Bạch Cư Dị 白居易 (772-846) tự Lạc Thiên 樂天, hiệu Hương Sơn cư sĩ 香山居士 và Tuý ngâm tiên sinh 醉吟先生, người Hạ Khê (nay thuộc Thiểm Tây). Ông là thi nhân tiêu biểu nhất giai đoạn cuối đời Đường, là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Ông xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ, nhà nghèo nhưng rất thông minh, 9 tuổi đã hiểu âm vận, mười lăm tuổi đã bắt đầu làm thơ. Ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức. Ông thường nói: "Làm văn phải vì thời thế mà làm...
Làm thơ phải vì thực tại mà viết, mục đích của văn chương là phải diễn đạt tình cảm của nhân dân”. Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Họ Bạch chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được; tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự. Thơ ông rất trữ tình. Khi ông bị đi đày từ Tràng An đến Tây Giang, ba bốn ngàn dặm, dọc đường thấy trường học, chùa chiền, quán trọ, hồ sen… đều có đề thơ của mình. Con yêu tinh Trung Thu Nguyệt (Trăng Trung Thu) của Bạch Cư Dị nhìn đời qua kính râm màu đen. Trăng trung thu tưởng là đẹp lắm mà lại chiếu toàn những cảnh u sầu:
- Lính thú đồn trú lâu ngày tại gò bãi.
- Cảnh biệt ly ở sân đình.
- Cung nữ thất sủng trở về lãnh cung.
- Ông tướng già bại trận lên lầu nghỉ.
Bạch Cư Dị thả con yêu tinh này ra trong đêm Trung Thu cốt để cảm thương những người không thể vui trong đêm trăng sáng này.
Nguyên tác Dịch âm
中秋月 Trung Thu Nguyệt
萬里清光不可思 Vạn lý thanh quang bất khả ty,
添愁益恨繞天涯 Thiêm sầu ích hận nhiễu thiên nhai.
誰人隴外久徵戍 Thùy nhân lũng ngoại cửu chinh thú?
何處庭前新別離 Hà xứ đình tiền tân biệt ly?
失寵故姬歸院夜 Thất sủng cố cơ quy viện dạ.
沒蕃老將上樓時 Một phiên lão tướng thướng lâu thì.
照他幾許人腸斷 Chiếu tha kỷ hứa nhân trường đoạn.
玉兔銀蟾遠不知 Ngọc thố ngân thiềm viễn bất tri.
Dịch nghĩa
Trăng Trung Thu
Ánh sáng trải vạn dặm, trong trẻo không thể tưởng tượng.
Nỗi buồn chứa chan, nỗi giận chồng chất đầy trời.
Ngoài gò bãi, còn những ai đi lính lâu ngày?
Trước sân nơi nào đang là chốn ly biệt?
Đây là đêm nàng cung nữ thất sủng quay về viện.
Cũng là lúc ông tướng già thua trận mất đất leo lên lầu.
Ánh trăng soi làm cho họ xót xa đứt ruột.
Thỏ ngọc cóc bạc ở nơi tít mù có biết gì đâu!
Dịch thơ
Trăng Trung Thu
Vạn dặm trăng thanh bát ngát soi.
Nỗi niềm sầu hận chất đầy trời.
Ai người gò bãi lâu đồn trú?
Ai trước sân đình sắp rẽ đôi?
Thất sủng cung phi đêm về viện.
Sa cơ bại tướng thượng lầu chơi.
Ánh trăng chiếu sáng lòng đau quặn.
Ngọc thỏ Hằng nga tận cuối trời!
Lời bàn
Thoạt trông cái đầu đề "Trăng Trung Thu" tưởng vui. Đọc qua một lượt mới biết BCD không cống hiến trăng thanh cho trẻ con ngây thơ hoặc cho người lớn yêu đời. Ông tả một đêm trung thu buồn.
Tuy nhiên, bài thơ có cái độc đáo ở chỗ nó ngồi riêng một chiếu, cái chiếu dành cho kẻ yếm thế ngồi ngắm trăng trung thu. Mình không đòi hỏi bài thơ tả hết những khổ đau của thời thế bởi vì đầu đề của nó là trăng trung thu. Nhưng mình hiểu BCD thêm một tí. Trong khi hầu hết những bài thơ trung thu của các tác giả khác đều vui nhộn thì ông nghĩ đến những người không thể nào vui trong đêm trăng sáng này.
Con Cò
***
Trăng Trung Thu.
Sáng ngời vạn dậm khó ngờ thay,
Nỗi hận ngất trời chất ngập đầy.
Ai kẻ biên ngoài lâu giữ ải,
Nào nơi sân trước mới chia tay.
Phế phi thất sủng đêm về viện,
Lão tướng mất thành lúc thượng đài.
Bao cảnh trăng soi lòng đứt đoạn,
Cung xa Ngọc Thỏ có đâu hay.
Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Sept. 27/2025.
***
Đây là một bài thơ rất lạ của Bạch Cư Dị, ý thơ rất độc đáo: tựa là Trăng Trung Thu, nhưng cả bài thơ không tả về trăng, mà toàn nhắc tới những việc đau buồn dưới ánh trăng trong như ÔC đã viết.
Chữ cuối ở câu đầu là TƯ, phiên âm là TY để giữ vần với mấy câu dưới, nhưng lại không vần với chữ nhai ở câu 2.
Chữ đầu câu 2, ÔC phiên âm là THIÊN, chắc viết nhầm, đó là chữ THIÊM (đã sửa, tk), có nghĩa là thêm.
Ích là đầy đủ, tăng thêm, nghĩa giống chữ thiêm.
Cố là cũ, cố ý.
Cơ là vợ thứ hay một chức quan. Trong bài này chỉ cung nữ.
Một là chìm mất, hết, cuối cùng, mai một, mất tích.
Phiên là số đếm, lượt hay phiên, hoặc các tộc bên ngoài Trung Quốc, viết với bộ thảo. Trên diễn đàn có đăng bài “Một Phiên Cố Nhân “, người quen cũ mất tích ở đất phiên. Nếu hiểu như vậy thì câu 6, “một phiên lão tướng thướng lâu” thì có vẻ tối nghĩa, một phiên lão tướng mà giải thích theo Thi Viện là tướng già thua trận thì không ổn, mà giải thích là mất tích cũng không ổn, mất tích thì sao lên lầu được. Bạn nào giải thích giùm cho BS.
Kỷ là bao nhiêu, như kỷ hà.
Hứa là tin, nghe theo, hứa hẹn, đến..
Bạch Cư Dị chơi ác, dùng chữ ngân thiềm, ngân là bạc, tiếng Việt không có chữ nào vần bằng để dịch chữ bạc cả. BS dịch thoát thôi:
Trăng Trung Thu
Vạn dặm trăng trong chiếu khắp nơi,
Thêm sầu, tích hận tới chân trời,
Ai người ngoài cõi chinh chiến mãi,
Đình trước nơi nào tiễn biệt ai.
Bị bỏ, cung nhân đêm về viện,
Tướng già thua trận bước lên đài,
Trăng soi bao kẻ đau đứt ruột,
Thỏ ngọc cóc ngà xa chẳng hay.
Bát Sách.
(Ngày 02/10/2025)
***
Trăng Trung Thu
Trăng sáng lung linh ánh tuyệt vời
Buồn chồng chất ngất bay cao trời
Gò canh lính chiến nào lâu nhất?
Sân trước nơi nào tỏ biệt lời?
Cung nữ đêm nay về lại viện
Tướng già thất trận leo lầu ngồi
Ánh trăng sáng tỏ lòng đau xót
Thỏ ngọc cóc vàng vẫn thảnh thơi
Thanh Vân
***
Bài tả trăng trung thu nhưng chẳng có một chữ trăng (ngoại trừ tựa đề) nhưng người đọc đều hiểu đó là trăng. Trung thu thường vui, nhưng đây thật buồn!
Trung Thu Trăng
Vạn dặm sáng trong chẳng thể ngờ
Thêm sầu, chất hận khắp trời thơ
Ai lâu trấn thủ nơi chinh chiến
Kẻ mới lìa sân, chốn náu giờ?
Thất sủng cung tần về điện tối
Ải hưu lão tướng bước lầu mơ
Soi cho đứt ruột bao nhân thế
Thỏ, cóc tít mù có biết cho?
Lộc Bắc
***
Bài thơ Trung Thu Nguyệt 中秋月 có đăng trong sách của Bạch Cư Dị và sách các đời sau:
Bạch Hương San Thi Tập - Đường - Bạch Cư Dị 白香山诗集-唐-白居易
Bạch Thị Trường Khánh Tập - Đường - Bạch Cư Dị 白氏长庆集-唐-白居易
Tuế Thì Tạp Vịnh - Tống - Bồ Tích Trung 岁时杂咏-宋-蒲积中
Doanh Khuê Luật Tủy - Nguyên - Phương Hồi 瀛奎律髓-元-方回
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全 唐诗-清-圣祖玄烨
Ghi chú:
Trung Thu: chỉ tháng hai của mùa thu, chỉ ngày 15 tháng 8 của năm
Vạn lý: mười ngàn dặm, cực kỳ xa xôi
Bất khả tư: không thể nghĩ ra được, tin được
Nhiễu: đi vòng quanh, bao quanh
Thiên nhai: rìa bầu trời, nói chung là những nơi xa xôi
Lũng ngoại: bên ngoài dãy Lũng Sơn
Chinh thú: đi xa để bảo vệ biên giới. Vào thời cổ đại, các triều đại Trung Hoa thường chiến tranh với các dân tộc thiểu số ở phía tây bắc. Vượt qua dãy núi Lũng Sơn có nghĩa là phục vụ trong quân đội. Vì vậy, "lũng ngoại chinh thú" là một điều không được ưa thích.
Đình tiền: trong/trước sân.
Thất sủng cố cơ: một cung phi già đã bị mất đi sự ưu ái của hoàng đế
Quy viện dạ: cô đơn trở lại sân viện của mình vào ban đêm.
Một Phiên lão tướng: cựu binh tướng đã bị giữ chân ở ngoài biên giới. Chẳng hạn như Lý Lăng và nhiều người khác trong triều đại nhà Hán. Ánh trăng chiếu vào những người Phiên cũng như Hán, đặc biệt khơi dậy nhớ nhung về quê hương của những người ngoài biên giới.
Kỷ hứa: bao nhiêu, ít nhiều
Ngọc thố ngân thiềm: thỏ ngọc và cóc bạc chỉ mặt trăng, thêm vào một số các tên gọi khác như: hằng nga, cuội, cua,… Không hiểu vì sao cua lại là biểu tượng cho trăng Trung Thu? Có thể đó là lúc cua mập béo và ngon nhất.
Dịch nghĩa:
Trung thu nguyệt
Vạn lý thanh quang bất khả tư
Thiêm sầu ích hận nhiễu thiên nhai
Thùy nhân lũng ngoại cửu chinh thú
Hà xứ đình tiền tân biệt ly
Thất sủng cố cơ quy viện dạ
Một phiên lão tướng thướng lâu thì
Chiếu tha kỷ hứa nhân trường đoạn
Ngọc thố ngân thiềm viễn bất tri
Trăng Trung Thu
Trăng sáng trong suốt vạn dặm không kể xiết,
Thêm sầu thêm hận chất chồng đến tận chân trời.
Ai là người ở ngoài biên ải, đồn thú đã lâu ngày?
Những người mới chia tay nhau ở trước sân nay ở đâu?
Cung nữ không còn được vua yêu thích cô đơn trở về viện trong đêm,
Lão tướng giữ biên thành khi ấy bước lên lầu.
Trăng kia đã soi chiếu bao nhiêu cảnh đau lòng đứt ruột của con người,
Thỏ ngọc và cóc bạc trên cung trăng xa xôi kia có hay biết đâu?
Bối cảnh:
Bài thơ này được làm vào năm thứ 12 đời Đường Hiến Tông Lý Thuần (năm 817), khi Bạch Cư Dị bị giáng chức xuống làm Tư Mã Giang Châu, thể hiện cảm xúc thật của thi nhân. Đó là thời điểm thấp nhất trong cuộc đời của ông.
Bài thơ có tựa Trăng Trung Thu, nhưng chỉ nói đến trăng ở hai câu kết. Bài thơ giống như một bức tranh, vẽ phong cảnh xã hội, cuộc sống và trải nghiệm của con người thời nhà Đường, tạo cho ta suy nghĩ và xúc động.
Miêu tả vẻ đẹp của ánh trăng chiếu xuống khắp nơi trên địa cầu, thi nhân bày tỏ lòng khao khát và sự buồn bã của mình đối những người lính đã chiến đấu lâu dài ở biên giới. sự chia tay bất hạnh trong và ngoài triều đình.
Cuối cùng, nhà thơ mới đề cập đến mặt trăng, nói thỏ ngọc và cóc bạc ở xa nên không biết được cuộc sống vô thường và sự thống khổ của nhân loại.
Dịch thơ:
Trăng Trung Thu
Muôn dặm trăng trong sáng tuyệt vời
Sầu chan hận chứa khắp muôn nơi
Đồn xa đóng giữ kìa bao kẻ
Sân trước chia ly ấy mấy nơi.
Lão tướng lên lầu khi thất trận
Cung phi về viện lúc vua lơi
Soi cho đứt ruột bao người thế
Cóc thỏ mù xa há biết đời!
Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
Muôn dặm trăng soi sáng tuyệt vời
Sầu khơi thêm hận tận chân trời
Nào ai biên ải bao năm đóng
Đâu kẻ ra đi bước mới rời
Thất sủng cung tần chong bóng lẻ
Mất thành lão tướng vịn chòi coi
Trăng soi bao cõi lòng đau đớn
Ngọc thỏ vời xa có thấu đời?
Bản dịch của Đông A
Mid Autumn Moon by Bai Ju Yi
Seeing the radiant moonlight stretching across vast expanses, don't let your mind wander. If you let your imagination run wild, you will suddenly generate a flood of sorrow and resentment, a sorrow that will practically encompass the entire world.
Who guards the frontier for a long time beyond Longshan? Where are the people who revently bid good-bye in front yards
A rejected concubine lonely returns to her living quarter that night. An old general, retained in a foreign land, ascends a tower and gazes upon his homeland from afar.
The full moon shines upon countless souls filled with with utter sadness sorrow of parting. Jade Rabbit and Silver Toad (those who celebrate Mid-Autumn Festival) are too far away to know.
Phí Minh Tâm
***
Góp ý:
Bạch Cư Dị muốn nói gì trong bài thơ 中秋月=Trung thu nguyệt này?
Mặc dù tựa đề là trăng trung thu, hai từ độc nhất "tả" mặt trăng này là 清光=thanh quang tạo ấn tượng rằng trời không có mây hay mù sương; người đọc không biết chắc trăng này có thật sự tròn vành vạnh chăng nữa. Mỗi năm 12 tháng có 12 trăng tròn, trăng trung thu thì khác gì với trăng tròn những tháng hay mùa khác? Mùa thu trong cổ thi là mùa của sầu muộn, chia ly, tàn tạ nên ta có thể hiểu rằng thi vương - hay trích tiên? - họ Bạch đang cảm thấy buồn. Buồn vì nỗi gì? Bạch để lại trong đời một sưu tập thi văn khá đồ sộ với 2,000 bài thơ và người đời sau có những dữ kiện khá chính xác về đời sống và hoạn lộ của ông; nhưng ý kiến của các nhà nghiên cứu về sau tương phản với nhau trên phương diện tư tưởng và tâm tình của ông, một phần vì nhân sinh quan của chính họ; và hình như không ai biết, hay có thể biết ông "cảm hứng" bài Trung thu nguyệt này trong thời điểm nào. Cho dù không được sống mãi trong kinh đô, Bạch không lâm vào cảnh khốn khó, túng thiếu như nhiều quan lại lên voi xuống chó khác trong thời tàn Đường và được sống an nhàn từ sau tuổi 60 với các chức ngồi chơi xơi nước. Nhiều bài ông viết nói về chuyện dư lương bổng tiêu không hết ngay cả sau khi về hưu và chỉ còn lãnh được nửa mức lương của thời còn tại chức.
Trừ hai cụm từ 玉兔=ngọc thố (mà người Việt cũng biết, hay có huyền thoại tương đương) và 銀蟾=ngân thiềm, bài thơ không có điển tích nào khác (nếu câu 沒蕃老將=một phiên lão tướng không ám chỉ một tướng họ Lý thời Hán; Bạch chống việc triều đình tốn công của bình định các sắc tộc phiên di miền bắc). Hình chạm thỏ và cóc anh LB đăng phản ảnh sự kiện rằng người Tàu đã quên hay không hiểu điển tích con cóc mặt trăng vì trong huyền thoại, con cóc đó chỉ có ... 3 chân! (Tại sao lại chỉ có ba chân thì không thấy ai giải thích được.) Con cóc trên mặt trăng là một hình tượng cho cung điện trên đó, nhưng cung điện để cho ai ở thì cũng không thấy nói "biết" rõ. Vì sự tượng trưng cho cung điện xa vời này, con cóc bạc trên cung trăng là biểu tượng của sự thi đỗ trong văn hóa Hoa Lục ngày xưa.
Các huyền thoại cho tên của mặt trăng đến từ lối người trần nhìn những hình bóng lúc trăng tròn và người Tàu xưa có: 月輪=nguyệt luân, 月桂=nguyệt quế, 桂宮=quế cung, 桂月=quế nguyệt, 蟾光=thiềm quang, 玉蟾=ngọc thiềm, 銀蟾=ngân thiềm, 清蟾=thanh thiềm, 蟾宮=thiềm cung, 玉兔=ngọc thố, 金兔=kim thố, 素娥=tố nga, 姮娥=hằng nga, 銀盤=ngân bàn, 玉壺=ngọc hồ, 大螃蟹=đaị bàng giải, v.v...
Nếu quan ngũ phẩm họ Bạch dùng hình tượng con cóc để ám chỉ một bước quan trọng trong hoạn lộ của mình - thi đỗ tiến sĩ năm 28 tuổi, thì phải chăng những hình ảnh cho sự chia ly, thất bại, nhung nhớ và câu 添愁益恨=thiêm sầu ích hận cho ta thấy rằng họ Bạch không thực sự thỏa mãn với đời mình?
Huỳnh Kim Giám
--------------
@Bát Sách: Cám ơn anh Giám đã giải thích về tích Hằng Nga, Hậu Nghệ.
沒蕃老將= một Phiên lão tướng
@ Huỳnh Kim.Giám trả lời:
Từ 沒=một có hai nhóm nghĩa; nhóm thứ nhất có nghĩa chính là "không" và cách dùng từ này khác với từ 無=vô; nhóm thứ nhì có gốc Hán-Tạng và có các nghĩa chìm, biến mất, hết, v.v...
Hai nghĩa nằm trong rất nhiều thành ngữ và trong nhiều trường hợp ta chỉ có thể hiểu chúng nghĩa là gì
- chẳng hạn như cụm từ 沒收=một thu với nghĩa sung công - nếu thấy được ngữ cảnh. 'Một Phiên' có thể hiểu là (tướng thất sủng) bị (đi) sung công tới đất Phiên. Ta cũng cần nhớ rằng có vài thuyết bảo tổ tiên của họ Bạch là người phiên bang Hồ hay Quy Từ (龜兹, vùng đất nằm hướng bắc của lòng chảo Tarim).

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét