Thứ Ba, 21 tháng 10, 2025

Trường Tương Tư Kỳ Nhì 長相思其二 - Lý Bạch(Thịnh Đường) Từ


Lý Bạch 李白 (701-762), (kém Vương Xương Linh 3 tuổi), tự Thái Bạch 太白, hiệu Thanh Liên cư sĩ 青蓮居士, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thuỷ, 25 tuổi "chống kiếm viễn du", đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua hồ Động Đình, lên Sơn Tây, Sơn Đông cùng năm người bạn lên núi Thái Sơn "ẩm tửu hàm ca" (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục dật. Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Trường An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một "văn nhân ngự dụng" nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thuỷ.

Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết làm bạn vong niên (Đỗ Phủ kém Lý Bạch 11 tuổi). Họ Lý cùng Cao Thích vui chơi, thưởng trăng ngắm hoa, săn bắn được nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương nam. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lư Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết đuối. Nay còn Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng) ở huyện Đăng Đồ, An Huy, là địa điểm du lịch nổi tiếng. Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên, Trích tiên, Tửu trung tiên,...

Sau khi ông qua đời, Lý Đăng Dương sưu tầm thơ ông, được khoảng 20.000 bài, nhưng không để tâm cất giữ nên nay chỉ còn khoảng 1.800 bài. Thơ ông viết về đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của người cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng... Đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác.

Nguyên tác Dịch âm

長相思其二 李白 Trường Tương Tư kỳ nhì

日色欲盡花含煙 Nhật sắc dục tận hoa hàm yên
月明如素愁不眠 Nguyệt minh như tố sầu bất miên
趙瑟初停鳳凰柱 Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ
蜀琴欲奏鴛鴦絃 Thục cầm dục tấu uyên ương huyền
此曲有意無人傳 Thử khúc hữu ý vô nhân truyền
願隨春風寄燕然 Nguyện tùy xuân phong ký Yên Nhiên
憶君迢迢隔青天 Ức quân thiều thiều cách thanh thiên
昔時橫波目 Tích thì hoành ba mục
今作流淚泉 Kim tác lưu lệ tuyền
不信妾腸斷 Bất tín thiếp trường đoạn
歸來看取明鏡 Qui lai khán thủ minh kính tiền

Chú giải:

燕然 yên nhiên: nơi chàng đang ở.
趙瑟 Triệu sắt: người nước Triệu khéo gẩy đàn sắt nên xưng là Triệu sắt.
蜀琴 Thục cầm: đàn Thục. Tư Mã Tương Như khéo gẩy đàn cầm nên người đời gọi là Thục cầm.
橫波目 Hoành ba mục: nói về con mắt nhìn nghiêng giống như làn sóng nước nằm ngang.
鳳凰柱 Phụng hoàng trụ: cái trụ của đàn sắt có khắc hình chim phượng.

Dịch từ

Trường Tương Tư kỳ 2

Vừng ô sắp tắt hoa ngậm sương
Buồn trông trăng lụa thức canh trường
Đàn sắt vừa ngừng Phụng Hoàng trụ
Đàn cầm khởi tấu khúc uyên ương
Nhạc khúc hữu tình mình tự luyện
Gởi tới Yên Nhiên theo gió xuân
Nhớ chàng thăm thẳm trời xanh ngắt
Xưa long lanh sóng mắt
Nay lệ chảy thành sông
Không tin thiếp đau lòng
Quay về nhìn thiếp trước gương trong

Lời bàn: 

Nếu trong kỳ 1 Lý Bạch không nhớ vợ thì kỳ này ắt là vợ của Lý nhớ chồng. Vợ của một thi sĩ phong lưu như Lý thì thiệt thòi lắm (chính Lý đá từng thú nhận như vậy: đọc Biệt nội phó trưng kỳ 1, 2 & 3 và bài Tặng nội thì rõ).
Trong bài tặng nội Lý đã thú thật rằng:
Tuy vi Lý Bạch phụ, Tuy có chồng là Lý Bạch.
Hà dị Thái thường* thê? Nào khác chi vợ Thái thường.
*Thái Thường: Chỉ Chu Trạch làm quan Thái thường đời Hậu Hán. Ông vì coi sóc tôn miếu nên giữ gìn trai giới rất nghiêm, thường ngủ ở nhà trai ít khi về với vợ. (Chu Trạch không về với vợ vì bận việc quan nhưng Lý Bạch không về với vợ chỉ vì bận ve gái và uống rượu).

Con Cò
***

Nhớ Nhau Hoài.Kỳ 2.

Nắng sắp tàn hoa ủ khói sương,
Ánh trăng như lụa giấc sầu thương.
Vừa ngưng Triệu Sắt trên giây Phụng,
Đã dạo Thục Cầm phím uyên ương.
Khúc ấy ý nhiều không giữ lại,
Gửi Yên Nhiên bám gió xuân hương.
Nhớ Chàng thăm thẳm mãi ngàn phương.
Xưa đong đưa sóng mắt,
Nay suối lệ buồn vương.
Không tin Thiếp nát dạ,
Quay về mà ngắm bóng trong gương.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Oct. 12/2025.
***
Trường Tương Tư Kỳ 2

Mặt trời sắp tắt, hoa ngậm sương
Sầu dâng chẳng ngủ, trăng lụa tuôn
Đàn Triệu vừa ngưng phụng hoàng trụ
Thục cầm đã thúc dây uyên ương.
Khúc này có ý, sao chẳng lường?
Gởi Yên Nhiên, mong gió đưa hương
Nhớ chàng xa thẳm một trời thương
Xưa đưa ngang sóng mắt
Nay thành suối lệ vương
Chẳng tin thiếp ruột đứt
Về đây mà ngắm vẻ trong gương!

Lộc Bắc
***
Trường Tương Tư

Nhớ em nhiều
Tại Trường An
Bờ giếng nỉ non tiếng dế trùng
Chiều về sương khói xuống chập chùng.
Ngọn đèn cô độc soi sầu muộn
Rèm cuốn ngắm trăng thấy lạnh lùng
Người đẹp nét hoa xa vạn dặm
Trời xanh thăm thẳm tận vô cùng
Triền miên sóng biếc con sông chảy
Diệu vợi đất trời cõi mịt mùng
Phách hồn muốn vượt quan san mộng
Nhớ em nhiều
Ruột nát tan

Thanh Vân
***
Góp Ý Cho Bài Trường Tương Tư Kỳ 2 Của Lý Bạch.

Trong 2 bài Trường Tương Tư của Lý Bạch, BS thích bài kỳ 2 hơn, và như đã nói cách đây vài năm, BS rất mê 2 câu dịch của Chi Điền Hoàng Duy Từ:

Tích thời hoành ba mục,
Kim tác lưu lệ tuyển.
Ngày xưa sóng mắt đưa tình,
Bây giờ lệ thảm chảy quanh đôi tròng.


Đọc lại bài 276b, BS thấy đoạn mình mới viết, và bài Ký Viễn của anh Tâm.

Anh Giám góp ý rất nhanh, kể điển tích liên quan đến Yên Nhiên, nhắc tới Đậu Hiến và Lý Quảng Lợi làm BS rất thích, vì đúng với sở thích của mình. Lý Quảng Lợi là tướng của Hán Vũ Đế, đánh thắng Đại Uyển, nhưng thua Hung Nô, hàng giặc, sau bị giết.

Lý Quảng, cũng thời Hán Vũ Đế, là danh tướng, lập nhiều công trận, sau cùng Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh đi đánh Hung Nô, ông đến điểm hẹn trễ vì lạc đường, bị Vệ Thanh hạch tội nên tự sát. Lý Quảng nổi tiếng bắn giỏi, nên trong truyện Thủy Hử, có người bắn rất giỏi, tên Hoa Vinh, xưng là Tiểu Lý Quảng.
Con Quảng là Cảm, cháu Quảng là Lý Lăng, đánh Hung Nô, bị thua vì ít quân, phải hàng, bị Vũ Đế bắt tội cả nhà. Tư Mã Thiên, vì bênh vực Lăng mà bị tội hoạn, nhưng viết bộ Sử Ký, nổi danh muôn đời.
Xin lỗi ACE, BS ba hoa, lạc đề, nhưng vì gặp tủ nên mới như vậy.

Trở lại với Trường Tương Tư.

Bài cổ phong này ít chữ khó.
Yên Nhiên là địa danh, anh Giám đã giảng rồi.
Thiều thiều, còn phiên âm là điều điều: xa xôi, dằng dặc.
Vì mê câu dịch của Chi Điền, BS xin mượn mấy chữ sóng mắt đưa tình.

Tương Tư Hoài, Kỳ 2.

Mặt trời sắp lặn, hoa ngậm sương,
Trăng như giải lụa, buồn vấn vương.
Sắt Triệu vừa ngừng, trụ hình phượng,
Đàn Thục muốn tấu, giây uyên ương,
Nhạc khúc ý hay không ai dậy,
Nguyện gửi Yên Nhiên theo gió nương.
Nhớ chàng dằng dặc, trời xanh ngắt…
Xưa đưa tình sóng mắt,
Nay suối lệ sầu thương,
Chẳng tin thiếp khổ não,
Thì về mà ngắm ở trong gương.

Bát Sách.
(Ngày 15/10/2024)


Trường Tương Tư Kỳ Nhị - Lý Bạch

長相思其二 - 李白

Nguyên tác Trường Tương Tư Kỳ 2 được chép trong sách của Lý Bạch:

Lý Thái Bạch Văn Tập Quyển Ngũ - Đường - Lý Bạch soạn 李太白文 集-唐-李白 có tựa TTT và không dị bản.

Lý Thái Bạch Tập Phân Loại Bổ Chú Quyển Lục - Tống Dương Tề Hiền tập chú - Tiêu Sĩ Bân bổ chú 李太白集分類補註-唐-李白 có tựa TTT với ghi chú như sau:

Tề Hiền nói rằng nhạc phủ của Lục Thế Hoành có một bài ca dài về thời cổ đại và hiện đại. Ghi chú nói rằng tuổi thọ do số phận quyết định và không nên tìm kiếm một cách vô ích.

齊賢曰陸士衡樂府有長歌行古今注長歌言夀命長短定分不妄求也 Tề Hiền viết Lục Sĩ Hành nhạc phủ hữu trường ca hành cổ kim chú trường ca ngôn thọ mệnh trường đoản định phân bất vọng cầu dã.

Lý Thái Bạch Tập Chú Quyển Lục - Tiền Đường Vương Kỳ soạn 李太白集注-唐-李白 có tựa TTT và ghi chú dài ở cuối bài.

Bài thơ còn có mộc bản trong các sách:

Nhạc Phủ Thi Tập - Tống - Quách Mậu Thiến 樂府詩集-宋-郭茂倩
Tài Điều Tập - Thục - Vi Hộc 才調集-蜀-韋縠
Cổ Thi Kính - Minh - Lục Thì Ung 古詩鏡-明-陸時雍
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐 詩-清-聖祖玄燁

Dịch nghĩa:

Trường Tương Tư Thương Nhớ Dài Lâu

Nhật sắc dục tận hoa hàm yên
Mặt trời sắp lặn, hoa như chìm trong sương,
Nguyệt minh dục tố sầu bất miên
Ánh trăng sáng như lụa, lòng trĩu nặng ưu sầu, không sao ngủ được.
Triệu sắt sơ đình phượng hoàng trụ
Tiếng đàn sắt với trụ phượng vừa dứt,
Thục cầm dục tấu uyên ương huyền
Thì tiếng đàn cầm đã dục tấu khúc uyên ương.
Thử khúc hữu ý vô nhân truyện
Khúc này có ý nghĩa nhưng chẳng có ai lưu truyền.
Nguyện tùy xuân phong ký Yên Nhiên
Ước gì gió xuân mang nó đến bên kia núi Yên Nhiên.
Ức quân điều điều cách thanh thiên
Nhớ chàng nơi xa cách trời xanh chẳng thể nhìn thấy nhau.
Tích thì hoành ba mục
Xưa thì mắt sáng ngời như làn sóng,
Kim vi lưu lệ tuyền
Nay chúng đã thành suối lệ tuôn rơi.
Bất tín thiếp trường đoạn
Nếu không tin thiếp buồn đứt ruột gan,
Quy lai khán thủ minh kính tiền
Xin hãy về mà ngắm mặt hốc hác trong tấm gương sáng.

Bài thơ lấy cảm hứng từ hoa xuân và làn gió xuân, khắc họa nỗi nhớ nhung của người phụ nữ dành cho người yêu. Ngắm trăng, nàng khao khát, gảy đàn tranh để bày tỏ tình cảm, giãi bày tâm sự, rơi những giọt nước mắt đau khổ, và khao khát tha thiết, thể hiện nỗi nhớ nhung sâu sắc dành cho người mình yêu chinh chiến nơi xa xôi. Những suy nghĩ và nỗi nhớ nhung dành cho chàng tràn ngập nỗi buồn và tình cảm dạt dào, gợi lên lời than thở: "Nàng giờ xơ xác như hoa tàn".

Dịch thơ:

Thương Nhớ

Hoàng hôn sương khói che hoa,
Lòng buồn thao thức trăng ngà mông lung.
Đàn sắt trụ phượng vừa ngưng,
Đàm cầm khởi khúc uyên ương ảo huyền.
Khúc ý nghĩa không lưu truyền,
Ước chi gió đến Yên Nhiên bên chàng.
Trời xanh xa cách muôn ngàn,
Ngày xưa mắt sáng như làn sóng ngang.
Ngày nay dòng lệ tuôn tràn.
Nhớ chàng thiếp nát tâm can,
Chẳng tin về ngắm hoa tàn trước gương.

Longing for Love (Part 2) by Li Bai

As the sun sets, the flowers seem shrouded in mist.
The moonlight is like water, and my heart is filled with sorrow, unable to sleep.
The phoenix-shaped Zhao zither has barely stopped,
The Shu qin picks up with the mandarin duck tune.
It's a pity that the song, though meaningful, has no one to pass it on.
I wish it would fly all the way to Yanran on the spring breeze.
I miss you, though we cannot see each other across the vast blue sky.
Those eyes that once shone with light,
Today, they have become springs of tears.
If you don't believe how much pain I've suffered,
Please return and look at my haggard face in the mirror.

Phí Minh Tâm

***
Góp ý:

願隨春風寄燕然 nguyện tùy xuân phong ký Yên Nhiên

Lý Bạch bị sử liệu về người Hung Nô ám ảnh khi làm hai bài nhạc phủ Trường Tương Tư này, có lẽ vì ông sống qua thời loạn An Lộc Sơn (安祿山), một người có dòng dõi Khiết Đan-Hung Nô.

Vì địa danh Yên Nhiên (燕然) đã hiện diện trong nhiều thi văn biên tái (Lý Bạch, Phạm Trọng Yêm, Lục Du thời Tống), người đọc cần biết chút ít về điển cố đó để có thể hiểu trọn ý bài nhạc phủ này. Một bài chữ Hán trên internet về điển tích này đặt câu hỏi cho tựa đề mà ta có thể dịch đại khái là “Tại sao Yên Nhiên lưu danh thiên sử nhưng Đậu Hiến lại lưu xú vạn niên?” Thi văn Hoa Lục có thành ngữ "khắc đá Yên Nhiên" để nói đến mộng làm chuyện hãn hữu. Đậu Hiến, anh của Chương Đức hoàng hậu, vợ của Hán Chương Đế thời Đông Hán là người khởi đầu điển tích. Vì chồng qua đời sớm (tuổi 30, năm 88 CE), Đậu hoàng hậu trở thành hoàng thái hậu và nhiếp chính cho đứa con vừa lên ngôi lúc 10 tuổi. Góa chồng lúc còn trẻ, hoàng thái hậu họ Đậu có người tình tên Lưu Chương rất thông minh. Đậu Hiến ganh ghét và sợ mất quyền lực nên ám sát người tình của em. Đây là tội tử hình nên Đậu Hiến tình nguyện đi bình định Bắc Hung Nô để chạy tội và bà em nhiếp chính đồng ý tha thứ.

Đoàn quân của tướng xa kỵ Đậu Hiến đi chừng ba ngàn dặm (quanh 450 km bắc biên giới nhà Hán thời đó) để tới Yên Nhiên (chấm đỏ trong hình dưới). Sử liệu nói 13 ngàn binh lính Hung Nô bị giết, kể cả một số phó vương Hung Nô thời đó và 200 ngàn người dân đầu hàng quân Hán. Vua (thiền vu) cuối cùng của Hung Nô đầu hàng 30 năm sau và tên nước Hung Nô đi vào lịch sử vì con dân di tản đi nơi khác (có thể gây ra nạn người Hung tàn phá Âu châu). Thật sự ra họ Đậu thành công một phần vì phải quyết tử để tránh bị em xử tử, một phần nhờ may mắn vì đất Hung Nô đang yếu kém (nội chiến và thiên tai, đất nước chia đôi Nam-Bắc) và miền Nam mời nhà Hán trợ lực diệt miền Bắc. Người Hung Nô sống lối du mục, không có chữ viết (ta không biết tên của nhiều thiền vu), không để lại di tích cho người đời sau làm chuyện khảo cổ nên trong khoảng một ngàn chín trăm năm tiếp theo, không ai biết Yên Nhiên ở đâu! Không ai biết một phần có lẽ vì lý do rằng Đậu Hiến bị vua 14 tuổi Hán Hòa Đế gài bẫy bắt và buộc phải tự vận năm 92 CE cho tội mưu toan thí vua. Sử gia Ban Cố (班固), người tháp tùng họ Đậu và viết bài Phong Yên Nhiên san minh (封燕然山銘) khắc trên đá cũng bị thất sủng và chết trong ngục. Ta có thể hiểu là các sử gia đương thời không dám viết về hai người đó.


(hình không ảnh Google, phóng đại hết mức)

[cho dù cái tên Yên Nhiên đã được ghi lại trong sử liệu thời Tây Hán, (khi tướng Lý Quảng Lợi thống lãnh 7 vạn quân bị phuc kích và thua trận ở đó); sử gia thời Đường định vị nó ở gần thủ đô Ô Lan Ba Thác (烏蘭巴托/Ulaanbaatar, hơn 400 km hướng đông-bắc); các nhà địa dư thời Thanh cho rằng Yên Nhiên là núi Hàng Ải (杭爱山) 400 km hướng tây-bắc của địa điểm thật sự. Và Yên Nhiên không phải là một núi hùng vĩ mà chỉ là một ngọn đồi giữa sa mạc mênh mông như trong hình dưới]


Mãi tới năm 1990, hai người mục đồng tránh mưa dưới đồi đó nhìn lên đầu và thấy chữ Hán khắc trên sườn đồi. Và phải qua thập niên thứ nhì của thiên kỷ nguyên thứ 3, các nhà nghiên cứu (Đại học Nội Mông và Học viện Thành Cát Tư Hãn) mới công bố việc đọc được 244 chữ trong chừng 260 chữ khắc trên đá – một số đã phai mòn với thời gian – và xác nhận đây là di tích lịch sử thật sự ghi công trạng của Đậu Hiến trong việc đàn áp và tiêu diệt Bắc Hung Nô.

Thi nhân họ Lý tán thán cảnh lính Hán viễn chinh hay sự suy tàn của người Hung Nô? Và ông sẽ nghĩ sao nếu biết rằng 500 năm sau, hậu duệ của người Hung Nô sẽ thành lập nhà Nguyên?

Dĩ nhiên vào thời Đường binh lính người Tàu không còn viễn chinh vào trung tâm Mông Cổ như 6-7 thế kỷ trước nên việc người vợ nhờ gió nhắn tin tới một nơi không ai biết ở đâu chỉ có thể hiểu là làm chuyện ... vô vọng.

Tương tư dài lâu đến thế là cùng!

Huỳnh Kim Giám


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét