Thứ Ba, 22 tháng 8, 2023

Đường Thi: Những Bài Thơ Thất Tịch


THẤT 七 là Bảy; TỊCH 夕 là Đêm. Nhưng THẤT TỊCH 七夕 không phải là Bảy đêm, mà là đêm "Mùng Bảy Tháng Bảy" Âm lịch. Đêm mà Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau nhờ ô thước bắc cầu qua dòng sông Ngân Hà như trong truyền thuyết. Ngưu Lang Chức Nữ là một trong bốn chuyện tình lớn nhất của dân gian trong xã hội sơ khai của nền nông nghiệp : Nam thì chăn trâu cày ruộng; Nữ thì chăn tằm dệt vải. Nhưng vợ chồng lại không được đoàn tụ phải sống trong bi kịch mỗi người một nơi, một năm chỉ gặp mặt được có một lần. Nhân tháng 7 âm lịch, ta đọc lại một số bài thơ có liên quan đến tình yêu nam nữ lớn nhất, lâu đời nhất này nhé !...

1. Bài thơ ĐIỀU ĐIỀU KHIÊN NGƯU TINH 迢迢牽牛星:

迢迢牽牛星, Điều điều Khiên Ngưu tinh,
皎皎河漢女。 Kiểu kiểu Hà Hán nữ.
纖纖擢素手, Tiêm tiêm trạc tố thủ,
札札弄機杼。 Trát trát lộng cơ trữ.
終日不成章, Chung nhật bất thành chương.
泣涕零如雨。 Khấp thế linh như vũ.
河漢清且淺, Hà Hán thanh thả thiển,
相去復幾許? Tương khứ phục kỷ hử ?
盈盈一水間, Doanh doanh nhất thuỷ gian,
脈脈不得語。 Mạch mạch bất đắc ngữ !
無名氏 Vô Danh Thị (Không rõ tên tác giả)

* Chú thích:

- Điều Điều: là Xa xăm diệu vợi; là Xa xa...
- Kiểu Kiểu: là Trắng trẻo nõn nà; là Lấp lánh. Còn được đọc là Hạo Hạo.
- Tiêm Tiêm : là Mềm mại, thon thả. - Trạc : Nhấc lên, Đưa lên.
- Trát Trát: là Lách cách lác các (từ Tượng thanh).
- Bất Thành Chương : là Không thành văn vẻ vải vóc gì cả.
- Khấp Thế: Khấp là Nước mắt ; Thế : là Nước mũi; Linh : là Chảy. Câu : "Khấp thế linh như vũ"là "Nước mắt nước mũi chảy như mưa".
- Hà Hán: Chỉ sông Thiên Hà, còn gọi là Sông Ngân Hà hay Ngân Hán.
- Kỷ Hử?: Là Nghi vấn tự, có nghĩa là Bao nhiêu ?"
- Doanh Doanh: Là Đầy âm ấp. Là Vẻ nhởn nhơ của các bà các cô. Là (Nước) nông và trong, là Nông sờ. Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều :

Sông Tương một dãy NÔNG SỜ,
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia.

- Mạch Mạch: là (Nhìn) Đăm đắm, Đắm đuối, Chứa chan tình cảm.

* Nghĩa bài thơ:

Xa xôi diệu vợi ở đầu bên kia sông là Sao Khiên Ngưu. Lấp lánh sáng sủa phía bên nầy sông là sao Chức Nữ (HÀ HÁN NỮ). Với đôi tay mềm mại trắng trẻo vươn ra, và tiếng lách cách lác các của khung cửi đang hoạt động. Nhưng... suốt cả ngày không dệt ra được vải vóc gì cả; mà còn khóc đến nước mắt nước mũi chảy như mưa. Sông Ngân Hà lại trong mà cạn, đây qua đó khoảng cách có bao xa đâu? Chỉ là một dòng nước đầy ngăn cách, nhưng lại chỉ nhìn nhau đăm đắm mà chẳng nói nên lời !

Đây là bài thơ thứ mười trong "Cổ thi thập cửu thủ 古詩十九首" (19 bài thơ xưa thời Tần, Hán). Bài thơ đã mượn truyện tình của Ngưu Lang Chức Nữ trong cái bi kịch là bị ngăn cách bởi sông Ngân Hà, người ở bên nầy sông người ở bên kia sông. Chức Nữ đã nói lên nỗi tương tư của sự chia cắt, bày tỏ nỗi bi thương sầu thảm của cảnh vợ chồng không được đoàn tụ một nhà. Không còn lòng dạ nào để canh cửi nữa, nên mặc dù khung máy dệt vẫn lách ca lách cách mà lại chẳng dệt nên gì cả, trong khi nước mắt nước mũi lại đầm đìa. Ý thơ và lời thơ đã hàm chứa một ý thức bất mãn và phản kháng về sự việc "Vợ một nơi chồng một nẻo" nầy. Lời thơ thiết tha chân thành, hình ảnh gợi tình gợi cảm một cách chân thật : Chỉ cách có mỗi một dòng sông nước cạn mà đôi lứa đành phải tương tư sầu khổ; Gần nhau trong gang tấc mà như là cách trở quan san!

* Diễn Nôm:

Điều Điều Khiên Ngưu Tinh

Xa xăm sao Khiên Ngưu,
Lấp lánh sông Chức Nữ.
Thon thả vươn tay ngà,
Lách cách trên khung cửi.
Suốt buổi chẳng nên chi,
Như mưa kìa mắt mũi.
Ngân Hà cạn lại trong,
Phải cách chi non núi ?!
Một dòng nước vơi đầy,
Nhìn nhau chừng đắm đuốì !
Lục bát :
Sao Ngưu diêu vợi trời xa,
Lấp lánh Chức Nữ bên Hà Hán đây.
Tay ngà thon thả vươn đầy,
Thoi đưa lách cách khung cây suốt ngày.
Chẳng thành vải vóc cân đai,
Nước mắt bước mũi chảy dài như mưa.
Ngân Hà trong cạn như xưa,
Gần nhau gang tấc, lại vừa xa xôi.
Cách ngăn chỉ một sông thôi,
Nhìn nhau đăm đắm khôn lời thở than!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

2. Bài thơ Thất Tịch 七夕 của LÝ HẠ 李賀 đời Đường:

LÝ HẠ 李賀(790~816) Thi nhân đời Đường. Tự là Trường Cát 長吉. Người ở đất Phước Xương huyện Xương Cốc. Được người đời xưng tụng là THI QUỶ 詩鬼. Ông còn có biệt hiệu là Lý Xương Cốc 李昌谷. Cuộc sống của ông trường kỳ chìm đắm trong ưu tư sầu não, vắt óc khổ ngâm sống cuộc sống hành hạ bản thân. Thêm vào gia cảnh bần hàn khốn đốn làm cho cái ngôi sao thơ chưa kịp tỏa hết những ánh sáng lạ kỳ độc đáo thì đã phải vẫn lạc rụng sớm khi mới vừa 27 tuổi. Sau đây là bài thơ THẤT TỊCH 七夕 của ông.

七夕                Thất Tịch
別浦今朝暗, Biệt phố kim triêu ám,
羅帷午夜愁。 La duy ngọ dạ sầu.
鵲辭穿線月, Thước từ xuyên tuyến nguyệt,
螢入曝衣樓。 Huỳnh nhập bộc y lâu.
天上分金鏡, Thiên thượng phân kim kính,
人間望玉鉤。 Nhân gian vọng ngọc câu.
錢塘蘇小小, Tiền Đường Tô Tiểu Tiểu,
更值一年秋。 Cánh trị nhất niên thu.

* Chú thích:

- Thất Tịch: là Đêm mùng 7 tháng 7 Âm lịch.
- Biệt Phố: là Bến nước ly biệt, ở đây chỉ bến sông Ngân Hà nơi Ngưu Lang Chức Nữ chia tay với nhau, ai về bến nấy.
- Kim Triêu: là Sáng nay; là Hôm nay; nghĩa trong bài là "Đêm Nay". Như trong câu "Dưỡng quân thiên nhật, dụng tại NHẤT TRIÊU 養軍千日,用在一朝。" Có nghĩa : "Nuôi quân ngàn ngày, (nhưng chỉ) dùng trong MỘT BUỔI.
- La Duy: là Rèm màn được dệt bằng tơ. Trong bài "Phong Phú 風賦" của Tống Ngọc thời Chiến Quốc có câu:"Tễ ư LA DUY, kinh ư động phòng 躋於羅帷,經於洞房" là Bước vào rèm tơ để động phòng.
- Câu 螢入曝衣樓. HUỲNH nhập bộc y lâu. Có dị bản là "HOA nhập bộc y lâu 花入曝衣樓". HUỲNH 螢 là con Đom đóm.
- Phân Kim Kính 分金鏡 : là Chia cái gương bằng vàng ra làm hai. Ý chỉ mùng bảy trăng chưa tròn, chỉ có nửa vầng trăng thôi. Giống như là mảnh gương vỡ đôi của Lạc Xương công chúa và Từ Đức Ngôn, và như cụ Nguyễn Du cũng đã viết "Vầng trăng ai xẻ làm đôi ?". Ở đây Lý Hạ ví mình như "nửa vầng trăng" vì đơn độc có một mình.
- Ngọc Câu: là Cái móc bằng ngọc, chỉ trăng lưỡi liềm của đêm mùng bảy.
- Tô Tiểu Tiểu 蘇小小 : là một danh kỹ của Nam Tề thời Nam Bắc Triều, được rất nhiều văn nhân thi sĩ nhắc đến. Ở đây Lý Hạ mượn hình tượng của Tô Tiểu Tiểu để chỉ người mình yêu.
- Câu 更值一年秋 CÁNH trị nhất niên thu. có dị bản là : HỰU trị nhất niên thu 又值一年秋. CÁNH và HỰU ở đây đềi có nghĩa là LẠI, Lại thêm, Lại càng.

* Nghĩa bài thơ:

Trên bến sông Ngân Hà đêm nay trời rất ảm đạm. Ngồi trong rèm tơ lúc nửa đêm để nghe sầu dâng tràn ngập. Chim ô thước đã từ biệt vầng trăng xỏ chỉ để KHẤT XẢO (xin được khéo tay). Chỉ còn những con đom đóm bay vào lầu phơi áo mà thôi (Đây là lần phơi áo cuối cùng trước khi trời vào thu). Trên trời vầng trăng như chiếc gương vàng bị chia đôi (Như Ngưu Lang Chức Nữ hợp rồi lại tan). Nên (những người yêu nhau) trong nhân gian chỉ ngắm được có nửa cái móc ngọc mà thôi. (Không thấy được người yêu) như là Tô Tiểu Tiểu ở xứ Tiền Đường; Đành âm thầm sống lẻ loi cô độc thêm một mùa thu nữa vậy!

Đường Minh Hoàng và Dương Qúy Phi trong đêm Thất Tịch thì nguyện "Trên trời cùng làm chim liền cánh, dưới đất thì làm cây liền cành". Nàng cung phi của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều thì "Mượn điều THẤT TỊCH mà thề bách niên" còn Lý Hạ lại mượn đêm Thất Tịch để bày tỏ nỗi lòng ưu sầu và thương nhớ người yêu của mình. Ngưu Lang Chức Nữ một năm còn được gặp nhau một lần trong đêm Thất Tịch, mặc dù sau đó lại phải chia tay; Còn mình xa người yêu hết năm nầy qua năm khác không biết đến bao giờ mới lại được gặp nhau đây. Vầng trăng mãi cứ như mảnh gương xẻ nửa đêm Trừ Tịch. Không biết đến bao giờ thì "Gương vỡ lại lành" đây ?! Đành cô đơn lẻ bóng thêm một năm nữa vậy !

* Diễn Nôm:

Thất Tịch

Bờ Ngân Hà ảm đạm,
Rèm tơ nửa đêm sầu.
Qụa rời trăng xỏ chỉ,
Đom đóm áo phơi lầu.
Trên trời gương bẻ nửa,
Dưới thế ngắm móc câu.
Đâu Tiền Đường Tiểu Tiểu ?
Lại thêm một năm thu!

Lục bát:

Ngân Hà ảm đạm đôi bờ,
Một mình cô lẻ rèm tơ đêm sầu.
Qụa rời xỏ chỉ trăng thâu,
Áo phơi đóm lượn bên lầu trăng soi.
Trên trời gương bẻ làm đôi,
Dưới trần buồn ngắm bồi hồi ngọc câu.
Tiền Đường Tiểu Tiểu về đâu ?
Lại mùa thu nữa nghe sầu chia ly!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.

3. Bài thơ Thất Tịch 秋夕 của Đỗ Mục 杜牧 đời Đường:

ĐỖ MỤC 杜牧 (803-852), tự Mục Chi 牧之, hiệu Phàn Xuyên Cư Sĩ 樊川居士, người đất Kinh Triệu 京兆 (Tây An thiểm Tây ngày nay). Ông là con của Đỗ Tùng Úc, cháu nội của Tể Tướng Đỗ Hựu, đậu tiến sĩ năm 26 tuổi đời Đường Văn Tông Đại Hòa năm thứ 2.
Đỗ Mục là nhà thơ, nhà tản văn kiệt xuất đương thời. Ông từng giữ các chức vụ Hoằng Văn Quán Hiệu Thư Lang, Giang Tây Quan Sát Sứ Mộ, Hoài Nam Tiết Độ Sứ, Quốc Sử Quán Tu Soạn, Ngự Sử Hoàng Châu, Trì Châu, Mục Châu ... Vì cuối đời ông ở Nam Phàn Xuyên Biệt Thự xứ Trường An, nên người đời gọi ông là Đỗ Phàn Xuyên. Ông trứ tác Phàn Xuyên Văn Tập, nổi tiếng với các bài Thất ngôn Tứ tuyệt, người đời gọi ông là Tiểu Đỗ để phân biệt với Lão Đỗ là Đỗ Phủ của buổi sơ Đường. Đỗ Mục cùng với Lý Thương Ẩn hợp xưng " Tiểu LÝ ĐỖ " để phân biệt với " Lão LÝ ĐỖ " là Lý Bạch và Đỗ Phủ.
Sau đây là bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Thu Tịch của ông:

秋夕                       Thu Tịch

銀燭秋光冷畫屏, Ngân chúc thu quang lãnh họa bình
輕羅小扇撲流螢。 Khinh la tiểu phiến phốc lưu huỳnh
天街夜色涼如水, Thiên giai dạ sắc lương như thủy
臥看牽牛織女星。 Ngọa khán Khiên ngưu Chức nữ tinh .

* Chú thích:

- Ngân Chúc: Ngân là Bạc, ở đây là màu Bạc, màu trắng bạc. Chúc là đuốc. Hoa Chúc là Đuốc hoa, ở đây Chúc là cây Đèn Cầy, Cây Nến. Ngân chúc : là Cây Đèn sáp màu trắng bạc.
- Họa Bình: là Bức bình phong có vẽ tranh của các nhà quyền quý thời xưa.
- Khinh La: Khinh là nhẹ, La là Là, Lụa là, là Vải The. Khinh La : là loại vải the nhẹ để làm quạt. Trong bài "Khinh La Tiểu Phiến": Là chiếc quạt con làm bằng lụa là của các tiểu thơ thường cầm trên tay ngày xưa.
- Phốc: Là chụp bắt.
- Lưu Huỳnh: Lưu là Lưu động, là xẹt. Lưu Tinh 流星 : là Sao xẹt. Huỳnh : là con Đom đóm.
- Thiên Giai: Giai là con đường. Thiên Giai : không phải là đường ở trên trời, mà là đường trong kinh thành, trong cung vua.
- Lương Như Thủy : là Mát như nước.

* Dịch nghĩa:

ĐÊM THU
Ánh sáng lung linh từ ngọn bạch lạp tỏa ra hòa với hơi thu làm cho tấm bình phong đẹp rực rỡ cũng nhuốm hơi lạnh lẽo, nàng phe phẩy chiếc quạt the để chụp bắt những con đom đóm đang lặp lòe bay lượn trong đêm. Đêm đang xuống trong những con đường của Kinh thành, hơi thu mát lạnh như nước trong đêm thanh vắng lặng, nàng ngữa nhìn sao trời để tìm ngắm hai sao Chức Nữ và Ngưu Lang.

Diễn nôm:

Thu Tịch

Lung linh nến trắng bình phong lạnh,
Quạt lụa vờn theo đóm lượn thu.
Lấp lánh sao trời trong như nước,
Nằm xem sao Chức gặp sao Ngưu 

Lục bát:

Bình phong thu lạnh se se,
Quạt là nến trắng lặp lòe đóm bay
Trời thu như nước mát thay,
Ngưu Lang Chức Nữ đêm nay tương phùng!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

Đêm thu với khí trời trong mát, với đom đóm bay lượn lặp lòe, rồi nằm mà ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.... Rất bình dị và rất nên thơ !. Có ai ngờ được đây lại là một bài thơ Cung Oán !... Này nhé
... Ngọn bạch lạp đặt trên giá bằng bạc, bình phong có tranh họa rực rỡ, rõ ràng là cuộc sống của các nhà quyền quý vương hầu, ta càng xác định hơn với từ Thiên Giai : là đường trong Kinh thành, trong Cung Vua, và ai mới rảnh rổi mà nằm ngắm sao trời ?. Chỉ có những nàng cung nữ nhàn nhã, tội nghiệp trong lãnh cung mới rảnh rổi như thế mà thôi, và... một điểm tâm lý rất quan trọng nữa là, chỉ có những nàng cung nữ với tình xuân phơi phới, với nhựa sống tràn trề, mà phải giam mình trong chốn lãnh cung cô thân chiếc bóng, mới hâm mộ và ước ao được như Ngưu Lang Chức Nữ, mặc dù mỗi năm chỉ hội ngộ có một lần. Một lần, có còn hơn không !. Một số cung nhân may mắn... suốt đời mới gặp được vua một lần ! Lắm cô suôt cả cuộc đời, hết cả tuổi thanh xuân, cũng chưa được nhà vua một lần triều kiến... So với Ngưu Lang Chức Nữ thì còn đắng cay chua xót hơn nhiều ! Nên chi, mới ngưỡng mộ và ước ao được như Ả Chức và Chàng Ngưu, chớ còn đối với cuộc sống bình thường, thì có ai lại hâm mộ chuyện tình của Ngưu Lang Chức Nữ bao giờ ?! Duy chỉ có nàng cung phi trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều mới ...

Mượn điều Thất Tịch mà thề bách niên .... mà thôi!
"Bách niên" mà chỉ gặp nhau vào đêm "Thất Tịch" hằng năm, thì có ai ao ước mà làm gì!!!

Phải tinh ý lắm, ta mới cảm nhận được cái "Oán" trong bài thơ nầy, vì nó quá nhẹ nhàng và bình dị. Phải chăng cái oán đeo đẳng miên man lâu dần nên đã hòa vào cuộc sống và được chấp nhận như một sự tự nhiên tội nghiệp ! Không như nàng cung phi của Ôn Như Hầu :

..... Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!...
Khi...
Cái oán đã lên đến cực điểm và trở thành bạo động!

4. Bài thơ Thất Tịch 七夕 của Lý Thương Ẩn 李商隱 đời Đường:


LÝ THƯƠNG ẨN 李商隱(813—858)tự là Nghĩa Sơn 義山, hiệu là Ngọc Khê Sinh 玉溪生, Phàn Nam Sinh 樊南生. Ông người đất Hà Nội Thấm Dương (nay thuộc Tiêu Tác tỉnh Hà Nam) là thi nhân nổi tiếng, hợp với Đỗ Mục 杜牧 thành một cặp "Tiểu Lý Đỗ 小李杜" ở buổi Tàn Đường. Thơ của ông có phong cách diễm lệ, cấu tứ tân kỳ, nhất là các bài thơ VÔ ĐỀ tả về tình yêu trai gái một cách say mê đắm đuối. Vì lọt ở kẻ giữa của Ngưu Lý hai đảng pháichính trị mà suốt đời lận đận, bất đắc chí. Ông mất ở quê nhà Thấm Dương. Tác phẩm để lại "Lý Nghĩa Sơn Thi Tập 李義山詩集", "Phàn Nam Văn Tập 樊南文集". Sau đây là bài thơ THẤT TỊCH 七夕 của ông.

鸞扇斜分鳳幄開, Loan phiến tà phân phụng ác khai,
星橋橫過鵲飛回。 Tinh kiều hoành qúa thước phi hồi.
爭將世上無期別, Tranh tương thế thượng vô kỳ biệt,
換得年年一度來。 Hoán đắc niên niên nhất độ lai.

* Chú thích:
- Loan Phiến: Chiếc quạt tròn của các người đẹp có thêu hình chim loan và cán quạt có tua dài như đuôi chim trĩ.
- Phụng Ác: ÁC là màn trướng có thêu hình chim phụng hoàng.
- Tinh Kiều: là Cầu được bắc bằng các ngôi sao lấp lánh, ở đây chỉ cầu ô thước do các loài chim thước quạt đôi cánh lấp lánh để bắc thành cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau.
- Tranh Tương: là Tranh thủ để đem..., là "Làm sao có thể đem..."...
- Vô Kỳ Biệt: là Biệt ly không kỳ hạn; là Tử biệt; là Chết.
- Hoán Đắc: là Đổi được. Nhất Độ : là Một lần.

* Nghĩa bài thơ:

Thất Tịch

Chiếc quạt có thêu hình chim loan đã chao nghiêng một bên khi ta bước vào trong màn trướng có thêu hình chim phụng hoàng. Trên trời thì chim ô thước đã bắc xong cầu và bay về cả rồi. Trên đời nầy làm sao có thể đem sự biệt ly vô kỳ hạn, để đổi lấy mỗi năm đến gặp gỡ nhau một lần đây !?

Tội nghiệp! Lý Thương Ẩn làm bài thơ nầy khi ái thê yêu qúy của ông đã qua đời. Vợ mất sớm nên đêm Thất Tịch ông đi vào trong trướng phụng hoàng chỉ thấy chiếc quạt có thêu hình chim loan chao nghiêng một bên không người quạt mà thôi. Nhìn lên trời lúc quá nửa đêm thì cảm thấy như chim ô thước đã bắc xong cầu mà bay về cả rồi; Có nghĩa là Ngưu Lang và Chức Nữ đã được gặp gỡ nhau rồi. Còn mình thì vẫn chỉ đơn độc có một mình. Làm sao mới có thể đánh đổi được sự chia tay vĩnh viễn để có được mỗi năm một lần gặp gỡ như là Ả Chức và Chàng Ngưu đây ?! Mỗi năm chỉ gặp gỡ nhau có một lần thôi mà có người ước ao còn không có được !!!

* Diễn Nôm:

Thất Tịch

Quạt loan nghiêng ngã bước vào phòng,
Ô thước bắc cầu thế đã xong.
Tử biệt làm sao mà đổi được,
Mỗi năm đoàn tụ thỏa hoài mong!?

Lục bát:

Trướng loan quạt ngã nghiêng sầu,
Bay về ô thước bắc cầu đà xong.
Âm dương đôi ngã cách ngăn,
Làm sao gặp gỡ mỗi năm một lần !?
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

5. Bài thơ Thất Tịch 七夕 của Bạch Cư Dị 白居易 đời Đường:

BẠCH CƯ DỊ 白居易(772~846)tự là Lạc Thiên 樂天; về già xưng là Hương Sơn Cư Sĩ 香山居士, ngươi đất Tân Trịnh thuộc Trịnh Châu tỉnh Hà Nam. Ông là nhà thơ hiện thực vĩ đại của buổi Trung Đường, đề tài rất đa dạng, ngôn ngữ lại bình dân dễ đi vào lòng người. Ông làm quan đến chức Hàn Lâm Học Sĩ, Tả Tán Thiện Đại Phu. Tác phẩm nổi tiếng tiêu biểu là "Mại Thán Ông 賣炭翁", "Trường Hận Ca 長恨歌", "Tỳ Bà Hành 琵琶行"... Và còn truyền lại hậu thế có "Bạch Thị Trường Khánh Tập 白氏長慶集". Sau đây là bài thơ THẤT TỊCH của ông.

煙霄微月澹長空, Yên tiêu vi nguyệt đạm trường không,
銀漢秋期萬古同。 Ngân Hán thu kỳ vạn cổ đồng.
幾許歡情與離恨, Kỷ hử hoan tình dữ ly hận,
年年並在此宵中。 Niên niên tịnh tại thử tiêu trung !

* Chú thích:

- Yên Tiêu: TIÊU 霄 là Bầu trời; nên YÊN TIÊU là Bầu trời như mờ khói.
- Vi Nguyệt: VI là mỏng , nhe, nhỏ; VI NGUYỆT là vầng trăng mờ mờ.
- Đạm: là Nhạt, là Lửng lơ, là Bàng bạc.
- Ngân Hán: là Sông Ngân Hà, còn gọi Thiên Hà.
- Kỷ Hử ? : Nghi vấn tự, có nghĩa là Bao Nhiêu ? Tán Thán Tự có nghĩa : Biết bao nhiêu !
- Hoan Tình: là Tình cảm hân hoan vui vẻ khi gặp mặt.
- Ly Hận: Nỗi hận sầu ly biệt khi phải chia tay.
- Tịnh : là Đều. TỊNH TẠI là đều ở tại ...
- Thử Tiêu: TIÊU 宵 là Đêm, nên THỬ TIÊU là Đêm nay, chỉ đêm THẤT TỊCH mùng bảy tháng bảy.

* Nghĩa bài thơ:

Bầu trời như mờ khói vì vầng trăng thượng tuần tỏa ánh sáng yếu ớt bàng bạc cả cỏi không. Dòng sông Ngân Hà đến kỳ hạn vào đầu thu (gặp gỡ giữa Ngưu Lang và Chức Nữ) lại lấp lánh như tự muôn thuở xa xưa. Biết bao nhiêu là tình cảm hân hoan vui mừng khi gặp gỡ cũng như biết bao nhiêu là hận sầu ly biệt lúc chia tay, Cứ hằng năm đều diễn ra trong đêm Thất Tịch nầy cả !
Rất bình dị, rất đơn sơ, chỉ kể lại cảnh đêm và chuyện gặp gỡ của Ngưu Lang Chức Nữ hằng năm theo thần thoại truyền thống, rồi cũng rất thực tế mà cảm thông cho đôi lứa sau một năm chia ly, chỉ gặp nhau có một đêm là lại phải chia tay. Chợt vui đó, chợt buồn đó. Vui thì hân hoan biết bao; Buồn thì cũng hận sầu biết mấy!

* Diễn Nôm:

Thất Tịch

Mây khói trăng mơ phủ khắp trời,
Ngân Hà thu đến hẹn đây rồi.
Biết bao vui gặp sầu xa cách,
Cứ thế năm nào cứ thế thôi!

Lục bát :
Khói sương bàng bạc trăng mờ,
Đến kỳ Ngưu Chức đợi chờ ngàn xưa.
Vui biết mấy, hận sao vừa,
Năm năm cứ thế trời chưa sáng trời!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

6. Bài thơ Khất Xảo 乞巧 của Lâm Kiệt 林傑 đời Đường

LÂM KIỆT 林傑(831~847)tự Trí Châu 智周. Thi nhân đời Đường. Ngưòi tỉnh Phúc Kiến. Lúc nhỏ rất thông minh, 6 tuổi đã biết làm thơ, hạ bút thành chương, lại tinh thông thư pháp kỳ nghệ (đánh cờ rất giỏi). Yểu chiết, chết khi chỉ mới có 17 tuổi. Trong "Toàn Đường Thi" chỉ để lại có 2 bài thơ. Sau đây là bài KHẤT XẢO 乞巧 cuả ông.

七夕今宵看碧霄, Thất Tịch kim tiêu khán bích tiêu,
牽牛織女渡河橋。 Khiên Ngưu Chức Nữ độ hà kiều.
家家乞巧望秋月, Gia gia KHẤT XẢO vọng thu nguyệt,
穿盡紅絲幾萬條。 Xuyên tận hồng ty kỷ vạn điều !

* Chú thích:

- KHẤT XẢO 乞巧: KHẤT là xin; XẢO là Khéo léo. Nên KHẤT XẢO là Cầu xin cho được khéo léo. Theo truyền thuyết, Chức Nữ là cô gái rất khéo tay, thêu dệt may vá đều rất giỏi; nên trong đêm THẤT TỊCH khi đặt bàn hương án cúng tế Ngưu Lang Chức Nữ ở giữa trời, thì ngoài hương hoa trà qủa ra, còn có cả các loại kim may kim thêu và các màu chỉ... Khi cúng tế, ngoài việc van vái cho có được một tình duyên tốt đẹp, một tấm chồng lý tưởng, các cô còn mong ước cầu xin cho có được đôi tay vàng khéo léo trong nữ công gia chánh. Sau đó thì dùng các sợi tơ hồng, chỉ đỏ đưa lên ánh trăng để xỏ qua các lổ kim. Trong một tuần hương cô nào xỏ qua được bảy lổ kim thì gọi là "ĐẮC XẢO 得巧", tức là đã đạt được sự khéo léo rồi đó ! Vì tục lệ trên nên đêm Thất Tịch còn được gọi là KHẤT XẢO TIẾT 乞巧節 là "ngày Lễ xin được sự khéo léo", và vì là ngày của các cô gái mới lớn, nên còn được gọi là NỮ NHI TIẾT 女兒節 nữa.
- Bích Tiêu : là Bầu trời xanh biếc.
- Độ Hà Kiều : là Đi ngang cầu do ô thước bắc qua sông (Ngân Hà).
- Hồng Ty : là Tơ hồng, là sợi chỉ màu đỏ.

* Nghĩa bài thơ:

Xin Khéo

Đêm nay là đêm Thất Tịch, nhìn lên bầu trời xanh biếc. Ta sẽ thấy Ngưu Lang và Chức Nữ sẽ đi ngang qua cầu được bắc ngang sông Ngân Hà để gặp nhau. Nhà nhà các cô đều cúng tế để xin được khéo léo, nên đều cùng nhìn lên ánh trăng thu và đã xỏ hết mấy muôn sợi chỉ đỏ ngang qua lổ kim rồi !
Quả là khung cảnh hồn nhiên nhí nhảnh vui tươi của các cô gái mới lớn. Các cô vừa mừng cho Ngưu Lang Chức Nữ được gặp mặt nhau, vừa háo hức cầu mong những ước nguyện trong lòng mình và lại vừa vui vẻ cố gắng thể hiện sự khéo léo của mình qua việc xỏ chỉ qua kim dưới ánh trăng thu lưỡi liềm của đêm thượng tuần mờ ảo.

* Diễn Nôm:

Khất Xảo

Ngắm trời Thất Tịch đêm xanh biếc,
Chức Nữ Ngưu Lang đã độ hà.
Khất Xảo nhà nhà nhìn trăng bạc,
Tơ hồng xỏ hết mấy muôn qua.

Lục bát:

Ngắm trời Thất Tịch canh thâu,
Ngưu Lang Chức Nữ qua cầu thong dong.
Nhà nhà Khất Xảo nhìn không...
Đối trăng xỏ hết tơ hồng mấy muôn!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

7. Bài thơ Thất Tịch 七夕 của Quyền Đức Dư 權德輿 đời Đường:

QUYỀN ĐỨC DƯ 權德輿(759-818), tự là Tải Chi 載之, người đất Thiên Thủy, Lược Dương (thuộc Thái An tỉnh Cam Túc hiện nay). Ông là nhà thơ, nhà văn và là Tể tướng của nhà Đường. Ba tuổi đã phân biệt được tứ thanh, bốn tuổi đã biết làm thơ, mười lăm tuổi đã nổi tiếng về văn chương. Năm Nguyên Hòa thứ 5 (810) là Thái Thường Khanh thăng lên Tể Tướng. Năm Nguyên Hòa thứ 8 (813) bị biếm làm Lưu thủ Đông đô. Năm Nguyên Hòa thứ 10 (815) làm Hình Bộ Thượng Thư. Năm Nguyên Hòa thứ 11 (816) xuất trấn làm Sơn Nam Tây Đạo Tiết Độ Sứ. Ông mất năm Nguyên Hòa thứ 13 (818) hưởng dương 58 tuổi. Tác phẩm để lại có "Quyền Tải Chi Văn Tập 權載之文集". Sau đây là bài thơ THẤT TỊCH 七夕 của ông.

今日雲駢渡鵲橋, Kim nhật vân biền độ thước kiều,
應非脈脈與迢迢。 Ưng phi mạch mạch dữ điều điều.
家人竟喜開妝鏡, Gia nhân cánh hỉ khai trang kính,
月下穿針拜九霄。 Nguyệt hạ xuyên châm bái cửu tiêu.

* Chú thích:

- Vân Biền: là Xe Mây, tương truyền xe của thần tiên đi có mây ngũ sắc (tường vân) bao phủ chung quanh.
- Mạch Mạch dữ Điều Điều : Lấy ý trong bài thơ ĐIỀU ĐIỀU KHIÊN NGƯU TINH 迢迢牽牛星 đời Tần Hán (Bài số 1. trong chùm thơ nầy).
- Trang Kính: là chiếc gương dùng để trang điểm.
- Xuyên Châm: là Xỏ kim, theo tục lệ Khất Xảo của đêm Thất Tịch.
- Cửu Tiêu: là Chín tầng trời. Ở đây chỉ chung là Bầu trời.

* Nghĩa bài thơ:
Đêm Mùng Bảy Tháng Bảy

Hôm nay các xe mây sẽ đưa Ngưu Lang Chức Nữ độ ngang qua cầu ô thước để gặp gỡ nhau. Đã không còn có chuyện nhìn nhau đắm đuối và xa xăm diệu vợi như trong bài thơ "Điều điều Khiên Ngưu Tinh" nữa. Người nhà lại rất vui vẻ mà mở ra những chiếc gương trang điểm để trang điểm cho đẹp và để xỏ kim dưới ánh trăng cầu xin cho được khéo léo khi hướng về chín từng trời để cúng bái.

Ta thấy đối với những gia đình giàu sang quyền qúy, đêm Thất Tịch là một lễ hội vui vẻ cho các bà các cô, các tiểu thơ các phu nhân... Họ cùng nhau mừng cho Ngưu Lang Chức Nữ được gặp mặt nhau, chứ không còn đứng ở hai bên bờ sông xa xa nhìn nhau đăm đắm nữa và đồng thời họ cũng trang điểm cho đẹp đẻ để cùng khoe tài khéo léo của đôi tay khi xỏ chỉ dưới vầng trăng thu thượng tuần mờ ảo và cùng ước mong cầu nguyện cho có được một tình duyên hoàn hảo hạnh phúc. Họ háo hức chào đón đêm Thất Tịch như Ngưu Lang Chức Nữ háo hức mong gặp gỡ nhau vậy.

* Diễn Nôm:

Thất Tịch

Xe mây rực rỡ cầu ô thước,
Chẳng phải đăm đăm diệu vợi xa.
Nhộn nhịp người nhà vui trang điểm,
Dưới trăng xỏ chỉ lạy trời xa!

Lục bát:

Đêm nay mây vượt cầu ô,
Ngưu Lang Chức Nữ thôi chờ thôi trông.
Người nhà trang điểm thỏa lòng,
Ngắm trăng xỏ chỉ nhìn không lạy trời!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét