm thần sông nơi đó, nên người đời còn gọi hai bà là TƯƠNG PHI 湘妃. Lương Ý Nương đã mượn tâm sự của hai bà mà soạn nên khúc đàn TƯƠNG GIANG OÁN 湘江怨 để gởi gấm tâm sự nhớ nhung tha thiết của mình đến người yêu Lý Sinh. CA TỪ 歌詞 là lời của khúc hát cũng là một từ điệu thoát thai từ thi tứ mà ra, lời ca nhớ nhung da diết uyển chuyển bồi hồi âu sầu tha thiết dễ đánh động lòng người. Theo cầm phổ được chia làm 6 đoạn như sau :

*1.
落花落葉亂紛紛, Lạc hoa lạc diệp loạn phân phân,
終日思君不見君。 Chung nhật tư quân bất kiến quân.
腸欲斷兮腸欲斷, Trường dục đoạn hề, trường dục đoạn,
淚珠痕上更添痕。 Lệ châu ngân thượng cánh thiêm ngân.
一片白雲青山內, Nhất phiến bạch vân thanh sơn nội,
一片白雲青山外。 Nhất phiến bạch vân thanh sơn ngoại.
*2.
青山內外有白雲, Thanh sơn nội ngoại hữu bạch vân,
白雲飛去青山在。 Bạch vân phi khứ thanh sơn tại.
我有一片心,         Ngã hữu nhất phiến tâm,
無人對君說。         Vô nhân đối quân thuyết.
願風吹散雲,         Nguyện phong xuy tán vân,
訴與天邊月。         Tố dữ thiên biên nguyệt.
攜琴上高樓,         Huề cầm thướng cao lâu,
樓高月華滿。         Lâu cao nguyệt hoa mãn.
*3.
相思彈未終, Tương tư đàn vị chung,
淚滴冰弦斷。 Lệ trích băng huyền đoạn.
人道湘江深, Nhân dạoTương Giang thâm,
未抵相思半。 Vị để tương tư bán,
海深終有底, Hải thâm chung hữu đễ.
相思無邊岸。 Tương tư vô biên ngạn.
*4.
君在湘江頭, Quân tại Tương Giang đầu,
妾在湘江尾。 Thiếp tại Tương Giang vĩ.
相思不相見, Tương tư bất tương kiến,
淚滴湘江水。 Lệ trích Tương giang thủy.
夢魂飛不到, Mộng hồn phi bất đáo,
所欠惟一死。 Sở khiếm duy nhất tử.
*5.
入我相思門,         Nhập ngã Tương tư môn,
知我相思苦。         Tri ngã tương tư khổ.
長相思兮長相憶, Trường tương tư hề, trường tương ức,
短相思兮無盡極。 Đoản tương tư hề, vô cùng cực.
早知如此絆人心, Tảo tri như thử bạn nhân tâm,
何如當初莫相識! Hà như đương sơ mạc tương thức !
*6.
湘江湘水碧沉沉, Tương Giang Tương thủy bích trầm trầm,
未抵相思一半深。 Vị để tương tư nhất bán thâm.
每向夢中相見後, Mỗi hướng mộng trung tương kiến hậu,
令人不覺痛傷心。 Lệnh nhân bất giác thống thương tâm.

* Nghĩa của ca từ trên là:

1. Hoa rơi lá rơi, oa lá rơi tả tơi. Cả ngày nhớ thương chàng mà nào có thấy bóng chàng đâu. Buồn muốn đứt ruột, ôi, buồn đứt ruột. Trên ngấn lệ cũ lại chồng thêm ngấn lệ mới. Một đám mây trắng bay trong núi xanh và một đám mây trắng bay ngoài núi xanh.
2. Trong núi xanh ngoài núi xanh đều phủ đầy mây trắng, nhưng mây trắng thì bay đi chỉ có núi xanh còn ở lại. Ta có một bầu tâm sự, nhưng không ai giúp ta thổ lộ cùng chàng. Mong rằng gió sẽ thổi tan mây đi để ta bày tỏ cùng vầng trăng bên trời. Ôm đàn lên lầu cao, trên lầu cao ánh trăng đầy đặn lan tỏa khắp nơi.
3. Ta gãy một khúc đàn tương tư, chưa gãy xong thì những giọt lệ đã rơi xuống thành những giọt băng lạnh làm đứt cả dây đàn. Người ta bảo sông Tương sâu, nhưng sâu không bằng một nửa của nỗi lòng tương tư. Vì sông biển sâu còn có đáy, chớ nỗi lòng tương tư thì không có bờ bến bai giờ.
4. Chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương, cùng tương tư cùng nhớ nhau nhưng không thể gặp nhau và cũng cùng nhỏ lệ xuống dòng sông Tương nầy. Mộng hồn không bay tới được với nhau, chỉ còn thiếu có cái chết mà thôi !
5. Đã bước vào cửa tương tư của ta rồi, mới biết tương tư là đau khổ. Nhớ nhau dai dẵng ôi nhớ nhau muôn vàn; Nhớ nhau một lúc ôi nhớ nhau vô vàn. Nếu biết trước sẽ trói buộc lòng người như thế nầy, thì thà lúc ban đầu ta đừng quen biết nhau.
6. Nước của dòng sông Tương biêng biếc sâu thăm thẳm, nhưng cũng không sâu bằng một nửa của nỗi lòng tương tư. Cứ mỗi lần sau khi gặp gỡ nhau trong mộng rồi thì khiến cho người ta lại càng thương tâm đau lòng hơn.

* Diễn Nôm:
TƯƠNG GIANG OÁN

1.
Hoa rơi lá rơi rơi tơi tả,
Nhớ thương chàng chả thấy chàng đâu.
Lòng đau ruột đứt âu sầu,
Biết bao ngấn lệ tuôn trào không thôi.
Núi xanh có mây trắng trôi,
Bay hoài mây trắng trong ngoài núi xanh.
2.
Trong ngoài núi xanh đầy mây trắng,
Núi còn trơ mây trắng đà bay.
Nỗi lòng biết tỏ cùng ai,
Không người tri kỷ giải bày nhớ nhung.
Ước gì gió thổi tung mây trắng,
Đến bên trời để nhắn cùng trăng,
Ôm cầm lầu vắng bâng khuâng,
Lầu cao lồng lộng trăng ngân phủ đầy.
3.
Khúc chưa dứt lòng đầy tưởng nhớ,
Lệ đà rơi đứt lở dây đàn,
Sông Tương sâu tợ bể ngàn,
Không bằng một nửa lệ tràn tương tư.
Dễ dò biển cả thực hư,
Mênh mông hơn biển tương tư vô bờ !
4.
Đầu sông Tương ngẩn ngơ chàng đợi,
Cuối sông Tương mòn mõi thiếp trông.
Nhớ nhau lòng ngẩn ngơ lòng,
Lệ rơi cùng nhỏ xuống dòng sông Tương.
Mộng hồn bay đến khôn đường,
Chỉ còn một thác vấn vương tơ tình !
5.
Tương tư vào cửa chúng mình,
Mới hay đau khổ vì tình tương tư.
Tương tư dai dẳng tương tư,
Tương tư một chốc tình như muôn trùng.
Thương nhau trói buộc khôn ngừng,
phải chi lúc trước ta đừng quen nhau.
6.
Nước sông Tương sẫm màu xanh biếc,
Tương tư còn da diết gấp đôi.
Trong mơ gặp gỡ bồi hồi,
Khiến người đau xót ngậm ngùi tương tư!
(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)

Trên đây là CA TỪ 歌詞 (lời bài hát) của khúc nhạc TƯƠNG GIANG OÁN 湘江怨 (còn có tên là TƯƠNG PHI OÁN 湘妃怨) của LƯƠNG Ý NƯƠNG 梁意娘, chớ "không phải là một bài thơ trường thiên" như mọi người lầm tưởng. Vì là LỜI của một bài ca nên đã chấp nhặt rất nhiều kỉến thức và thơ văn của người khác. Ví dụ như câu: 白雲飛去青山在 Bạch vân phi khứ thanh sơn tại (Mây trắng đã bay đi rồi nhưng núi xanh thì vẫn còn đó). Câu thơ nầy là "một vế" của câu đối rất lý thú ở trước Chúc Dung Điện 祝融殿 nằm trên Chúc Dung Phong 祝融峰 là ngọn núi cao nhất trong 72 ngọn phong của Nam Nhạc Hành Sơn 南岳衡山 trong dãy núi Ngũ Nhạc nổi tiếng của Trung Hoa. Câu đối như sau:

白雲飛去青山在, Bạch vân phi khứ thanh sơn tại,
青山常在白雲中。 Thanh sơn thường tại bạch vân trung.
Có nghĩa :
- Mây trắng đã bay đi rồi nhưng núi xanh thì vẫn còn đó,
- Núi xanh vẫn thường còn đó giữa trong lòng mây trắng phủ quanh.
* Mây trắng ở vế trên là những làn khói trắng bốc lên từ trong điện thờ thần lửa Chúc Dung; còn mây trắng bên vế dưới là mây trắng của trời xanh luôn phủ quanh ngọn phong cao nhất nầy.

Còn từ câu: 攜琴上高樓 Huề cầm thướng cao lâu, cho đến câu : 相思無邊岸。Tương tư vô biên ngạn. Tám câu nầy là bài thơ Tương Tư Oán 相思怨 của một trong Tứ Đại Nữ Thi Nhân 四大女詩人 đời Đường Lý Qúi Lan 季蘭 (730-784) làm để tưởng nhớ đến người yêu Chu Phóng, đã được Lương Ý Nương đão ngược đão xuôi và thay đổi đi vài chữ mà thôi.(Mời xem lại bài viết "Chùm thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (3)").

Còn từ câu :入我相思門 Nhập ngã Tương tư môn, cho đến câu :何如當初莫相識 Hà như đương sơ mạc tương thức. Sáu câu nầy là mượn trong bài 秋風詞 THU PHONG TỪ của Thi Tiên Lý Bạch đời Đường. Mời xem bài từ đó sau đây :

秋風詞                     THU PHONG TỪ

秋風清,秋月明, Thu phong thanh, thu nguyệt minh,
落葉聚還散,          Lạc diệp tụ hoàn tán,
寒鴉棲復驚。          Hàn nha thê phục kinh.
相思相見知何日, Tương tư tương kiến tri hà nhật,
此時此夜難為情。 Thử thời thử dạ nan vi tình.
入我相思門,         Nhập ngã tương tư môn
知我相思苦,         Tri ngã tương tư khổ,
長相思兮長相憶, Trường tương tư hề trường tương ức,
短相思兮無窮極。 Đoản tương tư hề vô cùng cực.
早知如此絆人心, Tảo tri như thử bạn nhân tâm,
何如當初莫相識。  Hà như đương sơ mạc tương thức.

Nghĩa Bài Từ:

Trong cái gió thu mát lạnh và trong ánh trăng thu sáng vằng vặc, lá rụng về cội rồi lại bị gió cuốn tan đi, làm cho lũ quạ đậu ở trên cây cũng giật mình kêu oang oác. Nhớ nhau đây nhưng biết đến ngày nào mới lại được gặp nhau ? Đêm nay vào lúc nầy là lúc đang khoắc khoải vì nhau. Vào cửa tương tư của ta rồi, mới biết rằng tương tư là đau khổ, nhớ nhau vằng vặc hề...nhớ dài lâu, nhớ nhau một chốc hề...nhớ khôn cùng. Nếu sớm biết rằng trói buộc lòng ta là vậy, thì phải chi lúc ban đầu mình đừng quen biết chi nhau !

Diễn nôm:

Gió thu lạnh, trăng thu bạch,
Lá thu về cội lại ly tan,
Lũ quạ giật mình xao xát.
Nhớ nhau ngày nào mới gặp lại dung nhan,
Đêm nay tình ta ngơ ngác,
Vào cửa tương tư hỉ lạc,
Mới biết tương tư khổ lụy vô vàn.
Nhớ nhau dai dẳng hề... nhớ chứa chan,
Nhớ nhau phút chốc hề... nhớ muôn ngàn.
Nếu sớm biết trói buộc lòng người đau khổ,
Thà đừng quen, đừng biết lúc ban sơ.
(Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm)

Mời nghe bản nhạc Tương Giang Oán với tiếng cổ cầm của Giang Quân:
江君古琴 之《湘江怨》


杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét