Thứ Tư, 15 tháng 11, 2023

Tiêu Tương Thần Kỳ 1 瀟湘神其一 - Lưu Vũ Tích (Trung Đường) Từ


Lưu Vũ Tích 劉禹錫 (772-842) tự Mộng Đắc 夢得, người Bành Thành (nay là huyện Đông Sơn, tỉnh Giang Tô) đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 9 (793), làm giám sát ngự sử đời Đức Tông. Thời Thuận Tông cùng tham dự vào những chủ trương chính trị tiến bộ cùng Vương Thúc Vân, Liễu Tông Nguyên, sau Vương Thúc Văn bị bọn cường quyền gièm pha, ông cũng bị đổi thành Lãng Châu thứ sử. Ông làm từ hay dùng tục ngữ địa phương, Bạch Cư Dị từng gọi ông là thi hào. Tác phẩm có Lưu Vũ Tích tập.

Nguyên tác            Dịch âm

瀟湘神其一         Tiêu Tương Thần Kỳ 1

湘水流,湘水流 Tương thuỷ lưu, Tương thuỷ lưu
九疑雲物至今愁 Cửu Nghi vân vật chí kim sầu.
君問二妃何處所 Quân vấn nhị phi hà xứ sở
零陵香草露中秋 Linh Lăng hương thảo lộ trung thu.

"Tiêu Tương thần" (còn gọi là "Thanh Tương từ") là điệu từ được Lưu Vũ Tích sáng tác trong thời kỳ ông bị biếm trích ở Lãng Châu (nay thuộc huyện Thường Đức, tỉnh Hồ Nam). Tiêu Tương thần tức là nữ thần sông Tiêu Tương. Truyền thuyết kể rằng xưa đế Thuấn đi tuần du phương nam, mất ở Thương Ngô, táng ở Cửu Nghi. Hai người vợ của vua Thuấn đi tìm, đến bờ sông Tiêu Tương vọng về miền Thương Ngô mà khóc vua Thuấn. Nước mắt của hai người nhỏ lên những cây trúc bên sông Tiêu Tương, để lại những ngấn lốm đốm rất đẹp. Rồi hai người gieo mình xuống sông Tương, trở thành nữ thần sông Tương.

Chú giải

九疑 Cửu nghi: Nơi chôn vua Thuấn.
二妃 nhị phi: Tức hai người vợ của vua Thuấn. Đế Nghiêu thấy Thuấn tài đức bèn gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho Thuấn. Sau, Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, hai nàng làm phi tử.
露lộ: sương, lộ.

Dịch nghĩa

Thần Sông Tương Kỳ 1

Sông Tương trôi, sông Tương trôi.
Cửu Nghi, nơi chôn vua Thuấn, mây núi tới nay vẫn còn sầu.
Anh hỏi hai phi (Nga Hoàng và Nữ Anh) đang ở đâu,
(Trả lời rằng) Ở Linh Lăng nơi có sương thu (nước mắt của hai phi) thơm ngát đọng trên cỏ.

Dịch từ

Tiêu Tương Thần Kỳ 1

Sông Tương trôi, sông Tương trôi,
Cửu Nghi mây núi mãi sầu thôi.
Anh hỏi hai phi nơi chốn ngụ,
Linh Lăng thơm cỏ lộ thu rơi.

Lời bàn:

Về cấu trúc: bài từ dựa trên thất ngôn tứ tuyệt có câu đầu theo thể cổ phong (chỉ có 6 chữ).
Về ý: 3 câu đầu là kể truyện; câu 4 là bình luận, nói rằng hai Phi hiện đang ngự ở Linh Lăng, nơi cỏ thu có sương thơm (nước mắt của hai Phi) rơi trên cỏ. (Điển Nghiêu Thuấn: vua Nghiêu thấy Thuấn tài đức bèn gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho Thuấn. Sau, Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn, hai nàng làm phi tử. Khi vua Thuấn chết ở bờ sông Tương thì Nga Hoàng và Nữ Anh cũng chết theo và những giọt nước mắt của Nga Hoàng và Nữ Anh ghi dấu vết trên thân của hàng tỷ cây trúc thành ngấn lệ).

Con Cò
***
Những Bài Dịch Khác:

Thần  Nữ Tiêu Tương  Kỳ 1

Nước sông Tương! Nước sông Tương !!!
Cửu Nghi mây núi còn vương nỗi sầu
Nhị phi ái thiếp ở đâu?
Linh Lăng hương thảo sương rầu… lệ rơi

Kiều Mộng Hà
Nov02nd2023
***

Thần Nữ Sông Tương

Sông Tương nước cuốn xuôi dòng
Cửu Nghi mây phủ nỗi lòng thiên thu
Nhị Phi hồn thác nơi đâu
Linh lăng sương đẫm lệ châu vợ hiền

Thanh Vân
***
Thần Sông Tương Kỳ 1

Dòng Tương trôi, dòng Tương trôi
Cảnh vật Cửu Nghi sầu khó nguôi
Người hỏi hai phi đâu chốn ngụ?
Linh lăng cỏ ngát, sương thu ngời!

Lộc Bắc
***
Nhị Vị Nữ Thần Tiêu Tương

Sông Tương êm ả nước trôi,
Thuấn vương an táng xa vời Cửu Nghi.
Núi non, mây ngập sầu bi,
Khóc người tài đức ra đi không về...
Nga Hoàng, Nữ Anh cặp kè
Thương Ngô vọng tưởng - lê thê dạ buồn.
Xót thương Hoàng Thượng lệ tuôn,
Khiến cành trúc đốm - vấn vương nghĩa tình.
Phi tần nhị vị gieo mình,
Mượn làn nước xoáy - hiển linh thành thần.
Về đâu miên viễn hai nàng?
Sương thu đẫm cỏ Linh Lăng hương nồng.

Khánh-Hưng
***
Thần Sông Tiêu Tương.

Tương nước trôi, Tương chảy mau,
Cửu Nghi mây cảnh vẫn buồn đau.
Anh hỏi hai phi về đấy ở?
Linh Lang thu cỏ ngát sương sầu.

Lục Bát.

Sông Tương nước chảy trôi mau,
Cửu Nghi mây cảnh còn sầu tới nay.
Hai Phi hỏi có ở đây?
Linh lang thơm cỏ đẫm đầy sương thu.

Mỹ Ngọc 
Nov. 3/2023.
***
Góp Ý Cho Bài Tiêu Tương Thần Kỳ 1 .

Tiêu Tương Thần là tên một điệu Từ. Điệu này lạ, BS mới thấy lần đầu, có 4 câu, câu 1, sáu chữ, ba câu sau 7 chữ.

Bài này không có chữ khó, nhưng giải thích về địa danh và nhân danh của ÔC bị anh Giám phản đối bằng một bài rất dài.

Những điều BS tìm được thì như sau đây :
# Vua Nghiêu gả 2 con là Nga Hoàng và Nữ Anh cho Thuấn, khi ông này lên ngôi thì 2 bà là nhị phi.
# Thương Ngô là nơi chôn vua Thuấn, cũng gọi là Cửu Nghi, vì nơi đó có 9 ngọn núi giống nhau ở huyện Ninh Viễn, tỉnh Hồ Nam.
# Sông Tương ở phía nam Trường Giang, phía bắc rặng núi Ngũ Lĩnh.

Sông Tương ở phía tây, phát nguyên từ Dương Hải Sơn, Quảng Tây, chảy qua Hồ Nam, Trường Sa, rồi vào hồ Động Đình.

Sông Tiêu phát nguyên từ Cửu Nghi Sơn, phía nam quận Ninh Viễn, tỉnh Hồ Nam chảy tới tây bắc huyện Linh Lăng, chỗ hợp lưu của 2 sông đó nên gọi là Tiêu Tương. Hai bà Nga Hoàng, Nữ Anh, khóc vừa Thuấn ở đây, nước mắt làm hoen những cây trúc ở bên bờ sông Tương. Trúc này đẹp lắm, dùng làm mành, nên trong Kiều có câu mành Tương phơ phất gió đàn.

Như vậy là giải thích được tất cả các nhân danh, địa danh trong bài từ.

 


Tiêu Tương Thần Kỳ 1 

Tương nước tuôn, Tương nước tuôn,
Mây núi Cửu Nghi mãi u buồn,
Anh hỏi hai phi giờ đâu tá,
Linh Lăng hương cỏ đẫm thu sương.

Bát Sách.
(ngày 03/11/2023)
***


Nguyên tác:               Phiên âm:

瀟湘神其一-劉禹錫 Tiêu Tương Thần Kỳ 1 – Lưu Vũ Tích

湘水流 Tương thủy lưu
湘水流 Tương thủy lưu
九疑雲物至今愁 Cửu Nghi vân vật chí kim sầu
君問二妃何處所 Quân vấn Nhị Phi hà xứ sở
零陵香草露中秋* Linh Lăng hương thảo lộ trung thu

*Sách NĐTĐT cho một dị bản với chữ 雨vũ thay vì 露lộ
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁
Nhạc Phủ Thi Tập - Tống - Quách Mậu Thiến 樂府詩集-宋-郭茂倩
Lưu Tân Khách Văn Tập - Đường - Lưu Vũ Tích 劉賓客文集-唐-劉禹錫 đăng chung 2 kỳ.

 

Ghi chú:

- Tiêu Tương: kết hợp sông Tiêu Thủy và sông Tương Giang, chủ yếu đề cập đến khu vực Hồ Nam ngày nay. Tiêu Thủy từ tây nam chảy đến Linh Lăng để nhập vào Tương Giang. Tương Giang tiếp tục chảy qua Vĩnh Châu 永州, Hành Dương 衡阳, Trường Sa 长沙, vào trung tâm Hồ Nam và tiếp tục chảy về Bắc để vào hồ Động Đình 洞庭 từ phía nam. Lưu Vũ Tích dùng lại hai chữ Tiêu Tương này trong bài Tiêu Tương Thần Kỳ 2 câu 5: Tiêu Tương thâm dạ nguyệt minh thì. Đỗ Phủ cũng có dùng Tiêu - - Tương trong bài thơ Khứ Thục 去蜀 trong câu: Chuyển tác tiêu tương du.
- Cửu Nghi: tên núi ở phía nam Vĩnh Châu, Hồ Nam gồm 9 ngọn giống nhau. Theo truyền thuyết, vua Thuấn được chôn trong vùng Linh Lăng thuộc núi này.
- Vân vật: màu sắc của những đám mây
- Chí kim: cho đến bây giờ
- Nhị Phi: tương truyền, hai người thiếp vua Thuấn, tên Nga Hoàng và Nữ Anh, sau khi vua Thuấn băng hà, tìm đến bờ sông Tương khóc và chết. Nước mắt thấm vào những cây trúc bên bờ sông, từ đó trên thân trúc lốm đốm vết, nên được gọi là trúc Tương phi. Nga Hoàng được phong làm nữ thần sông Tương, còn không biết Nữ Anh làm gì.
Linh Lăng: địa danh tương truyền là nơi chôn vua Thuấn
Linh lăng hương: một loại cây thuốc có hương thơm


Linh lăng hương 零陵香 Lysimachia foenum-graecum Hance

Dịch nghĩa:

Tiêu Tương Thần Kỳ 1 Thần Tiêu Tương Kỳ 1

Tương thủy lưu Nước sông Tương chảy
Tương thủy lưu Nước sông Tương chảy
Cửu Nghi vân vật chí kim sầu Núi Cửu Nghi bị mây che cho đến nay vẫn còn sầu.
Quân vấn Nhị Phi hà xứ sở Thử hỏi hai phi (Nga Hoàng và Nữ Anh) bây giờ ở đâu?
Linh Lăng hương thảo lộ trung thu Linh Lăng có sương thu đọng trên cỏ thơm.

Dịch từ/Điền từ/Dịch thơ:

Đây là một bài từ, không phải một bài thơ; do đó nó không theo cấu trúc thanh vận của một thể cổ thi nào. Theo Khâm Phổ, bài từ điệu Tiêu Tương Thần 瀟湘神 có 27 chữ, chia làm 5 câu, có 3 vần bằng và 1 vần điệp.
 

Bài Tiêu Tương Thần có những yêu cầu về bằng trắc rất khắt khe. Chỉ có chữ thứ 3 trong câu 3 là thanh bất luận bằng hay trắc cũng được. Do đó dịch/điền từ cho đúng thanh vận bài từ sẽ rất khó khăn. Dịch như một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt là một việc có thể làm được.

Thần Sông Tương

Sông Tương lờ lững chảy về đâu?
Núi Cửu ngàn năm mây phủ sầu.
Nga Nữ hai Phi cùng số mạng,
Linh Lăng cỏ mượt đọng sương thu.

Xiao Xiang Shen by Liu Yu Xi

Xiang river flows,
Xiang river flows,
Nine Peaks covered by clouds still look sorrowful.
Where are the two concubines of King Yu Shun?
The flagrant grass of Ling Ling, where King Shun was buried, glitters with autumn dew.

Phí Minh Tâm
***
Góp ý :

君問二妃何處所=Quân vấn nhị phi hà xứ sở

Hỏi là phải vì truyền thuyết vua Thuấn chết ở vùng Tiêu Tương là chuyện phi lý! Người ni đã viết trong một bài khác rằng Tiêu Tương không phải là tên của một con sông mà là một địa danh mơ hồ cho vùng Tương giang-Động Đình hồ, nơi nhiều thi nhân/quan lại thất sủng bị đi đày; thế có nghĩa là trên đời không có con sông nào tên là Tiêu Tương. Các dữ kiện về nhị phi của vua Thuấn và trúc đốm (斑竹) đến từ Thi Viện, và đa số dữ kiện từ Thi Viện thường là tào lao!

Thuấn là một vua huyền thoại mà người đời đoán sống trong khoảng 2294 - 2184 BCE rồi được Vũ kế nghiệp lập nên nhà Hạ. Địa phận của của nhà Hạ là vùng màu đỏ trong hình dưới,


cả ngàn cây số trên các vùng đất dưới Hạ sau này sẽ được biết đến dưới các tên Ngô, Việt và Sở, trong đó có Tiêu Tương. Làm sao vua Thuấn có thể hay có quyền đi tuần du vùng đất mà có lẽ ông chưa hề biết hay nghe nói đến ?! Sử Ký nói rằng Thuấn chết ở Thương Ngô (《史记》卷一,第52页:“践帝位三十九年,南巡狩,崩于苍梧之野。” ) nhưng không ai biết Thương Ngô (tên núi hay tên vùng?) trước thời nhà Hạ nằm ở đâu vì cái tên Thương Ngô chỉ xuất hiện trong các cuốn Sơn Hải Kinh (tk-4) và Trúc Thư Kỷ Niên (tk-3). Tỉnh Quảng Tây có một ngọn núi tên Thương Ngô, hay Cửu Nghi, nhưng núi này nằm hơn 1000 km phía nam địa phận nhà Hạ; Học giả Diêu Kiếm (姚剑) ở Sơn Tây nghĩ rằng Thương Ngô/Cửu Nghi sơn là Trung Điều sơn (中条山, Zhongtiao trong hình ở dưới) ở Sơn Tây, có lý hơn.


và vì không thể nào Thuấn đi tuần du khi đã 100 tuổi, hay chết, ở Quảng Tây hay Hồ Nam, chuyện hai bà phi của ông tự trầm ở sông Tương cũng không thể nào có thật.

零陵=Linh Lăng là tên cổ của Vĩnh Châu (永州, Hồ Nam) bây giờ và ta cũng có thể nghĩ rằng khó mà tìm ra dấu vết hai bà phi của Thuấn ở đó. 陵=lăng là gò đất hay mộ vua; 零=linh viết tắt cho =thế linh với nghĩa giọt lệ. Linh lăng cũng là tên cổ của nhiều loài rau thơm trong đó có húng quế, bạc hà.

Không biết trong hai tên ban trúc và Linh Lăng, tên nào đến trước.



Theo trang 零陵香 - linh lăng hương cây này có rất nhiều tên:

别名出处:零陵香(《嘉佑本草》),熏草(《山海经》),燕草(《南越志》),蕙草(《别录》),香草(《开宝本草》),铃铃香、铃子香(《梦溪笔谈》),黄零草(《庚辛玉册》),熏香(《本草求真》),陵草(《中药材手册》)、 [1] 广零陵香(《纲目》),广灵香、平南香、满山香, [2] 薰香,薰衣草,云香草,满山香,闹虫草,排草,佩兰,平南香 Tóm tắt: linh lăng hương,huân thảo,yến thảo,huệ thảo, hương thảo,linh linh hương、linh tử hương, hoàng linh thảo,huân hương,lăng thảo、quảng linh lăng hương, quảng linh hương、bình nam hương、mãn san hương,huân y thảo, vân hương thảo,mãn san hương,nháo trùng thảo,bài thảo, bội lan,bình nam hương [trong đó vài tên dùng từ linh 铃 (nghĩa cái chuông) và huân thảo là lavender, ngoài các tên tiêm diệp tử, khu hồi trùng thảo, náo trùng thảo trong zn.Wikipdia!]

Có hơn 30 lối viết cho âm linh và các trang chữ Hán bây giờ có khuynh hướng dùng từ 灵 (giản thể của 靈, nghĩa linh thiêng) cho tên cây Lysimachia foenum-graecum nhưng trang zn.Wikipedia 零陵香 cho ta thấy là có nhiều tên cây linh lăng dùng từ 零 (nghĩa mưa nhẹ hay mưa phùn) hơn, nên tôi phân vân Lưu Vũ Tích dùng từ nào. Mộc bản trong Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành (古今图书集成) dùng từ 零


và bản thảo thư thật đẹp này (湘江二首) cho hai bài từ của Lưu Vũ Tích cùng dùng từ 零


零陵香=linh lăng hương là tên cây nên thêm chữ 草=thảo vào là ... thừa (redundant) và vì thế rất có thể rằng họ Lưu muốn nói cây hương thảo ở địa danh Linh Lăng, hàm ý 涕零=thế linh và điển cố hai bà phi của Thuấn khóc chồng ở đó.

Huỳnh Kim Giám

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét