Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014

Xuân Mộ (Thái Thuận)

          Thái Thuận (蔡順, 1441-?):
       Tự: Nghĩa Hòa, hiệu: Lục Khê, biệt hiệu: Lã Đường; là nhà thơ, quan lại Việt Nam thời Lê sơ.
      Thái Thuận sinh ra trong một gia đình bình dân ở thôn Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnhBắc Ninh). 
Thuở trai trẻ, có thời ông làm lính dạy voi, về sau mới đi học. Năm Ất Mùi (1475), đời Lê Thánh Tông, ông thi đỗ Tiến sĩ. 
      Ban đầu, ông làm quan ở Viện Hàn lâm trải 20 năm; sau giữ chức Tham chính sứ Hải Dương, và được cử đi công cán qua các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thuận Hóa... 
      Ông là người có đạo đức, lại có tài văn chương, được người đương thời rất kính trọng. Vì vậy, ông được vua Lê Thánh Tông cho dự chức Tao đàn Sái phu (sau thăng Tao đàn Phó nguyên súy) trong Hội Tao Đàn do chính nhà vua thành lập năm 1495. 
Nhà thơ Thái Thuận mất năm nào không rõ.


:春暮                                XUÂN MỘ

百年身世嘆浮萍, Bách niên thân thế thán phù bình,
春去誰能老下成。 Xuân khứ thùy năng lão hạ thành.
流水橋邊楊柳影, Lưu thủy kiều biên dương liễu ảnh,
夕陽江上鷓鴣聲。 Tịch dương giang thượng giá cô thinh.
月於煙樹雖無分, Nguyệt ư yên thọ tuy vô phận,
風與天香尚有情。 Phong dữ thiên hương thượng hữu tình.
九十韶光容易過, Cửu thập thiều quang dung dị quá,
草心遊子苦難平.    Thảo tâm du tử khổ nan bình!
蔡順                                                    Thái Thuận.

Dịch nghĩa:

Thân thế trăm năm than cho kiếp bèo nổi 
Xuân đi rồi có ai không thành người già 
Bên cầu nước chảy bóng dương liễu thướt tha 
Trên sông chiều tà tiếng đa đa não nuột 
Trăng lồng trong khói cây tuy không phận vụ 
Gió quyến hương trời vẫn có tình với nhau 
Chín chục thiều quang qua đi một cách dễ dàng 
Khiến lòng người đi xa mong đền ơn cha mẹ đau khổ khó lấp bằng cho được 

Bản dịch của Quách Tấn:

Chiều Xuân 

Tấm thân bèo nổi ngậm ngùi thương 
Xuân lụn đầu ai khỏi điểm sương
Bóng liễu thướt tha cầu thệ thủy 
Tiếng đa não nuột bến tà dương
Phận dù không phận trăng lồng khói 
Tình vẫn ưa tình gió quyện hương 
Chín chục thiều quang thoi thấm thoát 
Bồn chồn tấc cỏ bước du phương 
                                   Quách Tấn
* * *

                    Chiều Xuân
    
  Thương trăm năm một thân bèo nổi,
 Xuân đi rồi ai khỏi cái già.
 Bên cầu dương liễu bóng sa,
 Tiếng đa não nuột chiều tà trên sông.
Nguyệt, khói cây tuy không thắm thiết,
Gió, huơng trời da diết bên nhau.
Thiều quang chín chục qua mau,
Cho lòng du tử xuyến xao bồi hồi.
                      Mailoc phỏng dịch
                        Cali    5-5-14

* * *
Thưa Quý Thầy, Anh Chị,
Quên Đi xin tiếp theo Thầy Mai Lộc dịch bài "Xuân Mộ":

            Chiều Xuân


Lênh đênh bèo bọt thân du tử
Xuân hết đành thôi chịu tuổi già
Nước chảy bên cầu trơ dáng liễu
Trên sông chiều xuống tiếng chim đa
Khói trăng chẳng phận còn nương tựa
Hương gió có tình mãi thiết tha
Chín chục ngày xuân trôi thấm thoát
Xuyến xao tấc dạ kẻ xa nhà
                              Quên Đi
Chú Thích: 
- Thiều quang:  ánh sáng đẹp, ý chỉ ngày của mùa xuân.
- Cửu thập thiều quang: chín mươi ngày xuân tươi sáng, chỉ thời gian của mùa xuân trong một năm.

***
                      CHIỀU XUÂN

           Trăm năm thân thế tựa bèo trôi,
           Xuân đến xuân đi già tới nơi.
           Nước chảy qua cầu soi bóng liễu,
           Nắng chiều nghiêng sóng tiếng chim trời.
           Cây mờ bóng nguyệt duyên chưa đượm,
           Gió thoảng mùi hương tình chẳng vơi.
           Chín chục thiều quang qua thắm thoát,
           Tấc lòng du tử dạ khôn nguôi !.
                                     Đỗ Chiêu Đức.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét