Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024

羌村其二 Khương Thôn Kỳ Nhị - Đỗ Phủ (Thịnh Đường)

 
 
Đỗ Phủ 杜甫 (712-770) tự Tử Mỹ 子美, hiệu Thảo Đường 草堂, Thiếu Lăng dã lão 少陵野老, người đời sau gọi là Đỗ Thiếu Lăng, Đỗ Lăng tẩu, Đỗ công bộ hay còn gọi là Lão Đỗ để phân biệt với Tiểu Đỗ là Đỗ Mục. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại lâu đời ở huyện Củng, nay thuộc tỉnh Hà Nam. Ông nội là Đỗ Thẩm Ngôn, một nhà thơ nổi tiếng thời Sơ Đường. Cha là Đỗ Nhàn, có làm quan.

Thời niên thiếu tính từ năm 712 khi ông mới chào đời cho đến năm 746 kết thúc đợt ngao du lần thứ ba, với khoảng thời gian 35 năm, Đỗ Phủ sống giữa thời kỳ phồn vinh của xã hội phong kiến thời Đường. Công việc chính của ông lúc này là làm thơ, ngao du sơn thuỷ. Với trí thông minh hơn người, Đỗ Phủ bắt đầu sáng tác thơ ca vào lúc bẩy tuổi. Thi tứ của ông phong phú và sâu sắc tùy theo tuổi tác.

Đỗ Phủ dùng 3 bài Xóm Khương để tả tình cảnh của ông sau khi được giặc An Lộc Sơn phóng thích. Lời thơ thắm thiết và cảm động. Bài 羌村其二 Khương Thôn Kỳ nhị tả những ngày vui xum họp ngắn ngủi và vội vã sau khi được giặc An Lộc Sơn phóng thích.

Nguyên bản  Dịch âm

羌村其二     Khương Thôn Kỳ nhị

晚歲迫偷生 Vãn tuế bách thâu sinh,
還家少歡趣 Hoàn gia thiểu hoan thú.
嬌兒不離膝 Kiều nhi bất ly tất,
畏我復卻去 Úy ngã phục khước khứ
憶昔好追涼 Ức tích hiếu truy lương,
故繞池邊樹 Cố nhiễu trì biên thụ.
蕭蕭北風勁 Tiêu tiêu bắc phong kình
撫事煎百慮 Phủ sự tiễn bách lự.
賴知禾黍收 Lại tri hoà thử thâu,
已覺糟床注 Dĩ giác tao sàng chú.
如今足斟酌 Như kim túc châm chước,
且用慰遲暮 Thả dung ủy trì mộ.

Chú giải

迫 bách: ép, đè.
偷 thâu: trộm cắp.
趣 thú: thú vị.
膝 tất: đầu gối. tất hạ: dưới gối.
卻 khước: từ khước.
追 truy: tìm trở lại cái đã qua.
涼 lương: mát, hóng gió.
故 cố: việc.
cớ: vì vậy.
繞 nhiễu: quấn vòng quanh.
蕭蕭 tiêu tiêu: gió thổi vù vù.
勁 kình: cứng mạnh (kình địch).
撫 phủ: an ủi.
煎 tiễn: nấu.
慮 lự: lo nghĩ.
賴 lại: nhờ cậy.
禾黍 hoà, thử: lúa.
收 thâu: thu hoạch.
糟 tao: bã rượu.
床 sàng: cái giường.
注 chú: chú ý, ghi chép.
斟酌 châm chước: Rót chén rượu qua là châm, rót lại là chước...Việt hóa thành: thêm bớt cho đúng.
用 dung: dùng.
慰 úy: an ủi.
遲 trì: chậm.

Dịch thơ

Xóm Khương kỳ nhì

Người già thường vội vã,
Về nhà chưa vui vầy.
Trẻ thơ tới quấn quýt,
Sợ về lại đi ngay.
Nhớ xưa ưa hóng mát,
Bèn quanh quẩn hàng cây.
Bỗng heo may hướng bắc,
Lại trăm mối lo đây!
Biết mùa màng mới gặt,
Men rượu thoảng giường này,
Cùng bạn bè mời mọc,
Chiều tà uống giải khuây.

Lời bàn 

Bài thơ 12 câu tả niềm vui ngắn ngủi và vội vã sau khi được giặc An Lộc Sơn thả về. Không đủ thì giờ chơi với con cháu. Không được thanh thản lúc tản bộ trong vườn. Tạm giải khuây với bạn bè bằng vài ly rượu nhạt. Lời thơ rất chân thật.

Con Cò
***
Xóm Khương kỳ 2.

Cao tuổi cầu sinh vội,
Ít vui về ở nhà.
Con không rời khỏi gối,
Bởi sợ ta đi xa.
Xưa thích mát bên cội,
Cây ao lần bước qua.
Ào ào gió bắc thổi,
Nung nấu nỗi phiền hà.
Biết lúa gặt thu bội,
Và hèm đã gạn ra.
Bây giờ đủ rượu uống,
Khuây khỏa lúc chiều tà.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
June 29/2024.
***
Xóm Khương ( kỳ 2 )

Cuối năm trộm cắp thường sinh
Về nhà giảm thú tận tình xỉn/say
Gái cưng ôm gối nắm tay
Sợ ba đi nữa… không quay trở về
Nhớ thời hóng gió thơ đề…
Bên cây cổ thụ lề mề dạo quanh
Ào ào gió bắc thổi nhanh
Lòng còn trăm mối chỉ mành tính sao!
Mùa màng thu hoạch lúa vào…
Rắc men cất rượu vài thau dưới giường
Bạn thân nếm thử rượu vườn
Mời nhau chiều xuống sương sương vơi/đầy

Kiều Mộng Hà
June.30.2024
***
An Hưởng Tuổi Già

Cao niên xồng xộc đến mau,
Khắc giờ sống vội - van cầu cao xanh.
Hồi gia chân bước loanh quanh,
Thú vui chả mấy - đêm canh lạnh lùng.
Ấu nhi bò lết theo cùng,
Không rời đầu gối - sợ chừng tôi xa.
Xưa ưa hóng mát xế nhà,
Bờ ao lụm cụm - mượt mà bóng cây.
Bắc phong cuồn cuộn kéo đây,
Những điều gai mắt - ngập đầy lo toan.
Cánh đồng trải ngập lúa vàng,
Thoắt tay gặt hết - rỡ ràng ngày qua.
Chum bình vại rượu ôm ra,
Lưu linh thoả thích - xướng ca câu từ.
Xế chiều vào tuổi mịt mù,
Tâm tư khuây khỏa - vô tư sự đời.

Khánh-Hưng
***
Xóm Khương Kỳ 2

1-

Tuổi già sống tạm thôi
Cho nhà chút vui thú
Con ngoan không rời gối
Vì sợ ta lại bỏ

Nhớ xưa thích gió lành
Dạo hàng cây ao tụ
Ào ào gió bấc thổi
Trái ý gây tư lự

Lại nghe lúa gặt rồi
Cũng biết hèm rượu đủ
Nay có thể châm chước
Giải khuây khi tương ngộ!

2-

Tuổi già sống tạm qua thời
Cho nhà được hưởng chút vui trong đời
Con ngoan quanh quẩn không rời
Sợ ta lại tiếp bỏ rơi gia đình

Nhớ xưa thích ngọn gió lành
Chiều chiều đi dạo cây xanh ven hồ
Ào ào gió bấc gây lo
Tiết trời trái ý buồn so đứng ngồi

Nhưng nghe lúa má gặt rồi
Cũng hay hèm rượu khắp nơi đủ đầy
Tạm yên châm chước từ nay
Nhâm nhi chén rượu giải khuây cuối đời!

Lộc Bắc
Jul24
***
Khương Thôn kỳ hai

Tuổi già cố gắng đêm ngày
Về nhà sống gượng an bài cho qua
Cháu con quấn quýt bên ta
Không rời một bước thiết tha chân tình
Khi xưa hay dấu bóng hình
Núp ngay dưới lá yên bình tàng cây
Phương Bắc thổi gió heo may
Lòng canh cánh sợ lạnh quay đông về
Mùa màng thu gặt thỏa thê
Lấy hạt cất rượu tràn trề mùi hương
Men ngà thơm ngát cạnh giường
Chiều tà bạn đến bên vườn cụng ly

Thanh Vân
***
Góp Ý:

Bài kỳ nhất, BS đã hốc hác, bài kỳ này còn hốc hác hơn vì nhiều chữ khó, chữ kép, lại quá xúc tích, không cách nào nói hết ý của tác giả trong bài dịch.

-Bách là ép buộc, bức bách, thúc dục.
-Thâu là cẩu thả, bạc bẽo, trộm cắp. Nhưng Thâu Sinh là cố cầu sống một cách cẩu thả.

Vãn tuế bách thâu sinh, có nghĩa là lúc tuổi già, bắt buộc phải cố cầu sống một cách cẩu thả. Như vậy là sống thế nào? Các bài dịch trong Thi Viện, kể cả Trần Trọng San, cho là “tuổi già cầu sống vội“. BS thì nghĩ là có sao sống vậy, không đòi hỏi, bon chen, sống qua ngày, cầm hơi…

Câu 2: hoàn gia thiểu hoan thú, làm BS hơi ngạc nhiên: về nhà mà ít vui vẻ, sung sướng, thú vị: thời loạn, thoát thân về nhà mà không vui thì hơi lạ.

Hai câu kế: kiều nhi bất ly tất, úy ngã phục khước khứ: con trẻ không rời đầu gối, sợ ta lại ra đi. Hai câu nói rất đúng tâm trạng của đám con..

-Ức Tích là nhớ xưa.
-Truy là đuổi, tìm.
- Lương là sự mát mẻ.
- Nhiễu: đi, chạy vòng quanh.
- chữ chót của câu 7 là Kính chứ không phải Kình, ÔC có cần sửa lại không? Kính là cứng, mạnh mẽ.
- Tiễn, hay Tiên : trong lòng lo lắng, nấu cho cạn, rèn luyện.
- Lự: suy tính, lo âu, sợ hãi.
- Sàng là giường, cái giá để gác đồ vật.
- Chú là rót vào, tập trung vào, phụ thuộc vào.
- Châm: rót cho đầy.
- Châm chước: là đắn đo, suy nghĩ, rót đầy mà không tràn.
- Trì là chậm chạp. Trì mộ là già yếu.

Đây là bản dịch theo thể lục bát:

Thôn Khưong, Kỳ Nhì.

Tuổi già đành sống cầm hơi,
Về nhà mà ít thảnh thơi vui cười,
Con thơ bám chặt lấy người,
Sợ ta lại sắp sửa rời chân đi.
Nhớ xưa dạo mát nhiều khi,
Vòng quanh cây cối xanh rì bờ ao,
Gió đông thổi mạnh ào ào,
Sự đời nghĩ lại, lo âu trăm bề,
Hay tin lúa đã gặt về,
Rượu ngon chín ngấu vừa kê trên giường,
Bây giờ đủ chén quỳnh tương,
Để an ủi nỗi đau thương tuổi già.

Bát Sách.
(Ngày 01/07/2024)

***
…thời loạn, thoát thân về nhà mà không vui thì hơi lạ.
Anh BS,

Câu 2 nói ít (thiểu) vui chớ không phải không vui, một tình cảm phức tạp không trọn vẹn (vui xum hợp gia đình nhưng bất mãn với cuộc sống). Lý do là ở câu 1, dễ hiểu nhầm nếu không biết bối cảnh lịch sử về cuộc sống chính trị của Đỗ Phủ. Ông được Túc Tông ban chức tháng 5 năm 757, tháng sau bị tù tội, rồi được minh oan phục chức. Hai tháng sau, có chiếu chỉ phải rời triều đình ngay. Tháng 8 năm 757, ông về Phu Châu như bị đi đày và viết bài Khương Thôn Tam Thủ.

Anh đã phân tích từ chữ trong câu 1:

Vãn tuế: tuổi già
Bách: ép buộc, bức bách
Thâu: trộm cắp
Sanh: cuộc sống

Tôi tạm dịch nghĩa 2 câu đầu hơi khác với các vị tiền bối:

Ở tuổi già, tôi bị đánh cắp mất cuộc sống,
Nhưng bất lực nên về lại nhà mà lòng vui ít.

Mong anh chị cho thêm ý kiến. pmt
***
Đỗ Phủ 杜甫 Dù Fǔ

Nguyên tác:  Phiên âm:                   Phỏng dịch thơ:

羌村其二      Khương Thôn Kỳ 2    Làng Khương Kỳ 2

晚歲迫偷生 Vãn tuế bách thâu sanh  Tuổi già mất cuộc sống,
還家少歡趣 Hoàn gia thiểu hoan thú Về đến niềm vui không.
嬌兒不離膝 Hiều nhi bất ly tất          Con trẻ bám ôm gối
畏我復卻去 Úy ngã phục khước khứ Sợ ta đi biệt tông.
憶昔好追涼 Ức tích hiếu truy lương Nhớ xưa thích bóng mát,
故繞池邊樹 Cố nhiễu trì biên thụ     Dưới cây dạo quanh ao.
蕭蕭北風勁 Tiêu tiêu bắc phong kính Rào rào gió bắc thổi,
撫事煎百慮 Phủ sự tiên bách lự        Nung nấu trăm lo âu.
賴知禾黍收 Lại tri hòa thử thu          Biết nay lúa đã gặt,
已覺糟床註 Dĩ giác tao sàng chú      Hèm rượu ủ vừa rồi.
如今足斟酌 Như kim túc châm chước Đã có rượu ngon rót,
且用慰遲暮 Thả dụng ủy trì mộ         Tuổi già khuây khỏa thôi.

Bài thơ có mộc bản trong sách:

Bổ Chú Đỗ Thi - Đường - Đỗ Phủ 補注杜詩-唐-杜甫
Cửu Gia Tập Chú Đỗ Thi - Đường - Đỗ Phủ 九家集注杜詩-唐-杜甫
Văn Uyển Anh Hoa - Tống – Lý Phưởng 文苑英華-宋-李昉
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選-明-曹學佺
Ngự Định Toàn Đường Thi Lục - Thanh - Từ Trác 御定全唐詩錄-清-徐倬
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁

Ghi chú:

Vãn tuế: năm về chiều, tuổi già
Thâu sanh: ăn cắp cuộc sống
Tiêu tiêu: từ tượng thanh, mô tả âm thanh của gió
Phủ sự: .hồi tưởng về quá khứ, nhớ lại chuyện đã qua
Tao sàng: bàn ép hèm; trong công nghệ làm rượu ngày xưa, ép hèm là công đoạn 3 trong 7 công đoạn
Châm chước: rót rượu, nói chuyện uống rượu
Trì mộ: chậm chạp mặt trời sắp lặn, thong thả lúc tuổi già


古法酿酒工艺流程圖 Cổ Pháp Nhưỡng Tửu Công Nghệ Lưu Trình Đồ

Lưu Trình Làm Rượu Công Nghệ Xưa

1. 浸米 tẩm mễ = ngâm nếp
2. 蒸飯 chưng phạn = nấu hèm
3. 壓榨 áp trá = ép hèm
4. 煎酒 tiên tửu = cất rượu
5. 落缸 lạc hang = vào lu ủ hèm
6. 封壇 phong đàn = niêm kín
7. 陳貯 trần trữ = lão hóa (aging)

Lưu ý: Thông thường công đoạn 5: ủ hèm phải trước công đoạn 3: ép hèm

Dịch nghĩa:

Làng Khương Kỳ 2

Ở tuổi già, cuộc sống của tôi như bị cắp mất,
Nhưng bất lực nên về lại nhà mà lòng vui ít.
Đứa con trai ôm đầu gối tôi không bỏ,
Vì lo sợ tôi lại ra đi.
Nhớ lại khi xưa thích nơi mát mẻ,
Nên tôi đi dưới hàng cây bên ao.
Khi gió bắc thổi mạnh ào ào.
Nghĩ đến việc đã qua, trăm nỗi lo âu nung nấu.
May là biết lúa đã gặt rồi,
Và hèm rượu trong giá ép lọc đã nhểu giọt.
Nên hôm nay tôi có đủ rượu uống,
Để khuây khỏa sống yên lúc tuổi già.

羌村其二 - 杜甫 Qiang Village II by Du Fu
Translation by Stephen Owen in The Poetry of Du Fu Book 5

晚歲迫偷生 My late years press hard on a stolen life,
還家少歡趣 Coming home, the pleasures are few.
嬌兒不離膝 My dear son will not let go of my knees,
畏我復卻去 I’ll go away again.
憶昔好追涼 I recall how I used to love finding cool spots,
故繞池邊樹 On purpose I circle the trees by the pool.
蕭蕭北風勁 Whistling, the north wind blows strong,
撫事煎百慮 Considering matters, a hundred cares simmer.
賴知禾黍收 Fortunately I know that the grain has been harvested,
已覺糟床注 I already see pouring water into my mash-press.
如今足斟酌 If now there is enough to pour a drink,
且用慰遲暮 For a while it will comfort my twilight years.

Phí Minh Tâm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét