Thứ Hai, 24 tháng 11, 2025

Lưu Biệt Vương Thị Ngự Duy 留別王侍御維 - (Thịnh Đường)


Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然 (689-740) tên Hạo, tự Hạo Nhiên, hiệu Mạnh sơn nhân 孟山人, người Tương Dương (nay là huyện Tương Dương tỉnh Hồ Bắc), cùng thời với Trần Tử Ngang.

Ông từng làm quan, nhưng ông không thích hợp với đám quý tộc lạm quyền, nên rất thích nơi nhàn cư. Ông lui về ở ẩn, tìm lấy đời sống tao nhã ở Long Môn quê nhà và trong cuộc du ngoạn ở những nơi xa, khắp vùng đất. Ông đi nhiều, thấy nhiều, mạch thơ đầy ắp những khí chất hồn hậu của thiên nhiên núi sông diễm lệ, hợp với tâm hồn trong sáng của mình.

Ông để lại 260 bài thơ. Có thể gọi thơ ông là thơ sơn thuỷ được. Thơ năm chữ của ông luật lệ nghiêm cách, phóng khoáng, hùng tráng, rất nổi tiếng.

Mạnh Hạo Nhiên rời kinh đô về Chung Nam hưu trí sớm; tới nhà Vương Duy chào mà không gặp; để lại một bài thơ từ giã. Trong bài thơ, dường như có tâm sự mà không cho bạn hay.

Nguyên tác        Dịch âm

留別王侍御維 Lưu Biệt Vương Thị Ngự Duy

寂寂竟何待 Tịch tịch cánh hà đãi
朝朝空自歸 Triêu triêu không tự qui
欲尋芳草去 Dục tầm phương thảo khứ
惜與故人違 Tích dữ cố nhân vi
當路誰相假 Đương lộ thùy tương giả
知音世所稀 Tri âm thế sở hi
秪應守寂寞 Chỉ ưng thủ tịch mịch
還掩故園扉 Hoàn yểm cố viên phi

Chú thích:

Tịch: lặng yên.
Cánh: trọn, hết, xong, trợ từ (cứu cánh).
Hà: sao? Không: trống không. Tích: tiếc.
Dữ: cùng với. Vi: lìa, xa.
Đương lộ: những người cầm quyền đương thời.
Giả: ví thử. Tương: cùng nhau.
Chỉ ưng: chỉ nên.
Hoàn: trở về, trả lại.
Yểm: che, đóng.
Phi: cánh cổng

Dịch nghĩa

Đề thơ để lại từ gĩa Vương Duy

Vắng lặng quá! sao còn đợi chờ gì nữa?
Sáng sáng tự đi tự về không có mục đích gì
Muốn đi tìm nơi cỏ thơm,
Tiếc rằng làm trái ý bạn cũ.
Đi trên đường ai che chở đây,
Trên đời bạn tri âm thật hiếm.
Đành chọn nơi tĩnh mịch,
Về vườn cũ đóng chặt cánh cổng.

Dịch thơ

Đề Thơ Để Lại Giã Từ Vương Duy

Quạnh hiu chờ gì nữa
Ngày ngày vào lại ra
Muốn tìm nơi cỏ mượt
Lại tiếc cố tri xa
Đường vắng ai che chở?
Tri âm khó kiếm mà!
Nỗi lòng mê tĩnh mịch
Đành khép cửa vườn nhà

Lời bàn 

Tới chào bạn để về núi ở ẩn, không gặp bạn, để lại bài thơ này. Cuối bài thơ có nói rằng mình quy ẩn vì mê cảnh tĩnh mịch. Nhưng dường như không phải vậy. Hãy nghiên cứu xem họ Mạnh có tâm sự gì qua 8 câu thơ này.

- Câu 1 & 2:
Chán cái cảnh sống vô vị hàng ngày lắm rồi: sáng nào cũng cứ đi ra đi vào buồn não nuột. (Chỉ cho biết triệu chứng của nỗi buồn là đi ra đi vào, không cho biết nguyên nhân gây ra nỗi buồn ấy)

- Câu 3 & 4:
Muốn tìm nơi tươi thắm (nơi có cỏ thơm và tĩnh mịch) để ở nhưng lại tiếc phải xa anh, làm cho anh buồn lây. (Phân vân trong việc chọn lựa cảnh đẹp hoặc bạn hiền để giải buồn nhưng vẫn chưa tiết lộ nguyên nhân của nỗi buồn; Có hé mở một tình bạn cao quý trong câu 4)

- Câu 5 & 6:
Bỏ anh mà đi thì biết lấy ai che chở cho mình sau này; mất anh thì kiếm đâu ra tri âm? (Trong cái vị tha của tình bạn có cái vị kỷ của tình mình. Hơi vị kỷ nhưng rất chân thành.)

- Câu 7 & 8:
Tính tôi thích tĩnh mịch nên (đành bỏ anh mà) về vườn cũ đóng cổng sống một mình. (Mạnh cho biết không chọn bạn cũ mà lựa lối sống tĩnh mịch để giải buồn trong lúc hưu trí nhưng vẫn chưa cho biết cái lý do thầm kín khiến mình phải hưu trí sớm).

Người đương thời coi Mạnh như một người thanh cao, thích thiên nhiên, không ham danh lợi. Lý Bạch đã ca tụng Y hết lời trong bài thơ dưới đây:

Tặng Mạnh Hạo Nhiên
Ta mến Mạnh phu tử
Phong lưu thiên hạ hay
Lúc trẻ chê xe ngựa
Khi già ngủ thông mây
Thưởng nguyệt như thần rượu
Mê hoa bỏ chúa này
Non cao ngồi đáng kính
Danh thơm đã đong đầy.

ÔC thì nghĩ rằng Mạnh có giấu giếm tâm sự trong bài Lưu Biệt Vương Duy. Bát Sách nhớ vanh vách mọi hành vi của những thi hào thời Đường (hắn nhớ cả việc Lý Thương Ẩn mò tới tận xứ Thục để ngủ với cô nhân tình gìa), may ra có thể trả lời được câu thắc mắc của ÔC. Nếu không thì phải nhờ tới đạo Mò.

 Con Cò

Để Lại Thơ Từ Biệt Vương Duy..

Vắng lặng đợi chờ hoài,
Tới lui mỗi sớm mai.
Muốn tìm cỏ mượt khác,
Sợ mất bạn xưa này.
Quan lộ người nào giúp,
Tri âm ít thấy ai.
Chỉ mong lòng yên tịnh,
Về chốn cũ then cài.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Nov. 8/2025.
***

Lộc Bắc có cùng ý nghĩ về hai chữ tịch tịch trong câu đầu của bài ngũ ngôn như Bát Sách nhưng không có nơi nào xác nhận ý này. Thôi đành dùng nguyên bản vậy

Giã Biệt  Vương Duy

Vắng lặng chờ chi nữa
Tới lui ngày lại ngày
Muốn tìm cỏ thơm trú
Đành tiếc bạn chia tay
Đường lộ ai che chở
Tri âm thật hiếm thay!
Chỉ ưa đời tịch mịch
Vườn cũ cửa then cài

Chốn đây vắng lặng chờ chi
Tới lui cũng vậy ngày đi qua ngày
Cỏ thơm muốn kiếm đâu đây?
Bạn vàng thật tiếc chia tay cuối trời
Đường xa ai giúp, ai mời
Tri âm thật hiếm trên đời mấy khi
Vốn ưa tịch mịch, thôi về
Vườn xưa khóa đóng cửa che cõi ngoài!


Lộc Bắc
Nov25
***

Lưu biệt Vương Duy

Trông người chờ đợi đã lâu
Sáng chiều đi, đến mối sầu ngẩn ngơ
Tìm nơi cỏ quý hằng mơ
Bạn ơi đừng trách hững hờ bỏ đi
Đường xa che chở có ai?
Tri âm hiếm thấy mối dây bạn hiền
Thôi chọn bỏ lại ưu phiền
Về nơi tinh mịch vui miền thôn quê

Thanh Vân
***
Góp ý của Phí Minh Tâm:

Nguyên tác: Phiên âm: Dịch thơ:

留別王維 Lưu Biệt Vương Duy Từ Giã Vương Duy
孟浩然 Mạnh Hạo Nhiên

寂寂竟何待 Tịch tịch cánh hà đãi          Trầm lặng mong chờ ai?
朝朝空自歸 Triêu triêu không tự qui     Đi về không tháng ngày.
欲尋芳草去 Dục tầm phương thảo khứ Tìm hương trong thảo mộc,
惜與故人違 Tích dữ cố nhân vi             Sợ cảnh lúc chia tay,
當路誰相假 Đương lộ thùy tương giả    Giúp đỡ ai lòng sẵn?
知音世所稀 Tri âm thế sở hi                  Tri âm khó có thay!
秪應守寂寞 Chi ưng thủ tịch mịch        Đành về nơi tịch mịch.
還掩故園扉 Hoàn yểm cố viên phi        Vui sống với then gài.

Bài thơ này được Mạnh Hạo Nhiên làm năm 734 để lại cho Vương Duy trước khi ông về Tương Dương. Ông bày tỏ nỗi buồn vì thiếu tri kỷ và và thất vọng trong sự nghiệp mà ông cho là do thiếu người đỡ đầu. Bài thơ thẳng thắn, giản dị, cảm xúc chân thành, âm hưởng cay đắng, ẩn chứa nỗi oán hận cuộc đời.

Tựa nguyên thủy trong sách Mạnh Hạo Nhiên là Lưu Biệt Vương Duy 留別王維. Sách Vương Duy thêm tước vị Thị Ngự vào tựa thành Lưu Biệt Vương Thị Ngự Duy 留别王侍御维.

Đây là một bài ngũ ngôn luật thi, hội đủ 6 tiêu chí: luật, niêm, vận, đối xứng, tiết tấu và bố cục, mà bản dịch thơ khó theo được.

Ghi chú:

Tịch tịch: hoang vắng, yên lặng
Cánh hà đãi: đang chờ đợi điều gì
Triêu triêu: hàng ngày, ngày ngày
Phương thảo: thảo mộc thơm, thường được dùng để chỉ những người đức hạnh
Dục tầm phương thảo khứ: muốn tìm người đức hạnh bảo trợ, muốn tìm nơi tốt sống ẩn dật
Vi: tách biệt
Đương lộ: những người có quyền lực. 假: thăng tiến
Phi: cửa

Dịch nghĩa:

Goodbye to Wang Wei by Meng Hao Ran

What am I waiting for in this loneliness? Every day I return home disappointed.
I long to find a secluded mountain forest to retreat to, yet I regret the separation from my old friends.
Who among those in power would be willing to help me? True friends are rare indeed.
I should simply live out my life in solitude, closing my thatched gate and isolating myself from the world.

Phí Minh Tâm

***

Trước hết là về cái tựa: Tựa như trên là theo Thi Viện. Sách của Trần Trọng San ghi là Lưu Biệt Vương Duy, không có chữ Thị Ngự. Đọc tiểu sử thì thấy Vương làm nhiều chức quan: Đại Nhạc Thừa, Hữu Thập Di, Giám Sát Ngự Sử, Lại Bộ Lang Trung. Thời loạn An Lộc Sơn, ông chạy không kịp, bị giặc bắt nhốt ở chùa Bồ Đề, và bị ép làm Cấp Sự Trung. Khi loạn yên, ông được phục chức nhờ có làm bài thơ Ngưng Bích Trì, và nhờ em là Vương Tấn xin giải chức để chuộc tội cho anh. Sau cùng, ông làm chức Thượng Thư Hữu Thừa, mà không thấy làm Thị Ngự. Vậy ông làm chức này lúc nào?

Tặng bạn mà gọi tên tục chắc là thân lắm, và Mạnh Hạo Nhiên, 689, hơn Vương Duy 699, 10 tuổi. Truyện kể rằng, có lần Mạnh đang ở chơi nhà Vương thì Huyền Tông tới, Mạnh muốn tránh mặt, phải trốn ở gầm giường. Nghe Vương tâu sự thực, nhà vua nói: “Trẫm nghe danh mà chưa thấy mặt” rồi truyền Mạnh trình diện và đọc thơ. Đến bài Tuế Mộ Quy Nam Sơn, khi đọc tới câu “bất tài minh chủ khí”, Huyền Tông bất bình nói “Khanh không thích làm quan chứ Trẫm đâu có bỏ khanh, sao lại vu oan cho Trẫm”. (Trong sách của Trần Trọng San)

Theo tiểu sử thì Mạnh không thích làm quan, chỉ muốn ở ẩn, hưởng nhàn.

Tịch tịch, theo chữ viết của Thi Viện và sách của Trần Trọng San, có nghĩa là yên tĩnh, lặng lẽ. Bát Sách tự hỏi có viết sai không? Phải dùng chữ tịch là buổi tối thì mới đối với câu 2 là triêu triêu.
Hà là gì, sao, thuộc thể nghi vấn.
Đãi là đợi
Hai câu 1 và 2 khiến Bát Sách tự hỏi, Mạnh đi tới đi lui, băn khoăn chờ đợi một cái gì mà chưa được. Chờ nhà vua bổ dụng? Nhưng ông đâu có thích làm quan.
Vì vậy mà định bỏ đi, lại tiếc (Tích) vì phải chia ly (Vi) với bạn.
Đương Lộ là người giữ chỗ trọng yếu, có quyền thế.
Thùy là cái gì, ai.
Giả là không thật, mượn.

Tri âm thế (cõi đời) sở hy (hiếm). Câu này Bát Sách muốn dịch là đời mấy kẻ tri âm vừa gọn vừa sát nghĩa, nhưng kẹt vần, không dùng được, thật đáng tiếc.
Phi là cánh cửa.

Để Lại Từ Giã Thị Ngự Vương Duy

Tối tối đợi chi đó,
Sáng sáng lại về không,
Muốn đi tìm cỏ quý,
Tiếc xa bạn đau lòng,
Đường tốt ai cho mượn,
Tri âm hiếm, chẳng mong,
Chỉ nên giữ tịch mịch,
Đóng cửa vườn cho xong.

Bát Sách.
(Ngày 11/11/2025)
***

Góp ý:

Mạnh Hạo Nhiên sinh năm 689 và hơn Vương Duy 10 tuổi. Lúc họ Mạnh được Đường Huyền Tông gọi vào triều - do Vương Duy tiến cử - ông ta đã 40 tuổi và không đến Tràng An để đi thi; khi đó Vương Duy vừa bắt đầu giữ chức thị ngự sử (侍御史) lo việc kiểm soát thi cử. Vì câu thơ "不才明主棄" (bất tài minh chủ khí), họ Mạnh bị Huyền Tông trách: "卿自不求 仕, 朕未嘗棄卿, 奈何 誣我?(khanh tự bất cầu sĩ, trẫm vị thường khí khanh, nại hà vu ngã?) và không trọng dụng hay giữ lại trong triều. Có lẽ vì không hề được làm việc trong triều, không thấy ai ghi lại thành tích học hành, thi cử của nhà thơ.

Vì đây là một bài thơ ngũ ngôn, các chủ từ đều thuộc loại ẩn dụ và người đọc phải đoán bối cảnh của sáng tác, người ni nghĩ rằng họ Mạnh để lại thơ từ giã bạn Vương Duy sau khi “lỡ dại” làm phật lòng Huyền Tông.

Hai tĩnh từ tịch tịch (寂寂) mở đầu tả hoàn cảnh nào? Đãi (待) có nghĩa là đợi chờ, nhưng hà (何) có nhiều nghĩa: ai, nơi nào, vì sao, v.v.…? Người đọc có thể đoán là họ Mạnh đang đợi chờ ai đó, hay chuyện gì đó, nhưng để làm gì? Hai từ tịch tịch gợi ý rằng chẳng còn gì để mà chờ đợi vì cơ hội đã đi qua. Phải chăng có hội này là viễn ảnh được nhà vua trọng dụng?

Thành ngữ phương thảo (芳草) đến từ bài thơ Ly Tao của Khuất Nguyên và có nhiều nghĩa tùy theo người đọc thơ; và có thể hiểu trong bài thơ này rằng thi nhân muốn trở về nơi ẩn dật. Và đành đề thơ chia tay, hay phân trần, với bạn. Làm sao dịch phương thảo thành cỏ thơm và diễn tả được ý họ Mạnh ví mình với Khuất Nguyên?

Huỳnh Kim Giám

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét