Thái Thuận 蔡順
Thơ "Việt Nam" Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
(Tự: Nghĩa Hòa; hiệu: Lục Khê; biệt hiệu:
Lã Đường; 1441 - ?), nhà thơ Việt Nam. Quê: huyện Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc,
nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Xuất thân thường dân, từng làm lính
dạy voi, sau về đi học. Đỗ Tiến sĩ đời Lê Thánh Tông. Làm quan ở Viện Hàn lâm,
sau kiêm tham chính sứ Hải Dương. Văn chương nổi một thời, được Lê Thánh Tông
cho làm Tao đàn sái phu. Ông có hàng nghìn bài thơ nhưng tản mát, không thành tập.
Sau khi ông mất, con và học trò sưu tập, làm tựa, hoàn thành vào năm Hồng Thuận
thứ 10 (1510) đời Lê Tương Dực, lấy tên "Lã Đường di cảo", còn khoảng
vài trăm bài, được dư luận đương thời và thời sau coi là tập thơ xuất sắc. Lê
Thánh Tông khen Thái Thuận là thi sĩ "luôn luôn nổi tiếng ở trường
thơ". Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Ngô Thì Nhậm, Bùi Huy Bích... khi đọc thơ
Thái Thuận", đều xưng tụng là: "nhà thơ có khuôn thước, phong
cách", "thanh nhã, dồi dào", "sau tập thơ "Giới
Hiên" của Nguyễn Trung Ngạn, ít khi có thể văn ấy". Quả thực, thơ Thái
Thuận có phong cách độc đáo, ít khi rơi vào khuôn sáo, thù tạc như thơ ca của
nhiều tác giả cùng thời, nhất là những tác giả cung đình. Thơ ông ít có những
nét bút hoành tráng, khí phách, tình cảm mạnh mẽ, sắc màu thắm rực như thơ Nguyễn
Trãi, cũng ít có giọng khoa trương, tự đắc thường thấy trong thơ Lê Thánh Tông.
Thơ ông thanh thoát, bình dị, không màu mè, hoa mĩ, tứ thơ mới mẻ, độc đáo,
phóng khoáng giàu chất hiện thực, đậm đà ý vị trữ tình.
Chinh phụ ngâm 征婦吟 • Khúc ngâm của người vợ có chồng đi
xa
Thơ "Việt Nam" Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn
"Thái Thuận" Lữ Đường di cảo thi tập
庭草成巢柳又絲, 征夫何日是歸期? 半簾殘月傷心夜, 一枕啼鵑落淚時。 塞北雲長孤雁影, 江南春盡老蛾眉。 昨來幾度相思夢, 曾到君邊知不知?
|
Chinh Phụ Ngâm Đình thảo thành sào liễu hựu ty, Chinh phu hà nhật thị quy kỳ? Bán liêm tàn nguyệt thương tâm dạ, Nhất chẩm đề quyên lạc lệ thì. Tái bắc vân trường cô nhạn ảnh, Giang nam xuân tận lão nga my. Tạc lai kỷ độ tương tư mộng, Tằng đáo quân biên tri bất tri?
|
Dịch nghĩa:
Đám cỏ ngoài sân đã thành khóm, chồi liễu lại
một lần buông tơ, Không biết ngày nào người chinh phu trở về. Soi qua nửa bức rèm, thấy mảnh trăng tàn mà
thương tâm, Vọng lại bên gối nằm, nghe tiếng quyên kêu mà
rơi lệ. Ải Bắc mây phủ đầy, con chim nhạn lẻ loi chiếc
bóng, Sông Nam xuân đã qua, nét mày ngài một
ngày một già đi. Đêm qua mấy lần có những giấc mộng tương tư, Thường mơ đến bên chàng, chàng có hay chăng?
Quách Tấn trong Hương vườn cũ dẫn rằng sách Nữ
thi hào Việt Nam
của Phạm Xuân Độ chép tác giả bài này là Sương Nguyệt Anh. Ông Nguyễn Đình
Chiêm, em trai của Sương Nguyệt Anh cũng dịch bài thơ này ra quốc âm. Tuy
nhiên bài thơ này là của Thái Thuận.
|
Bản dịch của Quách Tấn Cỏ đã vun sân liễu lại chồi Người ra chiến địa thuở nào lui? Nửa rèm trăng xế đêm quằn quại Đầy gối quyên kêu lệ sụt sùi Xuân lụn trời Nam mày thuý nhạt Mây vần ải bắc bóng nhàn côi Tương tư! Biết chẳng? Hồn theo mộng Tìm đến bên nhau mấy độ rồi!
|
Khúc Ngâm Vợ Lính Cỏ đã đầy sân liễu phát hoa Hạn kỳ lính thú ghé thăm nhà? Nửa rèm trăng xế đêm thương nhớ Một gối quyên kêu lệ ướt nhòa Ải Bắc mây dài chim lẻ bạn Giang Nam xuân hết nét mày sa Đêm rồi mấy bận mơ thương nhớ Chàng biết, bao lần, thiếp ghé qua?
Lộc Bắc Juil21
|
Bản dịch
của Điệp Luyến Hoa
Cỏ lại kết
vun, liễu lại tơ, Chinh phu
bao thuở mới quay về. Nửa rèm
trăng khuyết lòng sầu tủi, Một gối
quyên kêu lệ tái tê. Ải bắc
mây giăng mờ bóng nhạn, Dòng nam
xuân hết lạnh bờ my. Tương tư
mấy độ hồn theo mộng, Tìm đến
bên chàng có những khi.
|
|
Cấm
trung thu dạ 禁中秋夜 • Đêm thu
nơi cung cấm
Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc,
Trịnh-Nguyễn » Thái Thuận » Lữ Đường di cảo thi tập
禁中秋夜 井梧宮葉共蕭騷, 坐覺浮涼到翠袍。 欖繞西風簾影動, 城臨北斗鼓聲高。 三生香火驚殘夢, 半世光陰感二毛。 燈下淵明詩懶讀, 故鄉歸思正滔滔。
|
Cấm
Trung Thu Dạ Tỉnh ngô
cung diệp cộng tiêu tao, Toạ giác
phù lương đáo thuý bào. Lãm nhiễu
tây phong liêm ảnh động, Thành lâm
bắc đẩu cổ thanh cao. Tam sinh
hương hoả kinh tàn mộng, Bán thế
quang âm cảm nhị mao. Đăng hạ
Uyên Minh thi lãn độc, Cố hương
quy tứ chính thao thao.
|
Dịch
nghĩa
Lá cây
ngô đồng bên giếng trong cung đều buồn bã như nhau, Ngồi đây
cũng biết khí lạnh bên ngoài áo choàng màu thuý. Câu lơn
chạm đeo gió tây, bóng rèm lay động, Thanh cao
ngang sao Bắc đẩu, tiếng trống lên cao. Hương lửa
ba sinh kinh giấc mộng tàn, Nửa đời
quang âm cảm thương mái đầu hai thứ tóc. Dưới đèn
đọc phiếm thơ Uyên Minh, Lòng muốn
về quê cuồn cuộn tuôn chảy.
|
Bản dịch
của Quách Tấn Lá cung rụng
tiếng ngô đồng, Phòng
tiêu nghe đã lạnh lùng áo xiêm. Gió tây
đoanh lộn bóng rèm, Thành
vươn Bắc đẩu vươn thêm trống thành. Mộng tàn
hương lửa ba sanh, Quang âm
nửa gối, trắng xanh mái đời. Thơ Đào lửng
ngọn đèn côi, Tấm lòng
cố lý sụt sùi khôn ngăn.
|
Cung Cấm Đêm Thu Ngô đồng
giếng ngọc thảy u sầu Ngồi biết
lạnh lùng thấm áo sâu Trám vướng
gió tây rèm lắc động Thành kề
Bắc Đẩu trống thanh cao Ba sinh hương
lửa buồn tàn mộng Nửa kiếp thời
gian xót mái đầu Đèn thắp Uyên
Minh thơ phú đọc Tấm lòng
cố lý thấy nao nao!
Lộc Bắc
Juil21
|
Bản dịch
của Nguyễn Hữu Thăng
Trong
cung lá úa lẫn ngô đồng Ngồi thấy se se lạnh áo lông Gió bám bao lơn, rèm động bóng Thành kề sao đẩu, trống lừng không Nửa đời sớm tối thương đầu bạc Ba kiếp lửa hương tỉnh mộng hồng Thơ cũ Uyên Minh, đèn thắp đọc Quê hương thầm gọi xốn xang lòng
|
|
Lão Kỹ
Ngâm 老妓吟 • Khúc ngâm
của người kỹ nữ già
Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc,
Trịnh-Nguyễn » Thái Thuận » Lữ Đường di cảo thi tập
老妓吟 雨態雲晴損少年, 紅粧翠抹不成妍。 落花庭院慵開鏡, 明月池塘憶採蓮。 金屋卻慚新窈窕, 青樓枉信舊嬋娟。 覺來惟有遊仙枕, 猶自分他一半眠。
|
Lão Kỹ Ngâm Vũ thái
vân tình tổn thiếu niên, Hồng
trang thuý mạt bất thành nghiên. Lạc hoa
đình viện thung khai cảnh, Minh nguyệt
trì đường ức thái liên. Kim ốc khước
tàm tân yểu điệu, Thanh lâu
uổng tín cựu thuyền quyên. Giác lai duy hữu du tiên chẩm, Do mục
phân tha nhất bán miên.
|
Dịch
nghĩa
Thói mưa,
tình mây làm tổn hại đến tuổi thiếu niên, Tranh hồng
điểm thuý cũng không làm cho đẹp được nữa. Nơi đình
viện thấy hoa rụng làm biếng mở gương soi, Trên ao hồ
nhìn trăng sáng chạnh nhớ lúc hái sen. Những thẹn
cùng người yểu điệu chốn nhà vàng, Luống tin
rằng mình trước kia là hạng thuyền quyên nơi lầu xanh. Nhớ lại
chỉ có chiếc gối du tiên, Còn có thể
nhắm mắt chia cùng người nửa giấc ngủ.
|
Bản dịch
của Quách Tấn
Mây mưa
tan tác đời xuân, Tô hồng
điểm lục thêm phần mỉa mai. Hoa tàn
gương những biếng soi, Hồ sen
trăng rạng nhớ thời bẻ hương. Trẻ trung
thẹn bóng nhà vàng, Lầu xanh trước
cũng chung hàng thuyền quyên. Nhớ ra còn gối du tiên, Ru đôi mắt ngủ triền miên giấc nồng.
|
Khúc Ngâm Kỹ Nữ Già Mưa dập mây vùi hại tuổi xanh Trang hồng điểm lục chẳng nên xinh Hoa rơi đình viện lười soi kính Trăng sáng ao hồ nhớ hái sen Nhà ngọc thẹn cùng thân yểu điệu Lầu xanh uổng phí cựu thuyền quyên Tỉnh ra chỉ có du tiên gối Nhắm mắt
chia anh nửa giấc tình
Lộc BắcJuil21
|
Bản dịch của Nguyễn Hữu Thăng
Mây ám mưa vùi tuổi thiếu niên Tô xanh điểm đỏ, chẳng xinh thêm Hoa rơi trước cửa, quên soi mặt Trăng sáng trên ao, nhớ hái sen Kim ốc thẹn so người xuân sắc Thanh lâu tiếc nuối thuở thuyền quyên Chỉ còn chiếc gối du tiên ấy Nhắm mắt quên đi nỗi tủi phiền
|
|
Chiêu Quân Xuất Tái 昭君出塞 • Chiêu Quân qua ải
Thơ "Việt Nam" Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn"Thái Thuận" Lữ Đường di cảo thi tập
昭君出塞
南來程盡北來程, 南北那堪悵別情。 萬里漢天花有淚, 百年胡地馬無聲。 一團羅綺傷春老, 幾曲琵琶素月明。 分付君王安枕席, 愁城一片是長城。
|
Chiêu
Quân Xuất Tái Nam lai trình tận Bắc lai trình, Nam Bắc
na kham trướng biệt tình. Vạn lý
Hán thiên hoa hữu lệ, Bách niên
Hồ địa mã vô thanh. Nhất đoàn
la ỷ thương xuân lão, Kỷ khúc tỳ
bà tố nguyệt minh. Phân phó
quân vương an chẩm tịch, Sầu thành
nhất phiến thị trường thành.
|
Dịch
nghĩa
Con đường
từ Nam
lại đã dứt, con đường ra Bắc thẳng dong Nam Bắc
không kham nổi nỗi buồn ly biệt Trời Hán
muôn dặm hoa có nước mắt Đất Hồ trăm
năm tiếng ngựa không hí Một đoàn
gấm vóc xót thương cho cảnh già cỗi của tuổi xuân Mấy khúc
đàn tỳ bà kêu than cùng ánh trăng sáng Nhắn nhủ
nhà vua ngủ yên trên gối Một mảnh
thành sầu đó là bức thành dài ngăn giặc
|
Bản dịch
của Quách Tấn Bắc trình
dõi bước dứt Nam
trình Nam Bắc
đường chia mối thảm đoanh Trời Hán
tuôn dòng hoa khóc tủi Đất Hồ im
tiếng ngựa reo binh Áo cài
xuân muộn bơ phờ dáng Đàn gảy
trăng khuya não nuột tình Nhắn nhủ
cung rồng yên giấc ngự Sầu thành
một bức vững trường thành
|
Chiêu Quân Qua Ải Phía Nam đường đứt
Bắc đường lành Nam Bắc
không kham nổi dứt tình Vạn dặm Hán
quê đầy nước mắt Trăm năm Hồ
cõi ngựa làm thinh Một đoàn áo
gấm đau xuân cỗi Vài khúc
tỳ bà não nguyệt xinh Nhắn nhủ
quân vương yên giấc ngủ Thành sầu
một tấm ấy trường thành!
Lôc Bắc Juil21
|
Bản dịch
của Nguyễn Hữu Thăng
Hết Nam lên Bắc bấy
xa xăm Ly biệt
khổ đau dạ khó cầm Trời Hán
lệ hoa tuôn vạn dặm Đất Hồ ngựa
chiến lặng trăm năm Đầy thân
gấm vóc thương xuân héo Mấy khúc
đàn dây khóc chị Hằng Nhắn nhủ
quân vương yên giấc ngủ Sầu thành
thay cả chiến thành chăng
|
|
Hạng Vũ
biệt Ngu Cơ 項羽別虞姬 • Hạng Vũ từ biệt Ngu Cơ
Thơ "Việt Nam" Hậu Lê, Mạc,
Trịnh-Nguyễn "Thái Thuận" Lữ Đường di cảo thi tập
項羽別虞姬
慘淡秋風鼓角悲, 可憐今夜別蛾眉。 拔山力盡天忘我, 百戰關河付與誰?
|
Hạng
Vũ Biệt Ngu Cơ Thảm đạm
thu phong cổ giốc bi, Khả liên
kim dạ biệt nga mi. Bạt sơn lực
tận thiên vong ngã, Bách chiến
quan hà phó dữ thuỳ.
|
Dịch
nghĩa
Gió thu
thảm đạm, tiếng trống, tiếng tù và buồn thương Dáng
thương đêm nay từ biệt mày ngài Sức nhổ
núi đã hết, “trời diệt vong ta” Quan hà
trăm trận đánh, (nay) lọt vào tay ai?
|
Bản dịch
của Bùi Duy Tân, Đào Phương Bình
Còi trống
trời thu gió thảm bay Đêm nay từ
biệt khách mày ngài Nhổ non sức
cạn, trời làm hại Bách chiến
quan hà phó mặc ai!
|
Hạng Võ Biệt NguCơ
Tù, trống
hơi thu ảm đạm thay Thương thay
tối đến biệt mày ngài Bạt non sức cạn trời quên mỗ Trăm trận biên thùy phó thác ai? Lộc Bắc Juil21
|
Bản dịch
của Ngô Văn Phú Thu tàn,
rầu rĩ trống, tù và, Từ biệt
mày ngài, đêm xót xa. Kiệt sức
nhổ non, trời đã hại, Trao ai
thân bách chiến quan hà.
|
|
Tử Quy Chi Thượng Nguyệt Tam Canh 子規枝上月三更 • Đầu cành quyên gọi nguyệt canh ba
Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc,
Trịnh-Nguyễn » Thái Thuận » Lữ Đường di cảo thi tập
子規枝上月三更 碧天如水夜漫漫, 杜宇聲中月色瀾。 燈暗幾家人正寂, 酒醒孤館客初寒。 關河往事傷心易, 故國多情入夢難。 此外若非歌舞席, 阿誰倚得玉欄杆。
|
Tử Quy Chi Thượng Nguyệt Tam Canh
Bích
thiên như thuỷ dạ man man, Đỗ Vũ
thanh trung nguyệt sắc lan. Đăng ám kỷ
gia nhân chính tịch, Tửu tinh
cô quán khách sơ hàn. Quan hà
vãng sự thương tâm dị, Cố quốc
đa tình nhập mộng nan. Thử ngoại
nhược phi ca vũ tịch, A thuỳ ỷ
đắc ngọc lan can.
|
Dịch
nghĩa
Trời biếc
trông như nước, đêm mờ không rõ ràng, Bóng
trăng dờn dợn, anh ánh trong tiếng cuốc. Mấy nhà
đèn tối, mọi người đều im lặng, Quán lẻ,
khách tỉnh rượu, bắt đầu thấy lành lạnh. Chuyện cũ
ly biệt, dễ làm người ta đau lòng, Nặng tình
với cố quốc, nhưng khó nhập vào trong mộng. Ngoài ra,
nếu không phải là người trong chiếu múa hát, Thì ai được
tựa nơi lan can vàng ngọc.
|
Bản dịch
của Quách Tấn Đêm ngời
ngời nước trời lẫn sắc, Lồng
trăng khuya dài dặc tiếng quyên. Đèn tàn,
hàng xóm ngủ yên, Quán côi
tỉnh rượu thân riêng lạnh lùng. Tình mây
nước não nùng chuyện cũ, Mộng non
sông ấp ủ khôn thành. Chẳng người
ca múa đêm thanh, Lan can tựa
bóng đơn tình là ai ?!
|
Đầu Cành Quyên Gọi Nguyệt Canh Ba Trời xanh
như nước tối miên man Tiếng quốc
kêu buồn trăng sóng loang Đèn tắt bao
nhà người ngủ kỹ Quán cô tỉnh
rượu khách cơ hàn Chia ly
chuyện cũ đau lòng dễ Nước cũ nặng
tình mộng khó khăn Chưa kể, chiếu
ngoài phường múa hát Ai người được
dựa ngọc lan can!?
Lộc Bắc
Juil21
|
Bản dịch
của Nguyễn Hữu Thăng
Trời đêm
như nước biếc mênh mang Tiếng cuốc
trong trăng ngợp ánh vàng Đèn tắt,
mấy nhà người tĩnh lặng Rượu
nguôi, một quán khách đa mang Quan hà
chuyện cũ lòng thêm nẫu Cố quốc
tình xưa mộng khó sang Ngoài kẻ
chiếu đêm say múa hát Còn ai tựa
nổi ngọc lan can?
|
|
Thu dạ 秋夜 • Đêm thu
Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc,
Trịnh-Nguyễn » Thái Thuận » Lữ Đường di cảo thi tập
秋夜 碧天如水露花零, 桐葉無聲落滿庭。 望斷鵲橋人獨坐, 一般詩思到繁星。
|
Thu Dạ Bích
thiên như thuỷ lộ hoa linh, Đồng diệp
vô thanh lạc mãn đình. Vọng đoạn
Thước kiều nhân độc toạ, Nhất ban
thi tứ đáo phồn tinh.
|
Dịch
nghĩa
Trời xanh
như nước hoa sương héo Lá ngô đồng,
không gió, rụng đầy sân Cầu Ô Thước
trông đứt mắt, người ngồi một mình Một ban
thi tứ đến nơi sao tụ hợp đông đúc (tức sông Ngân Hà)
|
Bản dịch
của Quách Tấn Trời xanh
như nước rụng hoa sương Không gió
sân ngô lá ngập vàng Vút mắt cầu
Ô người tựa bóng Tứ thơ dồn
dập bến Ngân giang
|
Đêm ThuTrời xanh
như nước, móc hoa rơi Lặng lẽ ngô
đồng rụng khắp nơi Mút mắt cầu
Ô ngồi lẻ bóng Một ban thi
tứ đến đông vuiLộc Băc
Aug21
|
Bản dịch
của Bùi Duy Tân, Đào Phương Bình
Trời xanh
như nước móc sương gieo Im gió
sân ngô lá rụng nhiều Mỏi mắt cầu
Ô người một bóng Hồn thơ
cao vút đến chòm sao
|
|
Vọng Bạch Vân 望白雲 • Trông mây
trắng
Thơ " Việt Nam" Hậu Lê, Mạc,
Trịnh-Nguyễn "Thái Thuận" Lữ Đường di cảo thi tập
望白雲 悠悠親舍白雲飛, 回首天涯動所思。 千里家山雙眼斷, 百年母子一心悲。 沾襟自信鮫珠落, 戲彩誰娛鶴髮垂。 忠好古來難兩立, 此懷分付彼蒼知。
|
Vọng Bạch Vân Du du
thân xá bạch vân phi, Hồi thủ
thiên nhai động sở tư. Thiên lý
gia san song nhãn đoạn, Bách niên
mẫu tử nhất tâm bi. Triêm
khâm tự tín giao châu lạc, Hí thái
thuỳ ngu hạc phát thuỳ. Trung hiếu
cổ lai nan lưỡng lập, Thử hoài
phân phó bỉ thương tri.
|
Dịch
nghĩa
Cuồn cuộn
mây trắng bay nơi nhà của cha mẹ, Ở nơi
chân trời nghoảnh lại, động lòng nhớ nhung. Quê hương
xa nghìn dặm không nhìn thấy được, Tình mẹ
con suốt trăm năm nặng lòng thương xót. Vẫn tin
là nước mắt của Giao nhân thấm ướt áo biến thành châu ngọc, Ai là người
mặc áo năm sắc, làm cho người tuổi hạc được vui vẻ, Từ xưa đến
nay, bề trung hiếu khó vẹn cả hai, Tấm lòng
này xin phó thác cho Trời xanh biết vậy.
|
Bản dịch
của Quách Tấn Bời bời...
giăng trắng bóng mây, Ven trời
phút động niềm tây... não nùng. Dặm quê mắt
nghẹn muôn trùng, Tình con
nghĩa mẹ một lòng thương đau. Sụt sùi chờ
lệ kết châu, Tóc hoa
ai kẻ múa màu áo xuân? Hiếu
trung phần khó vẹn phần, Xét soi tấc
cỏ đền ân cao dầy.
|
Nhìn Mây Trắng Mây trắng
mịt mù chốn mẹ cha Cuối trời
trông ngóng buốt lòng ta Non nhà vạn
dặm nhòa đôi mắt Con-mẹ trăm
năm dạ xót xa Những tưởng
đầy khăn toàn ngọc quý Ai vui áo
đẹp bạc đầu hoa Hiếu
trung kim cổ gian nan gặp Phó thác
trời cao hiểu chút là!
Lộc Bắc Aug21
|
Bản dịch
của Hà Như Dưới đám
mây kia đấy mẹ cha Chân trời
ngoảnh lại chợt thương nhà. Quê hương
ngàn dặm trong mù mịt, Thân phận
trăm năm chỉ nhạt nhòa. Giao nhân
nhỏ lệ mi tràn ngọc, Lai lão
mua cười áo đậm hoa. Trung hiếu
xưa nay thường khó vẹn, Tấm lòng
xin phó chốn vời xa.
|
Bản dịch
của Nguyễn Hữu Thăng Mái nhà
cha mẹ trập trùng mây Tít tắp
trời xa nỗi nhớ đầy Ngàn dặm
quê cha mòn mỏi quá Trăm năm
tình mẹ xót thương thay Lệ giao
hoá ngọc rơi đầm áo Mái hạc
còn ai múa giải khuây Trung hiếu
xưa nay thường khó vẹn Trời xanh
có thấu tấm lòng này
|
Vọng Bạch Vân - Điển tích
1- Địch Nhân Kiệt, người đời Đường, đi đánh giặc xa nhà, lúc trên núi Thái Hàng 太 行 trông đám mây trắng ở xa, nói với quân sĩ: 吾 親 舍 於 其 下 : Ngô thân xá ư kỳ hạ (Cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng kia).
2- Lý Bạch có câu: 戍客望邊色, 思歸多苦顏 Thú khách vọng biên sắc, Tư quy đa khổ nhan (Người lính thú ngắm cảnh sắc biên thùy, Lòng nhớ nhà, mặt mày xiết bao ủ rũ) Quan sơn nguyệt – Thơ Đường NXB Văn Học
3- Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn) sau này có câu:
登 高 望 雲 色, 安 得 不 生 愁
Đăng cao vọng vân sắc, An đắc bất sinh sầu
Lúc lên cao nhìn sắc mây, Làm sao mà chẳng sinh sầu.
Diễn Nôm
Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương
Lộc Bắc Biên Soạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét