Thu Tứ
Tịch chiếu hồng vu thiếu
Tình không bích thắng lam
Thú hình vân bất nhất
Cung thế nguyệt sơ tam
Nhạn tứ lai thiên bắc
Châm sầu mãn thủy nam
Tiêu điều thu khí vị
Vị lão dĩ thâm am
Bạch Cư Dị
Dịch Nghĩa:
Ý Thu
Nắng chiều chiếu ánh đỏ như thiêu đốt
Bầu trời tạnh ráo sắc xanh nhiều hơn sắc lam
Mây đổi thay hình dạng các thú vật
Trăng mùng ba có hình cánh cung
Ý nhạn muốn bay lên mạn bắc
Tiếng chầy làm buồn bã vùng sông phía nam
Khí vị mùa thu thực là buồn bã)
Chưa già nhưng đã hiểu biết nhiều
Bản dịch:
Ý Thu
Nắng chiều hồng, mặt trời đỏ thắm
Xanh biếc trời vương vấn chút lam
Trong mây hình thú hợp tan
Mồng ba , liềm mỏng trăng đang tượng hình
Ngóng về bắc viễn chinh cánh nhạn
Tiếng chày buồn lãng đãng sông Nam
Hơi thu sầu thảm không gian
Chưa già mà đã mênh mang hiểu đời
Mailoc
***
Ý Thu
Nắng chiều sắc đỏ như thiêu
Bầu trời tạnh ráo xanh nhiều hơn lam
Mây thay hình dạng hợp tan
Mùng ba trăng khuyết đóng màn cánh cung
Nhạn vời hướng Bắc bay tung
Tiếng chày buồn bả Nam phương nhịp nhàng
Thu sầu ảm đạm không gian
Chưa già đã hiểu miên man sự đời
songquang
***
1- Nguyên bản chữ Nho của bài Thu Tứ:
秋思 THU TỨ
夕照紅於燒, Tịch chiếu hồng ư thiêu,
晴空碧勝藍。 Tình không bích thằng lam.
獸形雲不一, Thú hình vân bất nhất,
弓勢月初三。 Cung thế nguyệt sơ tam.
雁思來天北, Nhạn tứ lai thiên bắc,
砧愁滿水南。 Châm sầu mãn thủy nam.
蕭條秋氣味, Tiêu điều thu khí vị,
未老已深諳。 Vị lão dĩ thâm am.
白居易 Bạch Cư Dị
* Chú thích :
- THU TỨ 秋思 : Những cảm xúc nghĩ ngợi về mùa thu, là Tứ thơ của mùa Thu.
- HỒNG Ư THIÊU 紅於燒 : Đỏ rực như lửa cháy.
- BÍCH THẮNG LAM 碧勝藍 : Xanh biên biếc hơn cả màu xanh lam.
- CHÂM 砧 : Tấm thớt, ở đây chỉ cái chày bằng đá dùng để đập giặt vải thô.
- KHÍ VỊ 氣味 : là Mùi vị. THU KHÍ VỊ 秋氣味 là cái hơi hám của mùa thu.
- AM 諳 : là Am tường, thấu hiểu. THÂM AM 深諳 : Thấu hiểu một cách rõ ràng tường tận.
* Nghĩa bài thơ:
TỨ THU
Nắng chiều đỏ rực như cháy ở phía trời tây. Bầu trời xanh biên biếc hơn cả màu xanh lam. Các cụm mây luôn chuyển đổi hình dạng bất nhất từ con thú nầy sang con thú khác. Vầng trăng non ngày mùng ba cong tợ nửa cánh cung. Đàn nhạn bay về nam để trốn lạnh nhưng lòng lại luôn nhớ về phương bắc. Tiếng chày đá giặt vải thô để may áo ngự hàn từ phương bắc trên dòng nước đầy của phương nam. Cái hơi hám tiêu điều hiu hắt của mùa thu, mặc dù chưa già nhưng tất cả cũng đều am hiểu mà cảm nhận được.
Diễn Nôm:
Thu Tứ
Trời tây rực lửa hồng,
Xanh biếc giữa từng không.
Mây đổi muôn hình thú,
Trăng mồng ba mông lung.
Nhạn xuôi nam nhớ bắc,
Chày sầu nước nam dâng.
Hiu hắt hơi thu lạnh,
Chưa già vội bâng khuâng.
Lục bát:
Nắng chiều đỏ rực trời tây,
Xanh lơ biên biếc từng mây lam hồng.
Muôn hình vạn trạng thú lồng,
Mồng ba trăng mới cong vòng cánh cung.
Xuôi nam nhớ bắc nhạn trông,
Tiếng chày đập vải đầy dòng nước nam.
Hắt hiu hơi lạnh thu sang,
Chưa già nhưng đã ngập tràn ý thu.
Đỗ Chiêu Đức
---o0o---
Tảo Thu Độc Dạ
Tỉnh ngô lương diệp động
Lân chử thu thanh phát
Độc hướng thiềm hạ miên
Giác lai bán sàng nguyệt
Bạch Cư Dị
Dịch Nghĩa:
Buổi đầu thu, đêm một mình
Lá cây ngô đồng trên bờ giếng gặp gió lạnh lay động
Tiếng chày giả gạo bên hàng xóm vang lên cùng tiếng thu
Một mình nằm ngủ dưới mái hiên
Tỉnh dậy trăng rọi sáng nửa giường nằm
Bản dịch:
Ngô đồng bên giếng gió lay lay
Trong xóm mùa thu vẳng tiếng chày .
Hiên vắng mình ta làm một giấc
Tỉnh ra ánh nguyệt nửa giường lai.
Mailoc
***
Đêm Thu Một Mình
Lá ngô đồng đầu Thu lay động
Tiếng chày kình vang vọng xóm trên
Một mình nằm ngủ dưới hiên
Tỉnh ra trăng rọi nửa bên chỗ nằm
songquang
2- Bản chữ Nho của bài thơ Tảo Thu Độc Dạ:
早秋獨夜 TẢO THU ĐỘC DẠ
井梧涼葉動, Tỉnh ngô lương diệp động,
鄰杵秋聲發。 Lân chử thu thanh phát.
獨向檐下眠, Độc hướng thiềm hạ miên,
覺來半牀月。 Giác lai bán sàng nguyệt.
白居易 Bạch Cư Dị
Chú thích:
- TẢO THU ĐỘC DẠ 早秋獨夜 : Một mình trong đêm đến sáng mùa thu, là "Trong đêm thu một mình đến sáng. Cũng có nghĩa "Đầu thu, đêm ngủ một mình".
- TỈNH NGÔ 井梧 : Cây ngô đồng bên bờ giếng.
- LÂN CHỬ 鄰杵 : Tiếng chày của lối xóm.
- THIỀM 檐 : Cái mái hiên nhà.
Nghĩa bài thơ:
Một Mình Trong Đêm Đầu Thu
Lá của cây ngô đồng đã lay động bên giếng thu mát mẻ. Tiếng chày giặt vải để may áo ngự hàn bên hàng xóm đã khơi động tiếng thu. Ta một mình nằm ngủ dưới mái hiên nhà, khi giật mình thức giấc thì ánh trăng xế đã chiếu xeo xéo nửa giường ngủ của ta rồi !
Câu đầu của bài thơ "井梧涼葉動 Tỉnh ngô lương diệp động", làm ta nhớ đến hai câu thơ cổ là "梧桐一葉落,天下盡知秋 Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ tận tri thu". Có nghĩa : "Chỉ cần một lá ngô đồng rơi rụng, khắp cả nhân gian đều biết là mùa thu đã đến rồi !". Và câu đầu tiên trong bài thơ đầu tiên của 5 bài Trường Tín Thu Từ 長信秋詞 của Vương Xương Linh đời Đường là " 金井梧桐秋葉黃 Kim tỉnh Ngô đồng thu diệp hoàng". Có nghĩa : "Lá của cây ngô đồng mùa thu đã rụng đầy cả giếng vàng". Tất cả đều cùng một ý niệm chỉ mùa thu đã đến rồi. Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du cũng mượn các ý nầy để chuyển tiếp từ hạ sang thu khi Thúc Sinh về thăm vợ cả là Hoạn Thư :
Thú quê thuần hức bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
Diễn Nôm:
Tảo Thu Độc Dạ
Giếng ngô hắt hiu cành lá,
Tiếng chày đập vải thu sang.
Một mình dưới hiên say ngủ,
Giật mình trăng đã nửa sàng.
Lục bát:
Lá ngô lay động giếng vàng,
Tiếng chày đập vải thu sang láng giềng.
Một mình nằm ngủ dưới hiên,
Giật mình tỉnh giấc trăng nghiêng nửa giường!
Đỗ Chiêu Đức
---o0o---
Thu Vũ Dạ Miên
Lương lãnh tam thu dạ
An nhàn nhất lão ông.
Ngoạ trì đăng diệt hậu
Thuỳ mỹ vũ thanh trung.
Hôi túc ôn bình hỏa
Hương thiêm noãn bị lung.
Hiểu tình hàn vị khởi,
Sương diệp mãn giai hồng.
Bạch Cư Dị
Dịch nghĩa:
Một đêm giá lạnh trong ba tháng thu
Có một ông già đang an nhàn
Lên giường trễ sau khi tắt đèn
Ngủ ngon trong tiếng mưa rơi
Chỉ còn tro tàn trong lò sưởi
Bỏ thêm trầm hương vào lồng đốt
Buổi sáng quang đãng khí lạnh chưa tới
Lá đỏ đẫm sương rụng đầy thềm
Bản dịch:
Ba tháng thu, một đêm lạnh lẽo
Một lão nhân trong vẻ an nhàn.
Lên giường đèn tắt muộn màng
Vùi say giấc điệp trong làn nhạc mưa.
Trong lò hồng, tro vừa tắt ngủm
Thêm trầm hương một nhúm vào lồng.
Rét còn chưa tới, rạng đông
Sương đêm nhuộm thắm rực hồng lá thu
Mailoc
***
Thu Đêm Mưa
Đêm Thu ba tháng lạnh căm
Lão ông dáng vẻ an nhàn thảnh thơi
Lên giường,đèn tắt trễ rồi
Vùi say giấc ngủ,mưa rơi ngập tràn
Sưởi lò lữa tắt tro tàn
Bỏ thêm trầm đốt cho than cháy hồng
Rét thời chửa kịp hừng đông
Đẫm sương lá đỏ bên song đầy thềm
songquang
***
3. Nguyên bản chữ Hán cổ của bài thơ Thu Vữ Dạ Miên:
秋雨夜眠 THU VŨ DẠ MIÊN
涼冷三秋夜, Lương lãnh tam thu dạ,
安閒一老翁。 An nhàn nhất lão ông.
臥遲燈滅後, Ngọa trì đăng diệt hậu,
睡美雨聲中。 Thụy mỹ vũ thanh trung.
灰宿溫瓶火, Hôi túc ôn bình hỏa,
香添暖被籠。 Hương thiêm noãn bị lung.
曉晴寒未起, Hiểu tình hàn vị khởi,
霜葉滿階紅。 Sương diệp mãn giai hồng !
白居易 Bạch Cư Dị
Chú thích:
- Lương Lãnh: Lương là Mát; Lãnh là Lạnh; Lương Lãnh là Mát đến thấy lạnh, vì đã Tam Thu là vào khoảng tháng 9 âm lịch.
- Bình Hỏa: là Cái bình bằng sành hơ trên lửa cho nóng để ôm ngủ cho ấm trong đêm thu lạnh lẽo.
- Bị Lung: là cái mền bung ra như cái lồng để chui vào cho ấm.
- Hiểu Tình: là Buổi sáng tạnh ráo không có mưa thu.
- Sương Diệp: là Những chiếc lá nhuốm sương thu.
Bối cảnh xuất xứ của bài thơ:
Bài thơ trên đây được sáng tác vào năm Đại Hòa thứ 6, đời vua Đường Văn Tông. Lúc bấy giờ Bạch Cư Dị đang là Phủ Doãn của tỉnh Hà Nam, đã trên sáu mươi tuổi và thân thể đã suy nhược già yếu. Việc quan tuy nhàn hạ nhưng vô vị, cộng thêm người bạn thơ thân thiết là Nguyên Chẩn 元稹 vừa mới tạ thế, nên tâm tình
của ông đang xuống dốc buồn chán và lãnh đạm với mọi việc.
Nghĩa Bài Thơ:
Ngủ Trong Đêm Mưa Thu
Một lão ông đang an nhàn ngủ đi trong cái lạnh lẽo của ba tháng mùa thu. Nằm trăn trở hèn lâu khi đèn đóm đà tắt hết, rồi ngủ thiếp đi ngon lành trong tiếng mưa thu. Tro tàn trong lò còn làm ấm lên cái bình sưởi, và trầm hương còn tỏa hương thơm vào tấm chăn thơm ấm áp. Trong buổi sáng mai quang tạnh nhưng lạnh lẽo nầy, ta còn nằm ráng mà chưa muốn thức dậy, trong khi sương thu đã nhuộm đỏ cả các lá cây rụng xuống phủ đỏ cả các bậc thềm !
Diễn Nôm:
Ngủ Trong Đêm Mưa Thu
Ba tháng thu lạnh lẽo,
An nhàn một lão ông.
Tắt đèn đi ngủ trễ,
Mưa thu say giấc nồng.
Bình sưởi tàn tro ấm,
Chăn gối thoảng hương nồng.
Sáng trời chưa muốn dậy,
Sương nhuốm lá đỏ hồng!
Lục bát:
Ba thu lạnh lẽo heo may,
An nhàn một lão ông ngoài sáu mươi.
Đèn tàn nằm trễ nghe lười,
Mưa thu thánh thót ngủ vùi năm canh.
Tro tàn bình ấm còn quanh,
Trầm hương thoang thoảng chăn lành lạnh thơm.
Sáng ngày biếng dậy chập chờn,
Sương thu nhuộm lá đỏ rơn mặt thềm!
Đỗ Chiêu Đức
---o0o---
Di Áì Tư
Lộng thạch lâm khê toạ
Tầm hoa nhiễu tự hành
Thời thời văn điếu ngữ
Xứ xứ thị truyền thanh
Bạch Cư Dị
Dịch nghĩa:
Chùa Di Ái
Tay cầm chơi các viên sỏi, ngồi nghỉ bên bờ suối
Đi trên các con đường mòn quanh chùa ngắm hoa
Lúc nào cũng nghe tiếng chim hót
Chổ nào cũng có tiếng suối chảy.
Bản dịch:
Bên suối ngồi mân mê hòn sỏi
Lối quanh chùa mắt dõi trăm hoa.
Lúc nào cũng vẳng chim ca
Nơi nơi róc rách vang xa suối ngàn
Mailoc
***
Chùa Dì Ái
Bên bờ suối đá vân vê
Đi quanh chùa mắt hướng về khóm hoa
Lúc nào ..chim cũng hót ca
Khắp nơi tiếng suối vọng xa ngút ngàn
songquang
4. Bản chữ Nho của bài thơ Di Ái Tự:
遺愛寺 DI ÁI TỰ
弄石臨溪坐, Lộng thạch lâm khê tọa,
尋花繞寺行。 Tầm hoa nhiễu tự hành.
時時聞鳥語, Thời thời văn điểu ngữ,
處處是泉聲。 Xứ xứ thị tuyền thanh.
白居易 Bạch Cư Dị
Chú thích :
- DI ÁI TỰ 遺愛寺: Tên một ngôi chùa nằm ở phía dưới Hương Lư Phong của núi Lư Sơn.
- LỘNG THẠCH 弄石 : Trong tay vũ lộng xoay chuyển hai hòn đá tròn theo lối luyện công cho thư giản.
- LÂM KHÊ 臨溪: là Bên bờ khe. Lâm Khê Tọa là Ngồi bên bờ khe suối.
- NHIỄU 繞: là Đi vòng quanh. Nhiễu Tự Hành là Đi quanh chùa.
- THỜI THỜI 時時 : là Thỉnh thoảng, thường xuyên, chốc chốc.
- XỨ XỨ 處處: là Khắp nơi. Nơi nào cũng...
Nghĩa Bài Thơ:
Chùa Dì Ái
Ngồi tĩnh tọa bên khe suối trong khi tay luộn xoay chuyển vũ lộng hai hòn đá. Đoạn đi quanh chùa để tìm các loài hoa nở. Bên tai luôn văng vẳng tiếng chim hót líu lo và khắp nơi đều có tiếng khe suối róc rách chảy.
Quả là một cảnh chùa nên thơ thi vị và yên tĩnh thư giản cho tâm hồn với những tiếng động của thiên nhiên : Tiếng chim hót líu lo và tiếng nước suối luôn rì rào róc rách !
Năm Nguyên Hòa thứ mười đời vua Đường Hiến Tông (815). Bạch Cư Dị bị biếm làm Giang Châu Tư Mã. Hai năm sau ông đi du ngoạn chùa Di Ái và làm bài thơ nầy
Diễn Nôm:
Chùa Dì Ái
Ngồi xoay đá bên khe,
Tìm hoa vòng quanh hè.
Luôn nghe chim ríu rít,
Tiếng suối cũng thường nghe!
Lục bát:
Bên khe xoay đá ngồi đùa,
Tìm hoa vòng khắp quanh chùa thoảng hương.
Bên tai vẳng tiếng chim muông,
Róc ra róc rách suối tuôn khắp vùng!
Đỗ Chiêu Đức
---o0o---
Thu Trùng
Thiết thiết ám song hạ
Yêu yêu thâm thảo lý
Thu thiên tư phụ tâm
Vũ dạ sầu nhân nhĩ.
Bạch Cư Dị
Bản dịch:
Tiếng Trùng Mùa Thu
(1)
Ri rỉ ngoài song tiếng não nùng
Rầu rầu trong cỏ dế cùng giun.
Trông chồng chinh phụ thu đơn bóng
Rả rích mưa dầm nỗi nhớ nhung!
(2)
Trong đêm thâu, song ngoài ri rỉ
Cỏ rậm rì, thủ thỉ dế ngâm.
Trời thu thiếu phụ bâng khuâng
Mưa đêm hiu hắt tha nhân chạnh lòng!
MaiLoc
Mưa Thu Nhớ Chồng
Tiếng côn trùng đầu song rỉ rả
Trong cỏ cây hoà cả dế giun
Trời Thu chinh phụ nhớ nhung
Trông chồng đêm vắng mưa phùn buồn tơi!
songquang
5. Bản chữ Nho của bài thơ Thu Trùng:
秋蟲 THU TRÙNG
切切闇窗下, Thiết thiết ám song hạ,
喓喓深草裏。 Yêu yêu thâm thảo lý.
秋天思婦心, Thu thiên tư phụ tâm,
雨夜愁人耳。 Vũ dạ sầu nhân nhĩ.
白居易 Bạch Cư Dị
Chú Thích:
- THU TRÙNG 秋蟲: Côn trùng trong mùa thu, như dế mèn, thạch sùng, ếch nhái...
- THIẾT THIẾT 切切: Từ tượng thanh chỉ tiếng thạch sùng chắc lưỡi.
- YÊU YÊU 喓喓: Từ tượng thanh chỉ tiếng ếch nhái kêu.
- TƯ PHỤ 思婦: Nhớ "bà xã", nhớ vợ. Nếu đọc là TỨ(dấu sắc)PHỤ thì có nghĩa là "Người đàn bà nhớ nhung". Nên ba chữ 思婦心, nếu đọc là...
*TƯ PHỤ TÂM 思婦心 : là Lòng nhớ về người đàn bà của mình, lòng nhớ vợ.
*TỨ PHỤ TÂM 思婦心 : là Lòng của người đàn bà đang thương nhớ (chồng).
Nghĩa Bài Thơ:
Côn Trùng Mùa Thu
Tiếng chắc lưỡi của các con thạch sùng dưới song cửa sổ thâm u hòa với tiếng ra rả của ếch nhái trong đám cỏ rậm...
- Làm cho lòng nhớ về bà xã trong mùa thu càng da diết hơn nhất là lại nghe tiếng mưa đêm thánh thót đập vào tai.
- Làm cho lòng của người thiếu phụ đang nhớ nhung càng da diết hơn khi nghe tiếng mưa đêm thánh thót đập vào tai.
Diễn Nôm:
Côn Trùng Mùa Thu
Chắc chắc dưới song tối,
Ra rả trong cỏ rối.
Lòng thiếu phụ nhớ thu,
Mưa đêm sầu khôn nói.
Lục bát:
Thạch sùng chắc lưỡi dưới song,
Dế mèn ra rả trong lòng cỏ lau.
Vợ xa lòng thấy nhớ sao,
Mưa thu rả rít vẳng vào bên tai.
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét