秋夜曲 Thu Dạ Khúc - Vương Duy
(Thịnh Đường)
Vương Duy (701 - 761) tự là Ma Cật, hiệu Ma Cật cư sĩ. Quê ở huyện Kỳ, Tấn Trung, Sơn Tây, Trung Quốc.
Ông xuất thân trong một gia tộc danh giá thời Đường là Thái Nguyên Vương thị. Cha ông là Vương Xử Liêm, mẹ là Thôi thị. Năm 721, ông đỗ Tiến sĩ, nhận chức quan Đại nhạc thừa, tuy nhiên sau đó phạm điều cấm nên phải đến Tế Châu làm tham quân.
Ông là một nhà thơ, một họa sĩ, một nhạc sĩ, một thư pháp và một chính khách thời Thịnh Đường. Ông góa vợ lúc 30 tuổi và suốt đời không tục huyền. Thơ tình của ông tuy lãng mạn nhưng vẫn nghiêm trang vì ông còn là một Phật tử thuần thành.
Thu Dạ Khúc là một bài chứa đựng nét chính trong đời ông.
Nguyên tác Dịch âm
秋夜曲 Thu dạ khúc
桂魄初生秋露微 Quế phách sơ sinh thu lộ vi,
輕羅已薄未更衣 Khinh la dĩ bạc vị canh y.
銀箏夜久殷勤弄 Ngân tranh dạ cửu ân cần lộng,
心怯空房不忍歸 Tâm khiếp không phòng bất nhẫn quy.
Dịch nghĩa:
Khúc Nhạc Đêm Thu
Vương mặc áo lụa mỏng phai màu mà không mặc áo khoác (nên cảm thấy lạnh).
Đêm khuya rồi mà tiếng đàn tranh vẫn tấu khúc ân tình (Vương không chịu nổi tiếng nhạc ân tình này nữa),
Sợ phòng không lạnh lẽo chẳng dám vào (muốn nhưng không dám vì trong phòng có thêm cái lạnh của cô đơn).
Chú giải
桂魄 Quế phách: Chỉ ánh trăng (chị nguyệt)
Chị nguyệt sơ sinh: trăng non của ngày đầu tháng, hình lưỡi liềm.
輕羅 khinh la: lụa mỏng, dịch là xanh xao, một tính từ được nhân cách hóa để chỉ mỏng manh.
空房 không phòng: phòng hư không vì vắng tình (chứ không phải phòng trống rỗng).
Dịch thơ:
Khúc Nhạc Đêm Thu
Lụa may áo mỏng đã phai màu.
Đàn tranh khuya vẫn ân cần tấu,
Sợ lạnh phòng không chẳng dám vào.
Lời bàn:
Bài thất ngôn tuyệt cú tả một tráng niên góa vợ (Vương Duy) ngồi ngoài hiên nghe một khúc nhạc đêm thu trong một bối cảnh gợi nhớ tới vợ:
- Câu 1:
Trong một đêm thu đầu tháng (trăng còn non, lưỡi liềm), sương rất nhẹ (Vương ngồi một mình ngoài hiên trước cửa phòng, vợ đã khuất núi).
- Câu 2:
Vương mặc áo lụa mỏng đã bạc màu và quên mặc thêm áo khoác (không gian se lạnh, áo lụa cũ mỏng manh, người yêu xa khuất).
- Câu 3:
Đêm đã khuya mà tiếng đàn tranh (lân cận) vẫn thánh thót khúc ân tình (Trong tâm trạng cô liêu, Vương nghe tiếng đàn vẳng đến như một thứ yêu tinh vò nát trái tim mình).
- Câu 4:
Vương cảm thấy lạnh (áo lụa mỏng, sương đêm thu, ngồi ngoài trời) nhưng vẫn ngồi lỳ ở ngoài hiên không dám vào vì phòng không, vắng vợ, sẽ làm tăng cái lạnh của cô đơn ở trong lòng (không khí trong phòng ấm hơn sẽ đánh thức cái lạnh ở trong lòng).
Ôi! 28 chữ của bài thất ngôn tứ tuyệt này sao mà mênh mông thế!
Tái bút:
Bài 557 đã được lột xác (như trên) sau khi ỐC đọc góp ý của Bát Sách: Người ngồi ngoài hiên nghe đàn tranh là Vương Duy (góa vợ) chứ không phải một thiếu phụ vô danh nhớ chồng như ÔC nhận xét lúc đầu.
Con Cò
***
Nỗi Lòng Đêm Thu
Làn sương thu mờ nhạt
Vầng trăng non hao gầy
Tiếng đàn tranh thổn thức
Áo lụa phai chưa thay
Ngại khuê phòng quạnh vắng
Lần khân nán lại đây
Yên Nhiên
***
Vương Duy sinh năm 699, mất năm 759, người huyện Kỳ, tỉnh Sơn Tây. Ông đậu tiến sĩ năm 21 tuổi, được bổ làm Đại Nhạc Thừa, rồi bị giáng làm tham quân tại Tế Châu. Khi Trương Cửu Linh làm Trung Thư Lệnh, ông được triệu về kinh làm Hữu Thập Di, thăng Giám Sát Ngự Sử, rồi Lại Bộ Lang Trung. Khi An Lộc Sơn chiếm kinh thành, ông bị nhốt ở chùa Bồ Đề, rồi bị bức làm chức Cấp Sự Trung. Khi loạn yên, đáng lẽ bị tội, ông lại được phục chức vì có làm bài thơ “ Ngưng Bích Trì “ tỏ lòng nhớ triều xưa, và nhờ Vương Tấn, đang làm Hình Bộ Thị Lang xin giải chức chuộc tội cho anh. Sau ông thăng đến Thượng Thư Hữu Thừa.
Ngoài tài làm thơ, Vương Duy còn giỏi âm nhạc, thư pháp và hội họa. Người ta thường khen ông là “ thi trung hữu họa, họa trung hữu thi “ (trong thơ có họa,trong họa có thơ) Ông cũng biết mình làm thơ không hay bằng vẽ nên đã từng viết:
Đương đại mậu từ khách,
Tiền thân ứng họa sư.
(Kiếp này làm thi khách,
Tiền thân vốn họa sư)
Ông còn rành về Phật học nên mới lấy hiệu là Ma Cật.
Thu Dạ Khúc
Quế phách sơ sinh thu lộ vi.
Khinh la dĩ bạc vị canh y,
Ngân tranh dạ cửu ân cần lộng.
Tâm khiếp không phòng bất nhẫn quy.
- Quế phách là ánh trăng.
- Sơ sinh là mới, là trăng đầu tháng, trăng non.
- Lộ là sương.
- Vi : nhỏ, nhẹ.
- Bạc là nhạt mầu.
- Ân cần: chu đáo, quan tâm, tình ý thiết tha.
- Lộng là tấu đàn, tấu sáo .
Chữ đầu của câu 2, Thi viện phiên âm là Kinh, phải là Khinh mới đúng. Khinh la là lụa nhẹ.
Theo ý BS, đây là một bài thơ khóc vợ rất thảm thiết của Vương Duy. Vương hoá vợ năm 730, khi ông mới 31 tuổi, nhưng vì yêu vợ, không bao giờ tục huyền.
Nếu giải nghĩa theo văn xuôi, thì bài thơ sẽ như sau đây:
Vào đầu tháng, trăng còn non, ánh sáng mơ hồ, sương thu rơi nhẹ.. Áo lụa mỏng đã bạc mầu mà chẳng thiết thay, vì không còn để ý gì tới việc chưng diện nữa. (Không có em thì anh không cần mặc đẹp nữa). Đêm đã khuya, mà tiếng đàn ngân tranh của ai còn vang lên điệu nhạc đầy tình ý thiết tha. Tiếng đàn ấy gợi lại bao nhiêu kỷ niệm ân ái mặn nồng của anh và em, vì vậy, lòng anh sợ hãi, không có can đảm để trở về căn phòng, cô đơn một mình một bóng… Câu này thật thấm thía, chân thành, không có vẻ trình diễn như hai câu thơ khóc Bằng Phi của vua Tự Đức:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại để dành hơi.
Khúc Hát Đêm Thu
Trăng non đầu tháng, nhẹ sương bay,
Áo lụa phai màu, chán chẳng thay,
Đàn tranh đêm vắng, tràn ân ái,
Về lại phòng không sợ nhớ ai.
Bát Sách.
(Bài này phải để tặng riêng anh Bảo, vì nó nói lên tâm trạng của anh đó)
***
Khúc Nhạc Đêm Thu
1/
Trăng khuyết sương thu ánh sáng mờ,
Chưa thay áo mỏng bạc mầu tơ.
Đàn tranh canh vắng ân cần tấu,
Trở lại cô phòng sợ vẩn vơ.
2/
Sương thu trăng khuyết tối mờ,
Chưa thay áo mỏng lụa tơ bạc mầu.
Đàn tranh ai dạo đêm thâu,
Ngại ngùng trở lại âu sầu phòng cô.
3/
Vầng trăng khuyết sương thu nhạt phủ,
Áo mỏng tơ bạc cũ chưa thay,
Đàn khuya dạo khúc đắng cay,
Ngại ngùng chẳng muốn về ngay cô phòng.
Mỹ Ngọc.
***
Khúc Hát Đêm Thu
Sương thu nhè nhẹ nguyệt sừng trâu
Áo chửa đổi thay lụa bạc màu
Khuya khoắt đàn tranh tha thiết trổi
Buồng không, lòng vắng chẳng về mau!
Lộc Bắc
***
Trăng già tháng bẩy vướng mưa Ngâu
Áo lụa dùng lâu đã bạc mầu
Đàn nguyệt xa gần ái tấu mãi
Vào phòng chỉ sợ có nhau đâu
Lạc Thủy Đỗ Quý Bái
***
Nguyên Tác: Phiên Âm:
秋夜曲 -王維 Thu Dạ Khúc - Vương Duy
桂魄初生秋露微 Quế phách sơ sinh thu lộ vi
輕羅已薄未更衣 Khinh la dĩ bạc vị canh y
銀箏夜久殷勤弄 Ngân tranh dạ cửu ân cần lộng
心怯空房不忍歸 Tâm khiếp không phòng bất nhẫn quy
Bài thơ này được đăng trong các sách:
· Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp Quyển 26 Tạp Khúc Ca Từ 御定全唐詩-清-聖祖玄燁
· Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp Quyển 346 Vương Nhai 御定全唐詩-清-聖祖玄燁
· Đường Thi Kỷ Sự - Tống - Kế Hữu Công 唐詩紀事-宋-計有功
· Đường Nhân Vạn Thủ Tuyệt Cú Tuyển - Tống - Hồng Toại 唐人萬首絕句選-宋-洪遂
Bài tứ tuyệt này không có dị bản, nhưng có 2 điều đáng chú ý:
1- Hầu hết các mộc bản (Thanh, Minh, Tống) ghi tác giả là Vương Nhai 王涯 (bộ thủy氵) thay vì Vương Duy王維 (bộ mịch糸) như chính bản của sách Quách Mậu Thiến và sách Vương Duy.
Toàn Đường Thi Khố 全唐诗库cũng cho bài thơ là của Vương Nhai, thi nhân thời Trung Đường, cùng với 20 bài thơ khác.
Trong tựa bài Thu Dạ Khúc đăng trong Đường Thi Tam Bách Thủ, Hành Đường Thoái Sĩ có ghi chú: tha bổn câu tác vương nhai kim chiếu quách mậu thiến bổn秋夜曲 đọc 他本俱作王涯今照郭茂倩本 có bản khác nói tác giả là Vương Nhai, như trong bản của Quách Mậu Thiến. Trong hình bên dưới chữ nhai涯 viết giống chữ hoài淮, nhưng không thể là Vương Hoài được vì Vương Hoài là thi sĩ đời Tống sanh sau Vương Duy/Nhai gần 100 năm.
Nhạc Phủ Thi Tập Quách Mậu Thiển 郭茂倩(1041-1099)
《秋夜曲》他本俱作王淮, 今照郭茂倩本 王维
桂魄初生秋露微, 轻罗已薄未更衣. 银筝夜久殷勤弄, 心怯空房不忍归貌为闹热, 心实凄凉, 非深于涉世者不知.
2- Bài thơ là phần 2 của bài Nhị thủ do Vương Duy làm, xem:
· Ngự Định Toàn Đường Thi Lục - Thanh - Từ Trác 御定全唐詩錄-清-徐倬
· Ngự Định Bội Văn Trai Vịnh Vật Thi Tuyển - Thanh - Trương Ngọc Thư 御定佩文齋詠物詩選-清-張玉書
· Nhạc Phủ Thi Tập - Tống - Quách Mậu Thiến 樂府詩集-宋-郭茂倩
· Vương Hữu Thừa Tập Tiên Chú - Đường - Vương Duy 王右丞集箋注-唐-王維
Cũng cần nói thêm là Ngự Định Toàn Đường Thi cho phần 1 là thơ của Trương Trọng Tố có cùng tựa Thu Dạ Khúc. Phần 2 mới là của Vương Nhai hay Vương Duy. Có thể nào NĐTĐT nhầm chăng như đã nhầm Vương Nhai với Vương Duy.
秋夜曲 -王維 Thu Dạ Khúc - Vương Duy
丁丁漏永夜何長 Chênh chênh lậu vĩnh dạ hà trường
漫漫輕雲露月光 Mạn mạn khinh vân lộ nguyệt quang
秋逼暗蟲通夕響 Thu bức ám trùng thông tịch hưởng
寒衣未寄莫飛霜 Hàn y vị kí mạc phi sương
桂魄初生秋露微 Quế phách sơ sinh thu lộ vi
輕羅已薄未更衣 Khinh la dĩ bạc vị canh y
銀箏夜久殷勤弄 Ngân tranh dạ cửu ân cần lộng
心怯空房不忍歸 Tâm khiếp không phòng bất nhẫn quy
Ghi chú:
Quế phách: chỉ mặt trăng. Tục gọi cái bóng đen ở trong mặt trăng là cóc, là thỏ, là cây quế. Phàm vật gì tinh khí hết kiệt, chỉ còn hình chất lại gọi là phách. Chỗ không có ánh sáng. Vì thế mặt trăng ngày mồng một gọi là tử phách 死魄. Bài Thương Chúc A Vương Minh Phủ 伤祝阿王明府 của Lạc Tân Vương có câu: Ta hồ, luân tiêu quế phách 嗟乎,轮销桂魄 Ôi, tiêu điều trăng khuất.
Khinh la: vải lụa mỏng
Canh y: thay quần áo; chỉ cung nữ; nơi nghỉ ngơi thay quần áo
Ngân tranh: đàn tranh được trang trí bằng bạc hoặc từ bạc để tranh có giai điệu cao và thấp.
Ân cần: tình cảm sâu sắc; nhiệt tình chu đáo; tình cảm chân thành từ trái tim
Tâm khiếp: rụt rè, sợ hải
Không phòng: nhà ở một mình; nhà không có người
Dịch Nghĩa:
Thu Dạ Khúc Bài Hát Đêm Thu
Quế phách sơ sinh thu lộ vi Vầng trăng mới mọc, sương thu thưa thớt,
Khinh la dĩ bạc vị canh y Lụa mỏng phai màu mà áo chưa thay.
Ngân tranh dạ cửu ân cần lộng Đêm khuya rồi mà tiếng đàn tranh như suối bạc vẫn róc rách khúc ân tình,
Tâm khiếp không phòng bất nhẫn quy Lòng e sợ phòng không vắng chẳng dám/muốn về.
Lạm bàn:
Câu thơ đầu tả cảnh nhàn nhã, đêm thu mát lạnh, nhưng tịch mịch thê lương, thiếu phụ cô đơn giữ khuê phòng.
Áo lụa mỏng chàng tặng lúc ra đi đã phai màu vì đã mặc nhiều lần và thường xuyên để nhớ đến chàng.
Đêm thu lạnh nhưng nàng không thay áo. Nàng để hết tâm tư và thân thể vào tiếng đàn. Lòng thổn thức nhưng không oán hận.
Phòng không chắc lạnh lắm, nhưng không lạnh hơn lòng nàng, có vào sớm cũng khó ngủ.
Dịch Thơ:
Bài Hát Đêm Thu
Sương thu dấu trăng sao,
Áo mỏng đã phai màu.
Tiếng tranh khuya rạo rựt,
Phòng không chưa muốn vào.
Vầng trăng mới mọc sương thu mờ,
Áo lụa chưa thay cố đợi chờ.
Khuya vắng tiếng tranh ngân thổn thức,
Phòng không lòng lạnh chẳng ơ thờ.
Sương thu phủ kín trăng non,
Mong manh áo lụa vẫn còn chưa thay.
Tiếng tranh khoắc khoải xa bay,
Lòng sợ phòng trống đêm nay chẳng về.
Phí Minh Tâm
***
A Song Of An Autumn Night by Wang Wei
Under the crescent moon a light autumn dew
Has chilled the robe she will not change --
And she touches a silver lute all night,
Afraid to go back to her empty room
Translation by Witter Bynner
***
Autumn Night by Wang Wei
The moon's orb just rising, a sprinkling of autumn dew,
The light silk dress too thin, but she will not change it.
All night long she plays diligently on her silver-chased harpsichord:
Afraid of the empty room, she cannot bear to go in.
Translation by Innes Herdan
***
A Song for an Autumn Night by Wang Wei
The moon has just shown her face on a night with slight autumn dew,
Her thin robe becoming light, yet for a change of clothes she makes no move.
On her silver cittern she plays heartily all evening,
Concealing her dread of returning to her lonely room.
Translation by Betty Tseng
***
An Autumn Night by Wang Wei
Chilled by light autumn dew beneath the crescent moon,
She will not change her dress though her silk robe is thin.
Playing all night on silver lute an endless tune,
Afraid of empty rooms, she can’t bear to go in.
Translation by Xu Yuan-Zhong
***
Cảm Tác:
Trăng khuyết lơ lửng trời cao
Em đâu trên ấy lao xao tiếng lòng
Ngày đêm anh vẫn hoài mong
Chờ em thổi sáo mở lòng tình thương
Du điệu lâu còn vấn vương
Từng nhịp đứt ruột nhu cương tuyệt vời
Anh vẫn chờ em suốt đời
Một ngày tiếng sáo ngỏ lời ái ân
Đồ Cóc
***
Góp ý:
Ai là tác giả của bài 秋夜曲 này?
Một lý do đơn giản cho câu hỏi này là vì có 420 bài thơ được gán cho Vương Duy nhưng người đời nghĩ rằng chỉ có 370 là thật sự của họ Vương. Đa số thơ của VD, cũng như tranh của ông ta, tả cảnh đất trời, mây nước và có ít bóng dáng con người. 29 bài được liệt kê trong Đường Thi Tam Bách thủ, và hình chụp ở dưới là trang mộc bản cho bài 秋夜曲:
Những chữ nhỏ dưới tựa đề 秋夜曲 đọc 他本俱作王淮今照郭茂倩本=tha bổn câu tác vương hoài kim chiếu quách mậu thiến bổn. (có bản khác nói tác giả là Vương Hoài, như trong bản của Quách Mậu Thiên [thế kỷ 11]).
Các chữ 维=duy, 淮=hoài, và 涯=nhai viết khá giống nhau. Anh Tâm tìm ra Vương Nhai thời Đường nhưng Wikipedia chỉ cho tôi những Vương Hoài từ thời Tống (sau thời Quách Mậu Thiên!) trở về sau. Có một phết nhỏ trên đầu chữ 淮 trong mộc bản nên ta không thể đọc nó là nhai. Thế có nghĩa là mộc bản của ĐTTBT khắc sai? Và ai thật sự là tác giả?
Bát Sách để ý rằng đây một bài thơ tình thay vì thơ tả thiên nhiên và tôi phân vân nhà thơ với biệt danh là Thi Phật, tự xưng là Vương Duy Ma Cật, và ở góa từ tuổi 32 có làm thơ loại này không?
(Vi Duy Ma Cật là chuyển ngữ cho Vimalakirti, tên của một nhân vật huyền thoại đồng thời với Thích Ca nhưng chỉ xuất hiện lần đầu tiên trong kinh của Long Thọ (tk 1-2). Nhân vật này được phái Đại Thừa xưng tụng như là người phàm tục thông thái và quyền phép chỉ thua Thích Ca, và ông ta giàu sụ. Tôi có cảm giác người tự xưng là Duy Ma Cật không khiêm nhường cho lắm!)
Huỳnh Kim Giám
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét