Lý Thương Ẩn 李商隱 (813-858) tự Nghĩa Sơn 義山, hiệu Ngọc Khê Sinh 玉 谿生, người Hà Nội, Hoài Châu (nay Tầm Dương, phủ Hoài Khánh, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Thuở thiếu thời giỏi văn thơ, được giao du với các con của tể tướng Lệnh Hồ Sở, trong đó có Lệnh Hồ Đào. Bấy giờ trong triều có hai phe đối nghịch nhau, tranh quyền đoạt lợi, một phe là Tăng Ngưu Nhu, phe kia là Lý Đức Dụ, hầu hết quan lại đều bị lôi cuốn vào cuộc tranh chấp ấy. Sở theo phe Ngưu. Năm Lý Thương Ẩn mười bảy tuổi (829), Sở tiến cử làm tuần quan mạc phủ. Năm hai mươi lăm tuổi (837), ông lại được Lệnh Hồ Đào khen ngợi, nâng đỡ nên đỗ tiến sĩ năm Khai Thành thứ 2. Năm sau ông được Vương Mậu Nguyên, tiết độ sứ Hà Dương mến tài, dùng làm thư ký và gả con gái cho. Chẳng may, Vương thuộc phe Lý Đức Dụ khiến ông trở thành kẻ vong ân bội nghĩa, xảo quyệt vô hạnh trong mắt Lệnh Hồ Đào. Vương Mậu Nguyên chết, rồi Lý Đức Dụ thất thế, ông đến kinh sư nhưng không được làm gì cả. Sau nhờ Trịnh Á vận động, ông được làm chức quan sát phán quan. Trịnh Á bị biếm ra Lĩnh Biểu, ông cũng đi theo. Ba năm sau ông lại trở về, làm truyện tào tại Kinh Triệu. Ông nhiều lần đưa thư, dâng thơ cho Lệnh Hồ Đào để phân trần và xin tiến dẫn, nhưng vẫn bị lạnh nhạt. Tiết độ sứ Đông Thục là Liễu Trọng Hĩnh dùng ông làm tiết độ phán quan, kiểm hiệu Công bộ viên ngoại lang. Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức. Như thế là ông mắc kẹt giữa hai phái, chưa hề được đắc chí trên hoạn lộ, cứ bôn tẩu khắp nơi: Tứ Xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây, Từ Châu nương nhờ hết người này đến người khác, long đong khốn khổ. Cuối cùng ông về đất Oanh Dương thuộc Trịnh Châu rồi bệnh chết năm 46 tuổi.
Văn Lý Thương Ẩn có phong cách khôi lệ ỷ cổ, thơ nổi tiếng ngang Ôn Đình Quân, nên người Đương Thời gọi là “Ôn - Lý”, hoặc ngang Đỗ Mục, nên được gọi là “tiểu Lý - Đỗ” (để phân biệt với “Lý - Đỗ” là Lý Bạch - Đỗ Phủ). Vương An Thạch đời Tống khen ngợi rằng người đời Đường học tập Đỗ Phủ mà đạt được mức “phiên ly” (rào dậu, xấp xỉ) của ông, thì chỉ có một mình Thương Ẩn. Dương Ức và Lư Tử Nghi mô phỏng thơ ông làm ra tập Tây Côn thù xướng nên có tên Tây Côn thể. Tác phẩm của ông có Phàn nam giáp tập (20 quyển), Ất tập (20 quyển), Ngọc khê sinh thi (3 quyển); ngoài ra còn một quyển phú và một quyển văn. Tương truyền ông có tình luyến ái với nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và các cung nữ Lữ Phi Loan, Khinh Phụng, nên ông làm bảy bài Vô đề mang tính diễm lệ, bí ẩn.
Thơ ca Lý Thương Ẩn có nhiều nét rất đặc sắc so với truyền thống thơ ca cổ điển Trung Quốc. Ông tiếp thu ảnh hưởng cổ thi, nhạc phủ Hán - Nguỵ và cả cung thể Lương - Trần. Ông cũng học tập ngũ ngôn hiện thực của Đỗ Phủ, phong cách lãng mạn của Lý Hạ cho nên thơ ông khá phức tạp cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật.
Đặc sắc nhất trong thơ Lý Thương Ẩn là thơ tình. Với những bài Vô đề, ta thấy được đời sống tình ái của kẻ sĩ đại phu xưa. Lễ giáo phong kiến và chế độ hôn nhân không cho phép tự do, vì thế không thoả mãn yêu đương, họ có nhiều ảo tưởng và khát vọng, hoặc là mang tâm trạng ẩn ức, hoặc là sống phóng đãng buông lung. Thơ Lý Thương Ẩn ít nhiều nói lên niềm mơ ước về hạnh phúc lứa đôi và có tính chống lại lễ giáo phong kiến. Những bài thơ Vô đề của ông âm điệu nhịp nhàng uyển chuyển, tình điệu thê luơng ai oán, niêm luật nghiêm túc chỉnh tề, ngôn từ gọt dũa bay bướm, tạo nên những hình tượng tươi đẹp, sinh động, cảm xúc sâu sắc chân thành. Tuy nhiên do không thể đấu tranh đập tan những gông cùm ấy nên ông, cũng như tầng lớp của ông, trở nên bi quan tiêu cực, bám lấy hư vô chủ nghĩa, kết hợp với sự suy tàn của thời đại và giai cấp.
Nhóm LTCD thế kỷ 21 hân hạnh gởi tới các bạn một bài nữa trong mục Thi-Nhạc-Giao-Tình. Đề tài lần này là Buồn-Tàn-Đời, phối hợp bài thơ Vô đề (Phụng vĩ hương la bạc kỷ trùng) của Lý Thương Ẩn và bài hát Buồn tàn thu của Văn Cao.
1/ Nguyên bản Dịch âm
無題(鳳尾香羅薄幾重) Vô Đề (Phụng Vĩ Hương La Bạc Kỷ Trùng)
鳳尾香羅薄幾重 Phụng vĩ hương la bạc kỷ trùng,
碧文圓頂夜深縫 Bích văn viên* đính dạ thâm phùng.
扇裁月魄羞難掩 Phiến tài** nguyệt phách tu*** nan yểm
車走雷聲語未通 Xa tẩu lôi thanh ngữ vị thông.
曾是寂寥金燼暗 Tằng thị tịch liêu kim tẫn ám,
斷無消息石榴紅 Đoạn vô tiêu tức thạch lựu hồng***.
斑騅只系垂楊岸 Ban chuy chỉ hệ thuỳ dương ngạn,
何處西南待好風 Hà xứ tây nam nhiệm hảo phong.
Chú giải
*碧文圓 Bích văn viên: Mũ xanh hình trụ dành cho đấng trượng phu.
**扇裁 phiến tài: mảnh vải nhỏ.
**月魄羞 Nguyệt phách tu: trăng mờ (như e thẹn)
***石榴紅 Thạch lựu hồng: hoa thạch lựu đỏ như máu vào tháng Năm. Điển tích: có một nàng sinh giữa tết Nguyên tiêu trên thuyền. Ông bố tên là Thạch, chả biết đặt tên cho nàng là gì. Bà mẹ nhìn lên bờ thấy hoa trên hàng cây lựu đỏ như máu bèn đặt tên cho nàng là Thạch lựu. Điển này chỉ muốn nói rằng đã tới tháng Năm rồi (mà vẫn không có tin tức của chàng).
Dịch nghĩa
Không Đầu Đề (Màn Hương Đuôi Phượng Rủ Nhiều Tầng)
Màn thơm vẽ đuôi phượng rủ nhiều tầng
Canh khuya may chiếc mũ tròn màu xanh (cho chồng)
Những mảnh vải nhỏ, dưới trăng mờ, khó lắp với nhau cho khít
Xe chạy như tiếng sấm ran, át cả lời nói thầm (của thiếp)
Từng ngồi trong cô tịch, ánh đèn mờ mờ (kể khổ)
Không rõ tin tức, hoa thạch lựu đã hồng (tiếp tục kể khổ: đã tới mùa hè rồi mà chàng vẫn chưa về!)
Buộc ngựa Ban truy bên cây thuỳ dương (để ngóng chàng)
Nơi nào có cơn gió lành thổi về tây nam (để thổi chàng về đây)
Dịch thơ
Không Đầu Đề (Phượng Vĩ Màn Thơm Rủ Mấy Tầng)
Phượng vĩ màn thơm rủ mấy tầng
Thức đêm may chiếc mũ xanh tròn*
Nguyệt mờ vải nhỏ khôn khâu đúng**
Xe chạy ồn ào át tiếng lòng
Từng ngắm tịch liêu đèn mờ ảo
Chẳng nghe tin tức lửa lựu hồng***
Thùy dương buộc ngựa Ban Chuy đó
Chờ gió tây nam có lành**** không?
Lời bàn
Bài thơ thất ngôn bát cú rất cô đọng, thâm thúy và cảm động. Nỗi buồn vô vọng (buồn-tàn-đời) phảng phất trong mỗi câu thơ. Những chữ in nghiêng là nghĩa bóng.
Hai câu đầu:
Tả người vợ qúy phái (nhà có màn phượng vĩ và ngựa Ban chuy) thức đêm may mũ xanh tròn (cho chồng).
Hai câu 3 & 4:
Á́nh trăng thì mờ ảo (nguyệt phách tu) mà mảnh vải thì nhỏ (phiến tài) nên khó đặt đúng chỗ để khâu (dù vất vả khó khăn đến đâu em cũng gắng sức may mũ đẹp cho chàng). Xe (ngoài đường) chạy ầm ầm nên không ai nghe được lời nói thầm của thiếp (nàng lẩm bẩm những lời ân ái trong lòng, hy vọng linh hồn chàng cảm thông được).
Hai câu 5 & 6:
Thiếp đã từng ngắm cảnh tịch liêu dưới ánh sáng lờ mờ (kể khổ trong nhiều đêm vắng chồng). Đã tới hè rồi (hoa thạch lựu đã đỏ) mà vẫn không có tin tức của chàng (tiếp tục kể khổ).
Hai câu 7 & 8
Nói lên nỗi mong chờ tuyệt vọng của nàng: Cỡi ngựa Ban Chuy (ngựa qúy) ra rặng liễu (liễu là biểu hiệu của chia ly) cũng chỉ biết buộc ngựa vào cây liễu để (ngóng chàng). Chả biết nơi nào có gió lành thổi về tây nam (để em nhờ gió đưa chàng về).
**** Chàng mà về theo gió thì nguy hiểm lắm; cho nên thiếp phài chọn cơn gió lành (hảo phong) để chở chàng về; chữ lành rất quan trọng; bằng mọi cách, dù thiếu chỗ, ÔC cũng phải tìm cách nhét nó vào câu thơ dịch này.
2/ Buồn-Tàn-Thu
Văn Cao
(Mời các bạn bấm vào link màu xanh để nghe Thái Thanh, giọng ca vô địch cho bài Buồn-Tàn-Thu (chỉ 3 tiếng đầu tiên “ai lư-ớ-t đi…” cũng đủ nâng cô lên đài danh vọng)
Lời ca
Ai lướt đi ngoài sương gió
Không dừng chân đến em bẽ bàng
Ôi vừa thoáng nghe em
Mơ ngày bước chân chàng
Từ từ xa đường vắng
Đêm mùa thu chết
Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng
Em ngồi đan áo
Lòng buồn vương vấn
Em thương nhớ chàng
Người ơi còn biết em nhớ mong
Tình xưa còn đó xa xôi lòng
Nhờ bóng chim uyên nhờ gió đưa duyên
Chim với gió
Bay về chàng quên hết lời thề
Áo đan hết rồi
Cố quên dáng người
Chàng ngày nao tìm đến còn nhớ đêm xưa
Kề má say sưa
Nhưng năm tháng qua dần mùa thu chết bao lần
Thôi tình em đấy như mùa thu chết rơi theo lá vàng
Nghe bước chân người sương gió
Xa dần như tiếng thu đang tàn
Ôi người gió sương em mơ thương ái bao lần
Và chờ tin hồng đến
Đem mùa thu chết
Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng
Em ngồi đan áo
Lòng buồn vương vấn em thương nhớ chàng
Người ơi còn biết em nhớ mong
Đường xưa còn đó xa xôi lòng
Nhờ bóng chim uyên nhờ gió đưa duyên
Chim với gió
Bay về chàng quên hết lời thề
Lời bàn
Bài hát này được Văn Cao sáng tác trong thập niên 1940, tả tâm trạng của một thiếu nữ chờ mong người tình trong tuyệt vọng. Tuổi xuân của nàng như lá úa mùa Thu mà chàng thì như cái bóng mờ nơi chân trời. Tại sao chàng không về? Phải chăng chàng có trở ngại không thể về được? Hay là chàng đã quên thiếp rồi? Không có câu trả lời dứt khoát trong ngôn từ của bài hát… Chỉ nghe được lời than tuyệt vọng của nàng lúc cuối bài: Thôi tình em đấy, như mùa Thu chết rơi theo lá vàng.
Con Cò
***
Vô Đề (phụng vĩ hương la bạc kỷ trùng)Đuôi phượng màn hương rủ mấy tầng
Suốt đêm mũ biếc cố may xong
Trăng mờ quạt nhỏ che còn thẹn
Xe chạy sấm rền nói chẳng thông
Từng sống cô liêu tàn lửa nhạt
Chẳng hay tin tức lựu hoa hồng
Ngựa chuy buộc tạm bờ dương liễu
Đâu chốn tây nam đón gió nồng?
Lộc Bắc
***
Không Đề Tài.
1/
Vẽ phượng màn thơm lớp lụa là,
Mũ xanh tròn ráp suốt canh tà.
Trăng mờ vài nhỏ khâu vào khó,
Sấm nổ xe ồn nói chẳng ra.
Vẫn ngắm âm thầm tro bụi nến,
Không còn tin tức lựu hồng hoa.
Ban Chuy buộc tại bên hàng liễu,
Đợi gió tây nam tốt tới nhà.
2/
Màn vẽ phượng nhiều tầng thơm phức,
May mũ xanh cơ cực đêm thâu.
Trăng mờ vải nhỏ khó khâu,
Xe ồn tựa sấm nghe đâu rõ lời.
Âm thầm đợi dầu vơi nến tắt,
Lựu nở hồng vẫn bặt người thương.
Ban Chuy buộc gốc thùy dương,
Nơi nào gió tốt thuận đường tây nam.
Mỹ Ngọc
July 23/2023.
***
Bài Không Tên
Màn hương thêu Phượng lụa hoa văn
Đêm trắng nhớ chàng dệt chiếc khăn
Nan quạt hình trăng đâu giấu sắc!!!
Xe khua lăn bánh át lời tâm???
Đèn vàng nhàn nhạt thâu canh đợi
Lựu đỏ đậm màu tin bặt tăm?!
Ngựa cột bên bờ dương liễu rũ
Tây Nam gió lạnh chạnh lòng chăng!
Kiều Mộng Hà
July23rd2023
***
Gió Lành Ước AoMàn thêu phượng vĩ ngát hương,
Giai nhân kết nón - vấn vương nhớ người.
Ngồi bên song cửa chơi vơi,
Quạt tròn e ấp khắc thời dung nhan.
Bánh xe cọc cạch ầm vang,
Chút lời gởi gấm - giọng nàng chớ nghe.
Canh khuya cô tịch ê chề,
Ngọn đèn sáp lụn, đêm về riêng ta.
Đỏ màu thạch lựu mượt mà,
Vẫn không tin tức dặm xa ngút ngàn.
Ban Chuy tuấn mã hí vang,
Buộc vào gốc liễu ngoài đàng thướt tha.
Hảo phong hãy nổi hoan ca,
Tây nam tìm đến - đôi ta trùng phùng...
Khánh-Hưng
Ngồi bên song cửa chơi vơi,
Quạt tròn e ấp khắc thời dung nhan.
Bánh xe cọc cạch ầm vang,
Chút lời gởi gấm - giọng nàng chớ nghe.
Canh khuya cô tịch ê chề,
Ngọn đèn sáp lụn, đêm về riêng ta.
Đỏ màu thạch lựu mượt mà,
Vẫn không tin tức dặm xa ngút ngàn.
Ban Chuy tuấn mã hí vang,
Buộc vào gốc liễu ngoài đàng thướt tha.
Hảo phong hãy nổi hoan ca,
Tây nam tìm đến - đôi ta trùng phùng...
Khánh-Hưng
***
A light phoenix-tail silk curtain, fragrant and doubled, hanged heavily,
Góp ý:
Bát Sách rất thích mấy bài Vô Đề của Lý, nhưng cũng vỡ đầu vì nó khó hiểu, mơ hồ, đầy ẩn ý, đoán không ra.
Bài này tương đối đỡ hơn một chút, nhưng lại có mấy chữ khó, như Bích Văn Viên, Phiến Tài, Thạch Lựu Hồng, nếu không được ÔC giải thích thì BS cũng lội..
Không biết ÔC tìm ở đâu ra vậy?
BS coi bài trong Thi Viện thì thấy 2 chỗ sai:
1) Câu 3, phiến tài nguyệt PHÁCH, viết đúng chữ, nhưng phiên âm sai là Sắc. Bản của ÔC thì đúng.
2) Câu chót, NHIỆM hảo phong, nhưng đó là chữ ĐÃI, cũng viết đúng nhưng phiên âm sai. Câu này thì ÔC sai như Thi Viện.
Vô Đề (Phượng Vĩ Hương La Bạc Kỷ Trùng)
Phượng vĩ màn thơm rủ mấy tầng,
Nửa đêm may mũ biếc mầu xuân,
Vải nhỏ, trăng mờ, không ghép nổi,
Xe chạy vang vang át tiếng thầm.
Từng đã bên đèn ngồi hiu quạnh,
Chẳng nghe tin tức lựu hồng đâm,
Bạn Chuy buộc nhẹ bên bờ liễu,
Chờ gió tây nam gửi tình thâm..
Bát Sách.
(ngày 24/07/2023)
@ trả lời của mirordor:
... mấy chữ khó, như Bích Văn Viên ...
Trích từ 凤尾香罗薄几重
起联写女主人公深夜缝制罗帐。凤尾香罗,是一种织有凤 罗帐 的薄罗;碧文圆顶,指有青碧花纹的圆顶罗帐。khởi liên tả nữ chủ nhân công thâm dạ phùng chế la trướng. phượng vĩ hương la, thị nhất chủng chức hữu phượng văn đích bạc la; bích văn viên đính, chỉ hữu thanh bích hoa văn đích viên đính la trướng。
Dịch đại khái hai câu đầu tả người đàn bà thêu màn là ban đêm. ‘Phượng vĩ hương là’ tả một loại màn lụa mỏng có thêu chữ giống đuôi phượng; 'bích văn viên đính' chỉ mùng lưới hình chỏm tròn có chữ màu lục. Hình của cái 'viên đính la trướng' giống thế này:
体味=la trướng còn có tên là 蚊帳=văn trướng (mùng muỗi) và ta có thể để ý rằng 蚊 (chữ) và 纹 (muỗi) là hai từ đồng âm với 文.
Bát Sách
***
Nguyên tác: Phiên âm:
無題二首 其一 Vô Đề Nhị Thủ Kỳ 1
李商隱 Lý Thương Ẩn
鳳尾香羅薄幾重 Phượng vĩ hương la bạc kỷ trùng
碧文圓頂夜深縫 Bích văn viên đính dạ thâm phùng
扇裁月魄羞難掩 Phiến tài nguyệt phách tu nan yểm
車走雷聲語未通 Xa tẩu lôi thanh ngữ vị thông
曾是寂寥金燼暗 Tằng thị tịch liêu kim tẫn ám
斷無消息石榴紅 Đoạn vô tiêu tức thạch lưu hồng
斑骓隻繫垂楊岸 Ban chuy chỉ hệ thùy dương ngạn
何處西南任好風 Hà xứ tây nam nhâm hảo phong
Bài Vô Đề Nhị Thủ mà sách Lý Nghĩa San Thi Tập do Lý thương Ẩn soạn và Ngự Định Toàn Đường Thi của nhà Thanh, luôn luôn đăng chung Kỳ 1 và Kỳ 2.
Các mộc bản khác:
Ngự Định Toàn Đường Thi Lục - Thanh - Từ Trác 御定全唐詩錄-清-徐倬
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選-明-曹學佺
Hậu Thôn Thi Thoại - Tống - Lưu Khắc Trang 後村詩話-宋-劉克莊
Ghi chú:
Hương la: tơ lụa mịn mỏng có hoa văn
Phượng vĩ hương la: tơ lụa có hình đuôi phượng
Bích văn: một thứ khăn hay nón đội đầu màu xanh
Phiến tài: quạt che mặt
Nguyệt phách: chỉ trăng đầu tháng không mấy sáng sủa
Kim tẫn: tro tàn của tim đèn nến
Ban chuy: tuấn mã, ngựa màu lông xanh trắng xen lẫn
Thùy dương: liễu rủ; dương liễu thường được sử dụng trong thơ cổ
Hảo phong: gió lành thổi về tây nam để đưa mình đến gần người yêu
Dịch nghĩa:
Vô Đề Nhị Thú Kỳ 1
Phượng vĩ hương la bạc kỷ trùng
Dệt lụa đuôi phượng nhiều lớp mỏng dày,
Bích văn viên đính dạ thâm phùng
Canh khuya may chiếc mũ tròn màu xanh biếc
Phiến tài nguyệt phách tu nan yểm
Quạt như trăng thẹn không che được khuôn mặt đẹp
Xa tẩu lôi thanh ngữ vị thông
Nhưng tiếng xe ầm ầm, át cả tiếng nói
Tằng thị tịch liêu kim tẫn ám
Từng ngồi trong cô đơn, ánh đèn mờ mờ tim rụi tàn
Đoạn vô tiêu tức thạch lưu hồng
Không có tin tức, chờ đến khi hoa thạch lựu đỏ hồng
Ban chuy chỉ hệ thùy dương ngạn
Có lẽ đang buộc ngựa trắng đốm xanh nơi cây liễu rủ,
Hà xứ tây nam nhậm hảo phong
Làm thế nào có thể chờ đợi cho đến cơn gió lành thổi về tây nam.
Chủ thể bài thơ là mối tình tuyệt vọng của thiếu nữ đêm khuya hồi tưởng chuyện ngày xưa. Trong 2 câu nhập đề, thi nhân cho biết nhân vật chính làm gì ban đêm mà không cho biết ý nghĩa của câu chuyện cũng như không xác định nhân vật chính là ai. Qua các cụm từ phượng vĩ la hương, dạ thâm khâu…ta đoán biết nhân vật chính là một thiếu phụ phòng khuê ở một mình và đang dệt lụa và khâu nón. Nàng tự nói chuyện với mình. Một lần nàng và chàng ngẫu nhiên gặp nhau không có hẹn. Nàng e thẹn cầm quạt che mặt nên chàng không thấy rõ dung nhan. Xe chàng chạy qua nhanh và ồn ào không nghe nói gì nhau. Lần đầu gặp nhau cũng như không. Sau đó không tin tức nhau. Do vậy nàng mới ngồi trong cô đơn dưới ánh đèn sắp tàn và nghĩ có lẽ không còn cơ hội gặp lại cho đến khi hoa lựu đỏ hồng. Trong đoạn kết, nàng tưởng tượng chàng đang ở gần, đang cột tuấn mã bên cây dương liễu và ước mong ngọn gió lành đưa chàng đến với mình.
Dịch thơ:
Hồi Ức
Dệt lụa phượng hoàng lớp mỏng dày,
Đêm khuya nón tặng nàng còn may.
Quạt như trăng thẹn che khuôn mặt,
Xe tiếng sấm gầm ù cả tai.
Tim rụi đèn mờ lòng thổn thức,
Lựu hồng đã nở chẳng tin hay.
Ngựa chàng đang buộc nơi cành liễu,
Theo ngọn gió lành hãy đến đây.
Without Title by Li Shang Yin
A light phoenix-tail silk curtain, fragrant and doubled, hanged heavily,
Late in the night, she still stitched the green round hat for him.
Under the dim moonlight, the small patches were difficult to fit closely,
The rattle of the carriage drowned the hushing of my voice.
I was used to sit in the silent stillness beside the dying candles,
The pomegranates flowers had turned red yet no new from you.
You might be tethering the Banzhui horse by the willow row.
Where could I find a favorable wind blowing Southwest to bring you home.
To One Unnamed IV by Li Shangyin
Translation by Witter Bynner
A faint phoenix-tail gauze, fragrant and doubled,
Lines your green canopy, closed for the night....
Will your shy face peer round a moon-shaped fan,
And your voice be heard hushing the rattle of my carriage?
It is quiet and quiet where your gold lamp dies,
How far can a pomegranate-blossom whisper?
I will tether my horse to a river willow
And wait for the will of the southwest wind.
Untitled I of II (To an Unidentified Infatuation) by Li Shangyin
Translation by Betty Tseng
Sitting behind layers of thin wallflower draperies embroidered with phoenix tails,
She busied over brocading an emerald curtain dome in the still of night.
Over there she sat with a round fan trying to her shyness hide,
Before we could words exchange, in a series of claps a carriage had taken her away.
I've been passing nights in loneliness till candles have burnt out and flames extinguished,
Now that pomegranate are flowering red, yet I still have not her tidings.
Under a willow tree by the embankment I have my spotty nag tied,
To the west, to the south or wherever blows the wind, where could I my lady find?
Cập nhật ngày 24-7-2023
Bài viết ngày 20-5-2021:
(với hiểu nghĩa bảo thủ hơn)
Bài thơ luật 8 câu 7 chữ nói lên sự cay đắng thất vọng của một phụ nữ trẻ trong đêm khuya. Nội dung chính của bài thơ là độc thoại về một số sự kiện cụ thể trong cuộc sống tình yêu của nàng, được tiết lộ một cách ẩn ý hoặc rõ ràng qua hồi ức.
Hai câu đầu cho thấy một phụ nữ giàu sang, nhưng cô đơn trong đêm khuya. Chữ la 羅 trong câu 1 được xài trong cổ thi thường như một biểu tượng của sự hòa hợp nam và nữ. Nhưng ở đây thì thiếu phụ ngồi lặng lẽ trong đêm dài, đang chìm đắm trong dòng hồi tưởng quá khứ với niềm mong chờ ngày đoàn tụ. Có thể chàng đang cột ngựa ở gần đâu đó trên đường về. Cuối cùng một cơn gió lành cũng là niềm hy vọng dù mỏng manh.
Dịch nghĩa:
Không Đề
Màn the mỏng có vẽ đuôi phượng nhiều tầng và có hương thơm,
Đêm khuya may cho chồng chiếc mũ tròn màu xanh.
Dưới trăng mờ như e thẹn, những mảnh vải nhỏ khó ráp với nhau cho khít,
Tiếng xe chạy như sấm nổ, át cả lời thì thầm của thiếp.
Từng ngồi trong cô tịch bên ngọn nến mờ sắp tàn,
Hoa thạch lựu đã nở hồng mà không được tin tức gì của chàng.
Có thể chàng đang cột ngựa Ban Chuy bên hàng dương liễu,
Nơi nào có gió lành thổi hướng tây nam để đưa chàng trở về quê hương.
Dịch thơ:
Chờ Chồng
Màn the thêu phượng tỏa mùi hương,
Đêm vắng nhớ chàng dạ vấn vương.
Trăng thẹn lu mờ, vải khó ráp,
Tiếng xe rộn rã, át tình thương.
Quen trong cô tịch nến tàn rụi,
Lựu hoa nở đỏ tin không thường.
Cột ngựa Ban Chuy bên hàng liễu,
Gió lành sớm đẩy chàng hồi hương.
Phí Minh Tâm
***
Ngóng chồng
Canh khuya màn phượng ngát thơm hương
Thao thức ngồi may chiếc mũ thương
Chấp vải dưới trăng mờ khó ráp
Tiếng xe ngoài ngõ phá đêm trường
Cô đơn ánh nến chờ hiu hắt
Thạch lựu vào hè đỏ nắng sương
Mong ngóng tin chàng phai úa sắc
Gió lành đưa đẩy sớm hồi hương
Thanh Vân
Canh khuya màn phượng ngát thơm hương
Thao thức ngồi may chiếc mũ thương
Chấp vải dưới trăng mờ khó ráp
Tiếng xe ngoài ngõ phá đêm trường
Cô đơn ánh nến chờ hiu hắt
Thạch lựu vào hè đỏ nắng sương
Mong ngóng tin chàng phai úa sắc
Gió lành đưa đẩy sớm hồi hương
Thanh Vân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét