Thứ Ba, 14 tháng 10, 2025

Mùa Thu Paris

 
 
Paris, thủ đô ánh sáng, cái nôi nhân quyền và là một trong những kho tàng văn hóa của nhân loại với nhũng công trình kiến trúc cổ như lâu đài thành quách, giáo đường..vv.. Nhìn toàn cảnh Paris như một bức tranh ấn tượng đầy màu sắc, và khi về đêm càng lộng lẫy, rực rỡ hơn. Đứng từ xa hướng về phiá Bắc Paris đã trông thấy ngôi Thánh đường Sacré Cœoeur trên đồi Montmatre nổi bật giữa nền trời xanh trong, ngôi đền ngoài sự linh hiển còn là một công trình nghệ thuật. Chỉ nhìn vào màu khối đá trắng toát ta cũng cảm thấy sự uy nghiêm hùng vĩ của ngôi Thánh đường. Nằm bên sườn đồi là khu phố nghệ sĩ, nơi đây đã từng là tụ điểm của nhiều danh họa nổi tiếng của Pháp và thế giới như Auguste Renoir, Henri Matisse, Paul Gauguin, Paul Cézanne, Van Gogh, Picasso, Modigliani...Ngày nay vẫn còn là nơi quy tụ nhiều họa sĩ đến vẽ tranh, trưng bày những bức tranh sắc màu thuộc nhiều trường phái. Đây là những điểm gặp gỡ của những tâm hồn nghệ sĩ và du khách cùng hướng về cái đẹp. Dọc theo những con đường hẹp đan nhau, đó, đây là những họa sĩ đang miệt mài trong cảm hứng sáng tạo. Cách đó không xa, vài nhóm nhạc sĩ đang hòa nhạc, họ thả hồn trong những bản giao hưởng mà từ đằng xa đã nghe âm thanh réo rắc.


Từ đồi Montmartre xuống khu phố sang trọng Champs Elysées, đại lộ được mệnh danh đẹp nhất thế giới, rồi ngang nhà thờ Notre Dame để đến vườn Luxembuorg qua khu phố Latin vào những con đường cổ trải đá, những ngôi nhà xưa mái tháp, mặt tiền được điêu khắc trạm trổ như trong những câu chuyện thần thoại cổ tích. Mạch sống của Paris là những con đường ngoằn ngoèo, nhỏ hẹp, chằng chịt san sát nhà hàng, cửa hiệu, quán café, nơi ấy lúc nào cũng đông khách và vỉa hè luôn rộn rã bước chân người. Nhưng Paris quyến rũ hơn khi bước vào thu, những con đường ngập lá vàng, hàng cây dọc bên bờ sông Seine vi vu trong gió. Chiếc cầu bắc ngang sông soi mình trong bóng nước. Dòng sông thơ mộng ấy là nguồn cảm hứng của biết bao nghệ sĩ, họ dệt cho đời những thiên tình sử còn ghi lại trong văn học nghệ thuật.


Paris trời vào xuân hoa lá chớm nở, đường phố rợp ngát cây xanh. Ở những khu vườn cảnh (jardin d’agrement) những cây Đỗ quyên, Pieris, Hortensia đua nhau nở hoa rất đẹp, nhưng khi hoa tàn lá vẫn còn đẹp tạo màu sắc cảnh vườn quyến rũ. Màu xanh tươi của lá non, màu vàng rực rỡ của hoa Forsythia, màu hoa đào thắm cùng với sắc màu của những loài hoa khác Paris nếu nhìn từ trên cao như một tấm thảm muôn sắc. Màu vàng rực rỡ của hoa Forsythia làm tôi nhớ đến những nụ mai vàng của quê hương và cũng gợi lại màu lá thu Paris.

Thu là khoảng thời giao hòa giữa đất trời nên thiên nhiên biến đổi làm cảnh vật muôn lá đổi màu. Mùa thu Paris tiết trời se se lạnh dễ làm xao xuyến lòng người viễn xứ. Mùa thu ở đây thật quyến rũ, những hàng cây phong dọc các con đường đều thay sắc lá, những chiếc lá vàng, xanh, tím, đỏ rơi rơi như đàn bướm long lanh trong nắng như những giải lụa màu bay giữa khoảng không gian xanh biếc. Màu nắng rất thơ mộng, và những chiếc lá vàng lìa cành bay theo gió như bướm lượn làm tăng vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên. Tiết thu se se lạnh, cái ấm áp của mùa hè đã chuyển dần vào mùa đông tuyết giá. Sự nhiệm màu thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho văn nhân thi sĩ sáng tác, vẽ tranh. 

Trong không gian đầy sắc màu đó, những nghệ sĩ thiên tài có khả năng đặc biệt dù nhắm đôi mắt lại, vẫn có thể phác họa được những phong cảnh, đường nét, màu sắc trong đầu và sau đó có thể vẽ lại cảnh trên khung vải, nhưng khó mà họa được hồn của màu mắt người nào đó trong nắng thu? Cũng ở trong trường hợp đó, một nhà văn, một nhạc sĩ khi nhắm mắt lại cũng chỉ có thể phác họa được cốt truyện, viết được giai điệu, hay một vài đoạn nhạc, nhưng để trở thành bài nhạc, cuốn truyện, tác giả đều phải ghi lại con chữ và hình nốt để hoàn thành tác phẩm. Nhưng đối với nhà thơ thì có phần dễ dung hợp hơn, khi nnhà thơ hắm mắt lại để tìm ý vẫn có thể hoàn thành một bài thơ, vì thơ càng suy gẫm cô đọng bài thơ sẽ hay và sâu sắc, phải chăng thơ là nghệ thuật của nghệ thuật?


Thu Paris, dọc sông Seine những hàng cây soi bóng nước rất ấn tượng đã dệt trong văn thơ âm nhạc và hội họa những thiên tình sử về tình yêu lứa đôi. Mùa thu ở đây tuyệt đẹp những hàng cây phong (Erable) màu lá vàng rực rỡ như những thỏi vàng phản chiếu trong nắng. Cây Erable có nguồn gốc từ phía bắc Trung Hoa, những cành đầy lá vàng chen lẫn những cây Sequoia màu lá hồng bắt nguồn từ vùng California và Nevada Hoa Kỳ, những loại phong này làm tăng vẻ đẹp Paris. Nói về mùa thu làm tôi gợi nhớ một kỷ niệm đẹp về buổi sinh hoạt văn học nghệ huật với chủ đề Thu Tao Ngộ đã quy tụ rất nhiều các văn nhân, thi sĩ, họa sĩ, điêu khắc gia và nhạc sĩ đồng hương ở khắp nơi hải ngoại đến Paris để góp phần dệt lên bức tranh muôn sắc màu. Chiều thu năm đó các văn nghệ sĩ hội về Paris để cùng nhau thưởng lãm thi nhạc về mùa thu, với những bài thơ lừng danh thế giới của các thi sĩ tài danh Pháp của những thế kỷ trước như Guillaume Apollinaire, Jacques Prévert. Những danh sĩ đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị. Những thi sĩ tài danh Việt Nam như Đinh Hùng, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng. Những nhạc sĩ tài danh như Phạm Duy, Phạm Mạnh Cương, Cung Tiến, Phạm Trọng Cầu, Trường Sa, qua tiếng đàn,tiếng hát và giọng ngâm sẽ đưa chúng ta trở về kỷ niệm xưa của quê hương bằng cõi mộng.

Mùa Thu Paris qua Thi Nhạc:


Cuối thế kỷ trước, giới văn nghệ sĩ ở Paris không nhiều nhưng lại đông khách mộ điệu đến thưởng lãm những buổi văn học nghệ thuật. Thi Nhạc Mùa Thu được sự góp mặt của những nghệ sĩ như: Thi sĩ Bằng Vân Trần Văn Bảng, thi sĩ Phượng Linh Đỗ Quang Trị sẽ nói về Ý nghiã Thu Sầu. Thi sĩ Hồ Trọng Khôi, thi sĩ Song Thái Phạm Công Huyền, thi sĩ Đỗ Bình đọc thơ về Thu Tha Hương. Nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh, thi sĩ Phương Du Nguyễn Bá Hậu đọc thơ về Thu Nhớ Quê. Học giả Thái Văn Kiểm, GS Phạm Thị Nhung, thi sĩ Hoài Việt Nguyễn Văn Hướng nói về Thu Paris. Thuở đó giới nhạc sĩ sáng tác ở Paris rất ít, nhất là về đề tài Thu. Những nghệ sĩ đã từng sống ở Paris và đã sáng tác những ca khúc phổ thơ từng vang bóng một thời trước năm 1975, đó là: Mùa Thu Paris, thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc sĩ Phạm Duy Phổ. Mùa Thu Không Trở Lại, nhạc và lời Phạm Trọng Cầu. Paris Có Gì Lạ Không Em , thơ Nguyên Sa, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ. 

Riêng nhạc sĩ Lam Phương trước năm 1975 khi còn ở trong nước đã sáng tác ca khúc Thu Sầu nổi tiếng khắp miền Nam, sau năm 1975 nhạc sĩ định cư ở Paris và Paris đã là nguồn cảm hứng của ông với những sáng tác về thu Paris: Mùa Thu Yêu Đương, Thu Đến Bao Giờ. Nhạc sĩ Đào Tuấn Ngọc cũng thế, khi còn ở quê nhà trước năm 1975 ông đã sáng tác nhiều ca khúc về thu nhưng ít phổ biến, chỉ cho bằng hữu thưởng lãm, đó là những ca khúc: Vào Thu (1963), Lá Thu (1966), Tình Thu (1966), Đêm Thu Nghe Đàn Bên Sông (1968), Đêm Thu Vĩ Cầm (1987), Paris Chiều Nhớ (1987), Đồi Mơ (1988), Sáng Thu Thăm Mộ Chopin (1992), Thu Cảm (1993), Hồ Thu (1994) Khi Thu Rụng Lá (2008), phổ thơ Lưu Trọng Lư. Thu Sắp Về (2009), phổ thơ của Thụy Khanh thành ca khúc Cảm Thu. Phổ thơ: Thu Trên Sông Seine của Vương Thu Thủy. Bài thơ của Vương Thu Thủy còn được nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên phổ. 

Thuở ấy những ca khúc về Thu Paris còn có nhạc sĩ Lê Phương với những ca khúc: Hoài Niệm Thu, Một Thời Vàng Phai, Mùa thu Paris Nhớ Sài Gòn, Lối Em Vẫn Ở Lòng Này, thơ Trần Thiện Hiệp, Lê Phương phổ. Nhạc sĩ Nguyễn Đình Tuấn viết nhạc và lời: Thu Hà Nội Thu Sài Gòn Nhưng Yêu Paris. Đỗ Bình viết nhạc Phố Khuya, Thu Cảm, Chiều Trên Sông Seine, Mưa Nguồn, Nắng Thu, Em Còn Trong Thơ. Nhạc sĩ Trịnh Hưng chuyên về sáng tác nhạc quê hương, ông viết một ca khúc về thu phổ thơ Đỗ Bình: Chỉ Yêu Cuộc Tình. Nhạc sĩ Vũ Thái Hòa: Chiều Bên Giòng Suối. Nhạc sĩ Đức Huy: Để Quên Con Tim. Nhạc sĩ Phạm Đình Liên: phổ bài thơ Thu của Quỳnh Liên, bài thơ Thu Tình Thương. “Mưa Paris”, thơ Đỗ Bình, nhạc Quách Vĩnh Thiện. “Chiếc Lá Cuối Mùa ”, ý thơ Théophile Gautier(1811-1872), nhạc và lời của Phạm Đăng…

Mùa Thu Paris qua Thi Nhạc Pháp:


Trong nền văn học và nghệ thuật của Pháp, nhiều danh tác trong các lãnh vực văn chương, thi ca, âm nhạc, hội họa… đã để lại cho đời biết bao tác phẩm giá trị tuyệt vời về Mùa Thu Paris qua Thi ca và Âm nhạc:

Bài thơ nổi tiếng Chansons D’automne của thi sĩ Pháp Paul Verlaine (1844-1896), được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc Thu Ca Điệu Ru Đơn. Mùa Thu- Autonne, Mùa Thu Chết (phổ thơ L’Adieu của thi sĩ Pháp Appollinaire (1880-1918), theo bản dịch tiếng Việt của nhà thơ Bùi Giáng là Lời Vĩnh Biệt. Les Feuilles Mortes, thơ Jacques Prévert (1900-1977), nhạc Joseph Kosma (1905-1969). Theo tài liệu có sự ngộ nhận của nhiều người tưởng rằng Les Feuilles Mortes là một bài thơ của Prévert được J. Kosma đem phổ nhạc. Thực ra, đây chỉ là ca từ J. Prévert đã viết ra định làm lời cho một phần của kịch vũ Ba lê ( BalletLe Rendez-vous). Nhưng sau khi lắng nghe giai điệu của Kosma, Pr évert đã bị thu hút bởi những nốt nhạc nói lên nỗi buồn thầm kín của người tình nhân trước cái chết bi thảm của người yêu mình vẫn luôn thương nhớ, và ông đã mượn giai điệu của Kosma viết thêm lời để làm nền cho cuốn phim Les Portes de la Nuit do chính ông thực hiện. Les Feuilles Mortes là một bài thơ của Prevert do Kosma phổ nhạc, được trình diễn của nhiều ca sĩ thời danh khác nhau như Cora Vaucaire, Yves Montand, Doris Day, Nat King Cole, Philippe Jaroussky, Laura Fygi….

Mùa Thu trong văn chương, âm nhạc Trên quê hương:


Mùa thu nơi quê hương, nhất là trên xứ Bắc, hình ảnh những chiếc lá vàng bay trong tiết trời se se lạnh đã gợi nguồn cảm hứng cho các văn nhân, thi, nhạc sĩ sáng tác nên những bài thơ, những ca khúc về đề tài Thu. Bài “Thu Điếu của thi sĩ Nguyến Khuyến, “Tiếng Thu” của thi sĩ Lưu Trọng Lư, “Mùa Thu Đã Về ” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, “Gởi Người Dưới Mộ” của thi sĩ Đinh Hùng .…

Những ca khúc: “Giọt Mưa Thu, Buồn Tàn Thu, Đêm Thu” của Đặng Thế Phong, “Lá Đổ Muôn Chiều, Thu Quyến Rũ ” của Đoàn Chuẩn &Từ Linh, “Thu Vàng ” của Cung Tiến, “Thu ca, Thu Về Trong Mắt Em” của Phạm Mạnh Cương, “Sương Thu ” của Văn Phụng, “Diễm Xưa, Nhìn Những Mùa Thu Đi” của Trịnh Công Sơn, “Ngàn Thu Áo Tím” của Vĩnh Phúc & Hoàng Trọng, “Hoài Thu” thơ Đinh Hùng, nhạc Văn Trí, “Tiếc Thu” của Thanh Trang, “Nắng Lụa Vàng” của Phạm Thế Mỹ,“Thu Hát Cho Người” của Vũ Đức Sao Biển, “Mùa Thu Trong Mưa” của Trường Sa, “Lá Rơi Bên Thềm ” của Lê Trọng Nguyễn, “Mùa Thu Cánh Nâu” của Nguyễn Ánh 9, “Em Về Mùa Thu, Mùa Thu Cho Em” của Ngô Thụy Miên…VV..

Mùa thu không những được gợi cảm trong thi ca, âm nhạc mà còn đi vào văn chương qua những áng văn trong những tiểu thuyến nổi tiếng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Có những bài văn đã trở thành những bài học trong Quốc văn giáo khoa thư để dạy học trò. Ở giữa thế kỷ trước, bài văn

Tôi Đi Học của nhà văn, nhà thơ Thanh Tịnh thời tiền chiến đã đi vào ký ức của tuổi học trò thuở ấy. Tác giả diễn tả tâm hồn trong trắng của người thời bấy giờ qua cách sử dụng một ngôn ngữ tiếng Việt chuẩn, câu văn mang nhiều hình ảnh được đãi lọc trong sáng và nhẹ nhàng như thơ:

«Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường.

Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đi đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.

Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học….».

Người nghệ sĩ dù sống tha hương, hay ở chính trên quê hương khi nhìn mùa thu Paris, hay mùa thu Hà Nội, mùa thu Sài Gòn đều cảm được tiết trời, thấy những hàng cây bên đường thay lá, nhưng những dòng cảm súc đó với mùa thu lại rất khác nhau, do đó những nội dung trong tác phẩm khác nhau. Những cảnh sắc lá đổi màu của mùa thu trong thơ văn nhạc và hội họa chỉ là sự rung động của ngoại cảnh thiên nhiên, còn tâm cảnh vẫn là một đáy thẳm chất chứa những kỳ bí về con người, về tình yêu lứa đôi và quê hương. Người nghệ sĩ đã thể hiện tính chất độc đáo trong sáng tạo của riêng mình qua mỗi tác phẩm qua những bài thơ nhạc trên , không có bài thơ trùng ý, trùng lời, cũng như chẳng có ca khúc nào trùng giai điệu nhau, hoặc trùng đoạn tiết tấu, cái tinh hoa độc đáo là tạo nên cõi âm nhạc đầy màu sắc âm thanh mỗi giai điệu.

Người nghệ sĩ chân chính, chẳng phải đợi đến lúc sáng tác hay trình diễn trên sân khấu lúc đó mới thành nghệ sĩ. Những tâm hồn được gọi là nghệ sĩ trước tiên phải chân thật với lòng mình, biết tự trọng, sau đó biết rung cảm trước ngoại cảnh để hòa với tâm cảnh cảm nhận được cái đẹp của thiên nhiên, sự chuyển hóa huyền bí của vũ trụ, cũng như cái hay, cái dở tiềm ẩn sâu lắng trong con người. Trong thế giới mơ mộng của nghệ sĩ, hồn ta nào khác như một ánh sao băng thoáng trên bầu trời thăm thẳm từ một hành tinh xa xăm nào đó lạc xuống trần, rồi đọng trên kẽ lá thành những hạt sương mai. Nhưng chẳng may, hoặc vô tình có ngọn gió lướt qua lay động cành cây, làm vỡ những viên ngọc trời; thành muôn mảnh! Thì trước khi tan biến nó vẫn dựng lên cái huy hoàng của bình minh. 

Đỗ Bình

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét