4. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 4):
春日絕句(其四) Xuân Nhật Tuyệt Cú(Kỳ 4)
韋杜佳人繡鳳鞋, Vi Đỗ giai nhân tú phụng hài,
蹅春共趁賣花來。 Đạp xuân cộng sấn mại hoa lai.
西湖寺外醉何處, Tây Hồ tự ngoại túy hà xứ ?
鎮武觀頭遊幾回。 Trấn Võ Quán đầu du kỷ hồi!
高伯适 Cao Bá Quát
***
* Chú thích:
- Vi Đỗ 韋杜 : Tên một con phố ở đất Tràng An (Tây An) xưa, ở đây mượn để chỉ kinh thành Thăng Long của ta.
- Tú Phụng Hài 繡鳳鞋 : Giày có thêu hình chim phượng.
- Đạp Xuân 蹅春 : là Đi trong mùa xuân, là đi dạo chơi lúc xuân về; tương đương với từ ĐẠP THANH 踏青 là Đi dạo chơi trên thảm cỏ xanh non vậy.
- Sấn 趁 : là Thừa dịp, Sẵn dịp.
- TỰ 寺 : là Chùa của các Hòa thượng tu hành; QUÁN 觀 là ĐẠO QUÁN 道觀 là Chùa của các Đạo sĩ tu tiên.
* Nghĩa bài thơ:
Tuyệt Cú Ngày Xuân (4)
Các giai nhân của phố Vi đỗ trong kinh thành mang những đôi hài có thêu hình chim phượng; Các nàng đi dạo chơi trong mùa xuân rồi sẵn dịp lại ghé mua hoa xuân. Bên ngoài các chùa ở Tây Hồ nơi nào có thể say được đây ? (ý nói nơi nào có quán rượu); Ở đầu đường của Đền Trấn Võ ta đã dạo chơi qua mấy lượt ở đó rồi !(Ý chỉ nơi đó là nơi có quán rượu !).
Cảnh dạo chơi trong mùa xuân của các tài tử giai nhân trong ngày Lễ Tết khi xưa ở kinh thành Thăng Long. Cao Bá Quát cũng là một trong những chàng tài tử đi du xuân để nhìn ngắm các giai nhân mang hài có thêu hình chim phượng!
* Diễn Nôm:
Xuân Nhật Tuyệt Cú (Kỳ 4)
Hài phụng giai nhân Vi Khúc phố,
Mua hoa mượn dịp để du xuân.
Hồ Tây có thể say đâu nhỉ?
Trấn Võ đền xưa dạo mấy lần!
Lục bát:
Phố Vi hài phượng giai nhân,
Du xuân sẵn dịp xa gần mua hoa
Hồ Tây say khước đâu ta?
Đền ngoài Trấn Võ la cà mấy phen!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.
5. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 5):
春日絕句(其五) Xuân Nhật Tuyệt Cú (Kỳ 5)
綺石欄窗綵縷門, Ỷ thạch lan song thái lũ môn,
少年翁對鬱金樽。 Thiếu niên ông đối uất kim tôn.
三多矮枝佛手架, Tam đa ải chi Phật thủ giá,
五福皺葉水仙盆。 Ngũ phúc trứu diệp thủy tiên bồn.
高伯适 Cao Bá Quát
* Chú thích:
- Ỷ 綺 : Còn đọc là KHỈ, thuộc bộ MỊCH 糸 là sợi tơ bên trái, nên Ỷ 綺 là dải lụa có hoa văn đẹp đẽ; Trong bài thơ là Ỷ THẠCH 綺石 : chỉ những tảng đá có màu sắc rực rỡ, đẹp đẽ. Ỷ THẠCH ở đây cũng có thể chỉ Hòn Non Bộ giả làm cảnh cho đẹp.
- Lan Song 欄窗 : LAN là Lan Can, nên LAN SONG là Cửa sổ có trấn song.
- Thái Lũ Môn 綵縷門 : là Cửa có treo rèm màn có những sợi tơ màu đẹp đẽ.
- Thiếu Niên Ông 少年翁 : là Ông chủ còn trẻ, chỉ người thành đạt mà còn trẻ tuổi.
- Uất Kim Tôn 鬱金樽 : Chai đựng rượu có màu vàng của hoa Uất Kim Hương.
- Câu 3 : ý nói trái Phât Thủ thường có 3 ngón vươn dài ra (như hình minh họa đính kèm) tượng trưng cho Tam Đa là 3 cái nhiều (là Đa Phúc, Đa Thọ, Đa Nam Tử 多福,多寿,多男子).
- Câu 4 : Ý chỉ hoa của Hoa Thủy Tiên mặc dù 6 cánh nhưng lại trông giống như 5 cánh của hoa Bạch mai tượng trưng cho Ngũ Phúc là 5 điều Phước (là Thọ, Phú, Khang ninh, Du hảo Đức, Khảo chung mệnh 寿,富,康寜,攸好德,考终命. Có nghĩa là : Sống Thọ, Giàu sang, Khoẻ mạnh, có tiếng Đức tốt và Già Chết an lành).
Phật Thủ Thủy Tiên
* Nghĩa bài thơ:
Tuyệt Cú Ngày Xuân (5)
Song cửa sổ có trấn song, trước cửa lại có treo rèm màn với các tua màu sắc đẹp đẽ lại có những tảng đá cảnh đầy màu sắc. Trong nhà thì ông chủ nhà là một thiếu niên trẻ trung bên cạnh các chai rượu màu vàng của uất kim hương rực rỡ. Cái gía thấp để cành nhánh ngắn của quả Phật Thủ vươn dài ra như ba ngón tay tượng trưng cho Tam Đa và Giò Thuỷ Tiên với các lá quăn queo tượng trưng cho Ngũ Phúc.
Cảnh đón xuân trong giàu sang phú qúy của một người trẻ tuổi mà thành đạt, thiếu niên đắc chí, nếu không phải làm giàu trong chốn thương trường thì cũng là một đại khoa tuổi trẻ, quan trường đắc chí; quả là "Mãn môn xuân sắc thị vinh hoa" có khác !
* Diễn Nôm :
Xuân Nhật Tuyệt Cú (Kỳ 5)
Non bộ ngoài song cửa rực màn,
Thiếu niên chủ cả chén ly vàng.
Tam Đa phật thủ bày trên giá,
Ngũ Phúc Thủy Tiên chậu lá quăn.
Lục bát :
Màn che đá cảnh song rèm,
Thiếu niên đắc chí chai vàng uất kim.
Tam Đa phật thủ bày bên,
Ngũ Phúc lá cuốn Thủy Tiên một giò!
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
6. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 6):
春日絕句(其六) Xuân Nhật Tuyệt Cú(Kỳ 6)
巧偷誰差米家神, Xảo thâu thùy sái Mễ gia thần,
畫取江城一片春。 Họa thủ giang thành nhất phiến xuân.
煙柳如今更顏色, Yên liễu như kim cánh nhan sắc,
等閒迎送上年人。 Đẳng nhàn nghinh tống thượng niên nhân.
高伯适 Cao Bá Quát
***
* Chú thích:
- Xảo Thâu 巧偷 : THÂU có nghĩa là Trộm mà cũng có nghĩa là Lén nữa; nên XẢO THÂU vừa có nghĩa là Trộm một cách khéo léo, vừa có nghĩa là Len lén mộ cách khéo léo.
- Sái 差 : Còn đọc là SAI. Có nghĩa là Khiến; nên THÙY SÁI 誰差 Có nghĩa là "Ai khiến cho", "Ai đã làm nên... cái gì đó".
- Mễ Gia Thần 米家神 : là "Cái thần của nhà họ Mễ" là Hội Họa, Vì MỄ PHẤT 米芾 là một danh họa đời Tống, ông cũng là người đầu tiên viết về "Lịchh Sử Hội Họa" của Trung Hoa để đời với quyển "HỌA SỬ 畫史" nỗi tiếng đương thời.
- Họa Thủ 畫取 : là Vẽ lấy, vẽ ra, vẽ nên.
- Cánh Nhan Sắc 更顏色 : là Càng có nhan sắc hơn, ý nói "Càng đẹp hơn ra".
- Đẳng nhàn 等閒 : là Tầm thường, bình thường, không quan trọng.
- Thượng Niên Nhân 上年人 : là Người của những năm trước; hoặc là "Người đã có tuổi", Người đã già. Cao Bá Quát không sử dụng từ KHỨ NIÊN NHÂN 去年人 là Người của năm trước, mà dùng từ THƯỢNG NIÊN NHÂN là Người của những năm trước kể cả người đã già.
* Nghĩa bài thơ:
Tuyệt Cú Ngày Xuân (6)
Khen ai khéo lén mượn nét bút thần của nhà Mễ Phất để vẽ nên một vùng cảnh đẹp của xứ giang thành khi đã vào xuân; với sương khói mơ màng của những cành liễu hiện nay như ngày càng đẹp thêm ra, và vẫn như đón đưa du khách bình thường như những năm qua kể cả những người đã cao niên.
Mùa xuân và cảnh đẹp chẳng của riêng ai, không phải nét bút thần của nhà họ Mễ mới vẽ nên được, mà thiên nhiên tạo hóa đã vẽ nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp cho tất cả mọi người không phân biệt già trẻ lớn bé gì cả. Ai biết thưởng ngoạn thì cảnh đẹp của mùa xuân sẽ là của người đó thôi !
* Diễn Nôm:
Xuân Nhật Tuyệt Cú (Kỳ 6)
Khéo lén khen ai mượn bút thần,
Vẽ nên cảnh sắc buổi đầu xuân.
Giang thành tơ liễu càng xinh đẹp,
Đưa đón năm qua khách thưởng xuân.
Lục bát:
Mễ gia ai trộm bút thần,
Vẽ nên một bức tranh xuân Giang thành.
Khói sương tơ liễu buông mành,
Năm năm đưa đón cho đành khách xuân !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét