Thứ Tư, 4 tháng 8, 2021

Thái Thuận 蔡順 - Thơ "Việt Nam" Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn


Thái Thuận 蔡順

Thơ "Việt Nam" Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn

(Tự: Nghĩa Hòa; hiệu: Lục Khê; biệt hiệu: Lã Đường; 1441 - ?), nhà thơ Việt Nam. Quê: huyện Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc, nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Xuất thân thường dân, từng làm lính dạy voi, sau về đi học. Đỗ Tiến sĩ đời Lê Thánh Tông. Làm quan ở Viện Hàn lâm, sau kiêm tham chính sứ Hải Dương. Văn chương nổi một thời, được Lê Thánh Tông cho làm Tao đàn sái phu. Ông có hàng nghìn bài thơ nhưng tản mát, không thành tập. Sau khi ông mất, con và học trò sưu tập, làm tựa, hoàn thành vào năm Hồng Thuận thứ 10 (1510) đời Lê Tương Dực, lấy tên "Lã Đường di cảo", còn khoảng vài trăm bài, được dư luận đương thời và thời sau coi là tập thơ xuất sắc. Lê Thánh Tông khen Thái Thuận là thi sĩ "luôn luôn nổi tiếng ở trường thơ". Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Ngô Thì Nhậm, Bùi Huy Bích... khi đọc thơ Thái Thuận", đều xưng tụng là: "nhà thơ có khuôn thước, phong cách", "thanh nhã, dồi dào", "sau tập thơ "Giới Hiên" của Nguyễn Trung Ngạn, ít khi có thể văn ấy". Quả thực, thơ Thái Thuận có phong cách độc đáo, ít khi rơi vào khuôn sáo, thù tạc như thơ ca của nhiều tác giả cùng thời, nhất là những tác giả cung đình. Thơ ông ít có những nét bút hoành tráng, khí phách, tình cảm mạnh mẽ, sắc màu thắm rực như thơ Nguyễn Trãi, cũng ít có giọng khoa trương, tự đắc thường thấy trong thơ Lê Thánh Tông. Thơ ông thanh thoát, bình dị, không màu mè, hoa mĩ, tứ thơ mới mẻ, độc đáo, phóng khoáng giàu chất hiện thực, đậm đà ý vị trữ tình.

Chinh phụ ngâm 征婦吟 • Khúc ngâm của người vợ có chồng đi xa
Thơ "Việt Nam" Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn "Thái Thuận" Lữ Đường di cảo thi tập

征婦吟 


庭草成巢柳又絲,
征夫何日是歸期?
半簾殘月傷心夜,
一枕啼鵑落淚時。
塞北雲長孤雁影,
江南春盡老蛾眉。
昨來幾度相思夢
曾到君邊知不知

Chinh Phụ Ngâm


Đình thảo thành sào liễu hựu ty,
Chinh phu hà nhật thị quy kỳ?
Bán liêm tàn nguyệt thương tâm dạ,
Nhất chẩm đề quyên lạc lệ thì.
Tái bắc vân trường cô nhạn ảnh,
Giang nam xuân tận lão nga my.
Tạc lai kỷ độ tương tư mộng,
Tằng đáo quân biên tri bất tri?

Dịch nghĩa:

Đám cỏ ngoài sân đã thành khóm, chồi liễu lại một lần buông tơ,
Không biết ngày nào người chinh phu trở về.
Soi qua nửa bức rèm, thấy mảnh trăng tàn mà thương tâm,
Vọng lại bên gối nằm, nghe tiếng quyên kêu mà rơi lệ.
Ải Bắc mây phủ đầy, con chim nhạn lẻ loi chiếc bóng,
Sông Nam xuân đã qua, nét mày ngài một ngày một già đi.
Đêm qua mấy lần có những giấc mộng tương tư,
Thường mơ đến bên chàng, chàng có hay chăng?

Quách Tấn trong Hương vườn cũ dẫn rằng sách Nữ thi hào Việt Nam của Phạm Xuân Độ chép tác giả bài này là Sương Nguyệt Anh. Ông Nguyễn Đình Chiêm, em trai của Sương Nguyệt Anh cũng dịch bài thơ này ra quốc âm. Tuy nhiên bài thơ này là của Thái Thuận.

Bản dịch của Quách Tấn


Cỏ đã vun sân liễu lại chồi
Người ra chiến địa thuở nào lui?
Nửa rèm trăng xế đêm quằn quại
Đầy gối quyên kêu lệ sụt sùi
Xuân lụn trời Nam mày thuý nhạt
Mây vần ải bắc bóng nhàn côi
Tương tư! Biết chẳng? Hồn theo mộng
Tìm đến bên nhau mấy độ rồi!
 

Khúc Ngâm Vợ Lính


Cỏ đã đầy sân liễu phát hoa
Hạn kỳ lính thú ghé thăm nhà?
Nửa rèm trăng xế đêm thương nhớ
Một gối quyên kêu lệ ướt nhòa
Ải Bắc mây dài chim lẻ bạn
Giang Nam xuân hết nét mày sa
Đêm rồi mấy bận mơ thương nhớ
Chàng biết, bao lần, thiếp ghé qua?


Lộc Bắc
Juil21

Bản dịch của Điệp Luyến Hoa

Cỏ lại kết vun, liễu lại tơ,
Chinh phu bao thuở mới quay về.
Nửa rèm trăng khuyết lòng sầu tủi,
Một gối quyên kêu lệ tái tê.
Ải bắc mây giăng mờ bóng nhạn,
Dòng nam xuân hết lạnh bờ my.
Tương tư mấy độ hồn theo mộng,
Tìm đến bên chàng có những khi.

 

Cấm trung thu dạ 禁中秋夜 • Đêm thu nơi cung cấm

Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Thái Thuận » Lữ Đường di cảo thi tập

禁中秋夜 


井梧宮葉共蕭騷,
坐覺浮涼到翠袍。
欖繞西風簾影動,
城臨北斗鼓聲高。
三生香火驚殘夢,
半世光陰感二毛。
燈下淵明詩懶讀,
鄉歸思正滔滔

Cấm Trung Thu Dạ


Tỉnh ngô cung diệp cộng tiêu tao,
Toạ giác phù lương đáo thuý bào.
Lãm nhiễu tây phong liêm ảnh động,
Thành lâm bắc đẩu cổ thanh cao.
Tam sinh hương hoả kinh tàn mộng,
Bán thế quang âm cảm nhị mao.
Đăng hạ Uyên Minh thi lãn độc,
Cố hương quy tứ chính thao thao.

Dịch nghĩa

Lá cây ngô đồng bên giếng trong cung đều buồn bã như nhau,
Ngồi đây cũng biết khí lạnh bên ngoài áo choàng màu thuý.
Câu lơn chạm đeo gió tây, bóng rèm lay động,
Thanh cao ngang sao Bắc đẩu, tiếng trống lên cao.
Hương lửa ba sinh kinh giấc mộng tàn,
Nửa đời quang âm cảm thương mái đầu hai thứ tóc.
Dưới đèn đọc phiếm thơ Uyên Minh,
Lòng muốn về quê cuồn cuộn tuôn chảy.

Bản dịch của Quách Tấn


Lá cung rụng tiếng ngô đồng,
Phòng tiêu nghe đã lạnh lùng áo xiêm.
Gió tây đoanh lộn bóng rèm,
Thành vươn Bắc đẩu vươn thêm trống thành.
Mộng tàn hương lửa ba sanh,
Quang âm nửa gối, trắng xanh mái đời.
Thơ Đào lửng ngọn đèn côi,
Tấm lòng cố lý sụt sùi khôn ngăn.
 

Cung Cấm Đêm Thu


Ngô đồng giếng ngọc thảy u sầu
Ngồi biết lạnh lùng thấm áo sâu
Trám vướng gió tây rèm lắc động
Thành kề Bắc Đẩu trống thanh cao
Ba sinh hương lửa buồn tàn mộng
Nửa kiếp thời gian xót mái đầu
Đèn thắp Uyên Minh thơ phú đọc
Tấm lòng cố lý thấy nao nao!

Lộc Bắc

Juil21

Bản dịch của Nguyễn Hữu Thăng

Trong cung lá úa lẫn ngô đồng
Ngồi thấy se se lạnh áo lông
Gió bám bao lơn, rèm động bóng
Thành kề sao đẩu, trống lừng không
Nửa đời sớm tối thương đầu bạc
Ba kiếp lửa hương tỉnh mộng hồng
Thơ cũ Uyên Minh, đèn thắp đọc
Quê hương thầm gọi xốn xang lòng

 

Lão Kỹ Ngâm 老妓吟 • Khúc ngâm của người kỹ nữ già

Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Thái Thuận » Lữ Đường di cảo thi tập

老妓吟 


雨態雲晴損少年,
紅粧翠抹不成妍。
落花庭院慵開鏡,
明月池塘憶採蓮。
金屋卻慚新窈窕,
青樓枉信舊嬋娟。
覺來惟有遊仙枕,
猶自分他一半眠。
 

Lão Kỹ Ngâm


Vũ thái vân tình tổn thiếu niên,
Hồng trang thuý mạt bất thành nghiên.
Lạc hoa đình viện thung khai cảnh,
Minh nguyệt trì đường ức thái liên.
Kim ốc khước tàm tân yểu điệu,
Thanh lâu uổng tín cựu thuyền quyên.
Giác lai duy hữu du tiên chẩm,
Do mục phân tha nhất bán miên.

Dịch nghĩa

Thói mưa, tình mây làm tổn hại đến tuổi thiếu niên,
Tranh hồng điểm thuý cũng không làm cho đẹp được nữa.
Nơi đình viện thấy hoa rụng làm biếng mở gương soi,
Trên ao hồ nhìn trăng sáng chạnh nhớ lúc hái sen.
Những thẹn cùng người yểu điệu chốn nhà vàng,
Luống tin rằng mình trước kia là hạng thuyền quyên nơi lầu xanh.
Nhớ lại chỉ có chiếc gối du tiên,
Còn có thể nhắm mắt chia cùng người nửa giấc ngủ.

Bản dịch của Quách Tấn

Mây mưa tan tác đời xuân,
Tô hồng điểm lục thêm phần mỉa mai.
Hoa tàn gương những biếng soi,
Hồ sen trăng rạng nhớ thời bẻ hương.
Trẻ trung thẹn bóng nhà vàng,
Lầu xanh trước cũng chung hàng thuyền quyên.
Nhớ ra còn gối du tiên,
Ru đôi mắt ngủ triền miên giấc nồng.
 

Khúc Ngâm Kỹ Nữ Già


Mưa dập mây vùi hại tuổi xanh
Trang hồng điểm lục chẳng nên xinh
Hoa rơi đình viện lười soi kính
Trăng sáng ao hồ nhớ hái sen
Nhà ngọc thẹn cùng thân yểu điệu
Lầu xanh uổng phí cựu thuyền quyên
Tỉnh ra chỉ có du tiên gối
Nhắm mắt chia anh nửa giấc tình

Lộc Bắc

Juil21

Bản dịch của Nguyễn Hữu Thăng

Mây ám mưa vùi tuổi thiếu niên
Tô xanh điểm đỏ, chẳng xinh thêm
Hoa rơi trước cửa, quên soi mặt
Trăng sáng trên ao, nhớ hái sen
Kim ốc thẹn so người xuân sắc
Thanh lâu tiếc nuối thuở thuyền quyên
Chỉ còn chiếc gối du tiên ấy
Nhắm mắt quên đi nỗi tủi phiền

 

Chiêu Quân Xuất Tái 昭君出塞 • Chiêu Quân qua ải
Thơ "Việt Nam" Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn"Thái Thuận" Lữ Đường di cảo thi tập

昭君出塞 


南來程盡北來程,
南北那堪悵別情。
萬里漢天花有淚,
百年胡地馬無聲。
一團羅綺傷春老,
幾曲琵琶素月明。
分付君王安枕席
愁城一片是長城。
 

Chiêu Quân Xuất Tái


Nam lai trình tận Bắc lai trình,
Nam Bắc na kham trướng biệt tình.
Vạn lý Hán thiên hoa hữu lệ,
Bách niên Hồ địa mã vô thanh.
Nhất đoàn la ỷ thương xuân lão,
Kỷ khúc tỳ bà tố nguyệt minh.
Phân phó quân vương an chẩm tịch,
Sầu thành nhất phiến thị trường thành.

Dịch nghĩa

Con đường từ Nam lại đã dứt, con đường ra Bắc thẳng dong
Nam Bắc không kham nổi nỗi buồn ly biệt
Trời Hán muôn dặm hoa có nước mắt
Đất Hồ trăm năm tiếng ngựa không hí
Một đoàn gấm vóc xót thương cho cảnh già cỗi của tuổi xuân
Mấy khúc đàn tỳ bà kêu than cùng ánh trăng sáng
Nhắn nhủ nhà vua ngủ yên trên gối
Một mảnh thành sầu đó là bức thành dài ngăn giặc

Bản dịch của Quách Tấn


Bắc trình dõi bước dứt Nam trình
Nam Bắc đường chia mối thảm đoanh
Trời Hán tuôn dòng hoa khóc tủi
Đất Hồ im tiếng ngựa reo binh
Áo cài xuân muộn bơ phờ dáng
Đàn gảy trăng khuya não nuột tình
Nhắn nhủ cung rồng yên giấc ngự
Sầu thành một bức vững trường thành

Chiêu Quân Qua Ải


Phía Nam đường đứt Bắc đường lành
Nam Bắc không kham nổi dứt tình
Vạn dặm Hán quê đầy nước mắt
Trăm năm Hồ cõi ngựa làm thinh
Một đoàn áo gấm đau xuân cỗi
Vài khúc tỳ bà não nguyệt xinh
Nhắn nhủ quân vương yên giấc ngủ
Thành sầu một tấm ấy trường thành!

Lôc Bắc
Juil21

Bản dịch của Nguyễn Hữu Thăng

Hết Nam lên Bắc bấy xa xăm
Ly biệt khổ đau dạ khó cầm
Trời Hán lệ hoa tuôn vạn dặm
Đất Hồ ngựa chiến lặng trăm năm
Đầy thân gấm vóc thương xuân héo
Mấy khúc đàn dây khóc chị Hằng
Nhắn nhủ quân vương yên giấc ngủ
Sầu thành thay cả chiến thành chăng

 

 Hạng Vũ biệt Ngu Cơ 項羽別虞 • Hạng Vũ từ biệt Ngu Cơ

Thơ "Việt Nam" Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn "Thái Thuận" Lữ Đường di cảo thi tập

項羽別虞 


慘淡秋風鼓角悲,
可憐今夜別蛾眉。
拔山力盡天忘我,
百戰關河付與誰?

Hạng Vũ Biệt Ngu Cơ


Thảm đạm thu phong cổ giốc bi,
Khả liên kim dạ biệt nga mi.
Bạt sơn lực tận thiên vong ngã,
Bách chiến quan hà phó dữ thuỳ.

Dịch nghĩa

Gió thu thảm đạm, tiếng trống, tiếng tù và buồn thương
Dáng thương đêm nay từ biệt mày ngài
Sức nhổ núi đã hết, “trời diệt vong ta”
Quan hà trăm trận đánh, (nay) lọt vào tay ai?

Bản dịch của Bùi Duy Tân, Đào Phương Bình

Còi trống trời thu gió thảm bay
Đêm nay từ biệt khách mày ngài
Nhổ non sức cạn, trời làm hại
Bách chiến quan hà phó mặc ai!

 

Hạng Võ Biệt NguCơ

Tù, trống hơi thu ảm đạm thay
Thương thay tối đến biệt mày ngài
Bạt non sức cạn trời quên mỗ
Trăm trận biên thùy phó thác ai?


Lộc Bắc
Juil21

Bản dịch của Ngô Văn Phú
Thu tàn, rầu rĩ trống, tù và,
Từ biệt mày ngài, đêm xót xa.
Kiệt sức nhổ non, trời đã hại,
Trao ai thân bách chiến quan hà.

 

Tử Quy Chi Thượng Nguyệt Tam Canh 子規枝上月三更 • Đầu cành quyên gọi nguyệt canh ba
Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Thái Thuận » Lữ Đường di cảo thi tập

子規枝上月三更 


碧天如水夜漫漫,
杜宇聲中月色瀾。
燈暗幾家人正寂,
酒醒孤館客初寒。
關河往事傷心易,
故國多情入夢難。
此外若非歌舞席,
阿誰倚得玉欄杆。

Tử Quy Chi Thượng Nguyệt Tam Canh

Bích thiên như thuỷ dạ man man,
Đỗ Vũ thanh trung nguyệt sắc lan.
Đăng ám kỷ gia nhân chính tịch,
Tửu tinh cô quán khách sơ hàn.
Quan hà vãng sự thương tâm dị,
Cố quốc đa tình nhập mộng nan.
Thử ngoại nhược phi ca vũ tịch,
A thuỳ ỷ đắc ngọc lan can.

 

Dịch nghĩa

Trời biếc trông như nước, đêm mờ không rõ ràng,
Bóng trăng dờn dợn, anh ánh trong tiếng cuốc.
Mấy nhà đèn tối, mọi người đều im lặng,
Quán lẻ, khách tỉnh rượu, bắt đầu thấy lành lạnh.
Chuyện cũ ly biệt, dễ làm người ta đau lòng,
Nặng tình với cố quốc, nhưng khó nhập vào trong mộng.
Ngoài ra, nếu không phải là người trong chiếu múa hát,
Thì ai được tựa nơi lan can vàng ngọc.

Bản dịch của Quách Tấn


Đêm ngời ngời nước trời lẫn sắc,
Lồng trăng khuya dài dặc tiếng quyên.
Đèn tàn, hàng xóm ngủ yên,
Quán côi tỉnh rượu thân riêng lạnh lùng.
Tình mây nước não nùng chuyện cũ,
Mộng non sông ấp ủ khôn thành.
Chẳng người ca múa đêm thanh,
Lan can tựa bóng đơn tình là ai ?!
 

Đầu Cành Quyên Gọi Nguyệt Canh Ba


Trời xanh như nước tối miên man
Tiếng quốc kêu buồn trăng sóng loang
Đèn tắt bao nhà người ngủ kỹ
Quán cô tỉnh rượu khách cơ hàn
Chia ly chuyện cũ đau lòng dễ
Nước cũ nặng tình mộng khó khăn
Chưa kể, chiếu ngoài phường múa hát
Ai người được dựa ngọc lan can!?


Lộc Bắc

Juil21

Bản dịch của Nguyễn Hữu Thăng

Trời đêm như nước biếc mênh mang
Tiếng cuốc trong trăng ngợp ánh vàng
Đèn tắt, mấy nhà người tĩnh lặng
Rượu nguôi, một quán khách đa mang
Quan hà chuyện cũ lòng thêm nẫu
Cố quốc tình xưa mộng khó sang
Ngoài kẻ chiếu đêm say múa hát
Còn ai tựa nổi ngọc lan can?

 

Thu dạ 秋夜 • Đêm thu

Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Thái Thuận » Lữ Đường di cảo thi tập

秋夜 


碧天如水露花零,
桐葉無聲落滿庭。
望斷鵲橋人獨坐,
一般詩思到繁星。

Thu Dạ


Bích thiên như thuỷ lộ hoa linh,
Đồng diệp vô thanh lạc mãn đình.
Vọng đoạn Thước kiều nhân độc toạ,
Nhất ban thi tứ đáo phồn tinh.

 

Dịch nghĩa

Trời xanh như nước hoa sương héo
Lá ngô đồng, không gió, rụng đầy sân
Cầu Ô Thước trông đứt mắt, người ngồi một mình
Một ban thi tứ đến nơi sao tụ hợp đông đúc (tức sông Ngân Hà)

Bản dịch của Quách Tấn


Trời xanh như nước rụng hoa sương
Không gió sân ngô lá ngập vàng
Vút mắt cầu Ô người tựa bóng
Tứ thơ dồn dập bến Ngân giang
 

Đêm Thu

Trời xanh như nước, móc hoa rơi
Lặng lẽ ngô đồng rụng khắp nơi
Mút mắt cầu Ô ngồi lẻ bóng
Một ban thi tứ đến đông vui

Lộc Băc

Aug21

Bản dịch của Bùi Duy Tân, Đào Phương Bình

Trời xanh như nước móc sương gieo
Im gió sân ngô lá rụng nhiều
Mỏi mắt cầu Ô người một bóng
Hồn thơ cao vút đến chòm sao

 

Vọng Bạch Vân 望白雲 • Trông mây trắng

Thơ " Việt Nam" Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn "Thái Thuận" Lữ Đường di cảo thi tập

望白雲 


悠悠親舍白雲飛,
回首天涯動所思。
千里家山雙眼斷,
百年母子一心悲。
沾襟自信鮫珠落,
戲彩誰娛鶴髮垂。
忠好古來難兩立,
此懷分付彼蒼知。

Vọng Bạch Vân


Du du thân xá bạch vân phi,
Hồi thủ thiên nhai động sở tư.
Thiên lý gia san song nhãn đoạn,
Bách niên mẫu tử nhất tâm bi.
Triêm khâm tự tín giao châu lạc,
Hí thái thuỳ ngu hạc phát thuỳ.
Trung hiếu cổ lai nan lưỡng lập,
Thử hoài phân phó bỉ thương tri.

 

Dịch nghĩa

Cuồn cuộn mây trắng bay nơi nhà của cha mẹ,
Ở nơi chân trời nghoảnh lại, động lòng nhớ nhung.
Quê hương xa nghìn dặm không nhìn thấy được,
Tình mẹ con suốt trăm năm nặng lòng thương xót.
Vẫn tin là nước mắt của Giao nhân thấm ướt áo biến thành châu ngọc,
Ai là người mặc áo năm sắc, làm cho người tuổi hạc được vui vẻ,
Từ xưa đến nay, bề trung hiếu khó vẹn cả hai,
Tấm lòng này xin phó thác cho Trời xanh biết vậy.

Bản dịch của Quách Tấn

Bời bời... giăng trắng bóng mây,
Ven trời phút động niềm tây... não nùng.
Dặm quê mắt nghẹn muôn trùng,
Tình con nghĩa mẹ một lòng thương đau.
Sụt sùi chờ lệ kết châu,
Tóc hoa ai kẻ múa màu áo xuân?
Hiếu trung phần khó vẹn phần,
Xét soi tấc cỏ đền ân cao dầy.
 

Nhìn Mây Trắng

Mây trắng mịt mù chốn mẹ cha
Cuối trời trông ngóng buốt lòng ta
Non nhà vạn dặm nhòa đôi mắt
Con-mẹ trăm năm dạ xót xa
Những tưởng đầy khăn toàn ngọc quý
Ai vui áo đẹp bạc đầu hoa
Hiếu trung kim cổ gian nan gặp
Phó thác trời cao hiểu chút là!

Lộc Bắc
Aug21

Bản dịch của Hà Như


Dưới đám mây kia đấy mẹ cha
Chân trời ngoảnh lại chợt thương nhà.
Quê hương ngàn dặm trong mù mịt,
Thân phận trăm năm chỉ nhạt nhòa.
Giao nhân nhỏ lệ mi tràn ngọc,
Lai lão mua cười áo đậm hoa.
Trung hiếu xưa nay thường khó vẹn,
Tấm lòng xin phó chốn vời xa.

Bản dịch của Nguyễn Hữu Thăng


Mái nhà cha mẹ trập trùng mây
Tít tắp trời xa nỗi nhớ đầy
Ngàn dặm quê cha mòn mỏi quá
Trăm năm tình mẹ xót thương thay
Lệ giao hoá ngọc rơi đầm áo
Mái hạc còn ai múa giải khuây
Trung hiếu xưa nay thường khó vẹn
Trời xanh có thấu tấm lòng này

 


Vọng Bạch Vân - Điển tích

1- Địch Nhân Kiệt, người đời Đường, đi đánh giặc xa nhà, lúc trên núi Thái Hàng 太 行 trông đám mây trắng ở xa, nói với quân sĩ: 吾 親 舍 於 其 下 : Ngô thân xá ư kỳ hạ (Cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng kia).

2- Lý Bạch có câu: 戍客望邊色, 思歸多苦顏 Thú khách vọng biên sắc, Tư quy đa khổ nhan (Người lính thú ngắm cảnh sắc biên thùy, Lòng nhớ nhà, mặt mày xiết bao ủ rũ) Quan sơn nguyệt – Thơ Đường NXB Văn Học

3- Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn) sau này có câu:

登 高 望 雲 色, 安 得 不 生 愁
Đăng cao vọng vân sắc, An đắc bất sinh sầu
Lúc lên cao nhìn sắc mây, Làm sao mà chẳng sinh sầu.

Diễn Nôm

Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương

Lộc Bắc Biên Soạn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét