Nguyên tác Dịch âm
菩薩蠻其8 Bồ tát man kỳ 9
滿宮明月梨花白 Mãn cung minh nguyệt lê hoa bạch,
故人萬里關山隔 Cố nhân vạn lý quan san cách.
金雁一雙飛 Kim nhạn nhất song phi,
淚痕沾繡衣 Lệ ngân triêm tú y.
小園芳草綠 Tiểu viên phương thảo lục,
家住越溪曲 Gia trú Việt khê khúc.
楊柳色依依 Dương liễu sắc y y,
燕歸君不歸 Yến quy quân bất quy.
Chú Thích:
Bồ tát man 菩薩蠻: tên từ điệu. Bài này cũng thuộc loại khuê oán. Thể từ Bồ Tát Man có 8 câu, 44 chữ, 2 câu thất ngôn và 6 câu ngũ ngôn. Từng cặp câu vần trắc vần với nhau và từng cặp thơ vần bằng cũng vần với nhau.
Mãn cung 滿宮: ở đây có nghĩa là "Mãn thất": đầy nhà, đầy phòng.
Cố nhân 故人= hữu nhân 友人: người bạn.
Kim nhạn 金雁: chim nhạn vàng, hoặc là hình thêu chim nhạn trên áo bằng sợi chỉ vàng, hoặc là ám chỉ thư tín của người thân ở phương xa gửi về.
Triêm 沾: thấm ướt.
Việt khê 越溪: tên dòng suối nước Việt, tức là Nhược Da khê, quê hương của Tây Thi, nay ở tỉnh Chiết Giang, TH. Thiếu phụ tự so sánh với Tây Thi.
Khúc 曲: đoạn, uốn khúc.
Y y 依依: bồi hồi.
Yến 燕: chim én, bản khác chép "Nhạn": chim nhạn.
Quân 君: chàng, chỉ người bạn. Cũng có người nói chữ quân ở đây chỉ cung nữ.
Dịch Nghĩa
Bồ tát man kỳ 9
Trăng sáng chiếu đầy nhà, (như) hoa lê trong vườn mầu trắng.
Người bạn cách muôn dặm quan san.
(Trên áo thêu) đôi nhạn vàng cùng bay,
Vết nước mắt thấm ướt trên áo thêu.
(Nhìn) Cỏ thơm xanh mướt trong căn vườn nhỏ,
(Lại nghĩ đến) Quê nhà ở đoạn suối Việt khê uốn khúc (Nhược Da khê).
Mầu dương liễu bồi hồi (đầy xuân tình)
Chim én bay về (đem theo bao ý xuân), nhưng người không thấy về.
Dịch thơ
Bồ tát man kỳ 9
Trăng sáng đầy nhà như hoa trắng,
Cố nhân vạn dặm non ải vắng.
Đôi nhạn vàng thêu bay,
Lệ thấm áo thêu này.
Cỏ thơm xanh vườn nhỏ,
Nhược Da quê ta đó.
Dương liễu sắc ủ ê,
Yến về chàng không về.
Con Cò
***
Nguyên tác: Phiên âm: 菩薩蠻其9 -溫庭筠 Bồ Tát Man Kỳ 9 – Ôn Đình Quân
滿宮明月梨花白 Mãn cung minh nguyệt lê hoa bạch
故人萬里關山隔 Cố nhân vạn lý quan san cách
金雁一雙飛 Kim nhạn nhất song phi
淚痕沾繡衣 Lệ ngân triêm tú y
小園芳草綠 Tiểu viên phương thảo lục
家住越溪曲 Gia trú Việt khê khúc
楊柳色依依 Dương liễu sắc y y
燕歸君不歸 Yến quy quân bất quy
Bài thơ này của Ôn Đình Quân là một trong 15 điệp khúc của bài Bồ Tát Man. Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁 cho là kỳ 9 của 15 kỳ, Hoa Thảo ? Biên - Minh - Trần Diệu Văn 花草稡編-明-陳耀文 cho là kỳ 10 của 13 kỳ, trong khi Từ Tống - Thanh - Chu Di Tôn 詞綜-清-朱彝尊 cho là kỳ 4 và chỉ khắc bản có 7 kỳ.
Ghi chú: Bồ Tát Man: Theo Hán Điển Zdic.net, Bách Độ Bách Khoa 百度百科, trang web Sưu Vân cũng như Hán Ngữ Đại Từ Điển 漢語大詞典, Bồ Tát Man là một bài từ, bài ca, bài hát của Giáo Phường thời Đường, còn có tên Tử Dạ Ca, Trọng Diệp Kim và nhiều tên khác. Một nghĩa khác là tiếng người Trung Hoa thời Tống gọi người Hồi. Theo Wiktionary, Bồ tát man = 菩薩蠻 = (bính âm) púsàmán là phiên âm của tiếng Ba Tư مسلمان (mosalmân). Chữ bồ tát ở đây không có nghĩa thông thường người giác ngộ của Phật giáo, chữ man蠻viết giống như trong Nam man南蠻, không biết có hậu ý là man rợ hay không. Tiếng Pháp musulman có lẽ cũng do phiên âm tiếng mosalmân mà ra. Bồ Tát Man là bài từ có 44 chữ. Hai câu đầu 7 chữ và có vần trắc. Sáu câu còn lại mỗi câu 5 chữ. Câu 3 và 4 có vần bằng. Câu 5 và 6 có vần trắc. Câu 7 và 8 có vần bằng. Các chữ trong câu phải có thanh bằng hay trắc như bản bên dưới.
B B T T B B Tv X B X T B B Tv
B B T T B B Tv X B X T B B Tv
T T T B Bv X T T B Bv
T B B T Bv X B X T Bv
T B B T Tv X B B T Tv
T T B B Tv X T X B Tv
B T T B Bv X T T B Bv
B B B T Bv X B X T Bv
Ghi chú:
B: thanh bằng không bắt buộc
B: thanh bằng bắt buộc
Bv: thanh bằng vần
T: thanh trắc không bắt buộc
T: thanh trắc bắt buộc
Tv: thanh trắc vần
X: thanh bằng hay trắc cũng được
Kim nhạn: hình chim nhạn thêu trên áo bằng chỉ vàng, thư tín của người thân yêu ở xa gửi về. Người xưa có câu nói về hồng nhạn đưa thư.
Việt khê: dòng suối ở nước Việt (cổ Trung Hoa), tương truyền Tây Thi giặt lụa ở dòng suối này. Trang Sưu Vân 詩詞 溫庭筠 菩薩蠻 其九, Bách Độ Bách Khoa 百度百科, Trung Hoa Cổ Thi Văn Cổ Thư Tịch Võng 中華古詩文古書籍網…cho Việt Khê là Nhược Da Khê, ở Thiệu Hưng, Chiết Giang ngày nay.
Dịch nghĩa:
Bồ Tát Man Kỳ 9 Bồ Tát Man Kỳ 9
Mãn cung minh nguyệt lê hoa bạch
Trăng sáng đầy phòng, trắng như hoa lê trong vườn,.
Cố nhân vạn lý quan san cách
Người yêu dấu cách xa vạn dặm (gặp lại nhau quá khó khăn phải qua nhiều ải và núi non).
Kim nhạn nhất song phi
Đôi nhạn vàng thêu trên áo cũng muốn cùng bay đi (được nói đến ngay trong kỳ 1),
Lệ ngân triêm tú y
Nước mắt thấm ướt áo thêu nhiều màu.
Tiểu viên phương thảo lục
Nhìn cỏ thơm xanh mướt trong vườn nhỏ bé,
Gia trú Việt khê khúc
Lại nhớ đến quê hương ở khuỷu suối Việt.
Dương liễu sắc y y
Dương liễu phất phơ lưu luyến
Yến quy quân bất quy
Én xuân đã về nhưng chàng không trở về.
Dịch thơ:
Ta có thể dịch bài Bồ Tát Man như một bài thơ bát cú hay một bài cổ phong. Nếu dịch như một bài từ Bồ Tát Man, cần lưu ý đến các yêu cầu về thanh vận nêu trong Ghi chú bên trên. Luật bằng trắc của Bồ Tát Man khác với thơ bát cú Đường luật rất nhiều. Một ví dụ là, trong thơ Đường luật, nhất tam ngũ bất luận. Nhưng rõ ràng là luật Bồ Tát Man không phải vậy. Tôi xin tạm phỏng dịch bài của Ôn Đình Quân ra một bài Bô Tát Man:
Luật bằng trắc Bồ Tát Man: Lưu Luyến
X B X T B B Tv Sáng trăng phòng trống hoa lê trắng,
X B X T B B Tv Non sông vạn dặm người yêu vắng.
X T T B Bv Tung cánh cập chim vàng,
X B X T Bv Áo thêu thắm lệ tràn.
X B B T Tv Thơm xanh vườn bé nhỏ,
X T X B Tv Chợt nhớ quê hương đó.
X T T B Bv Dương liễu rủ lê thê,
X B X T Bv Én về chàng chẳng về.
và một bài thơ cổ phong vì không thể đáp ứng được đòi hỏi của một bài thơ Đường luật, nhất là về cấu trúc và đối xứng.
Nhớ Thương
Sáng trăng phòng trắng như hoa lê,
Người yêu vạn dặm bao nhiêu khê.
Đôi nhạn thêu vàng muốn tung cánh,
Áo thêu nước mắt ướt dầm dề.
Cỏ thơm xanh ngát trong vườn nhỏ,
Lại nhớ quê nhà suối Việt khê.
Dương liễu phất phơ màu lưu luyến,
Én Xuân đã đến chàng chưa về.
Pu Xa Man 9 by Wen Ting Yun
Moonlight filled the chamber, white as pear flowers,
My love is ten thousand miles away, separated by fortresses and mountains.
The pair of golden embroidered swallows want to fly together,
Dried tears dampen my multicolored robe.
Flagrant herbs are green in the small garden,
The willows swing idly invoking memories,
The spring swallows have returned and when do you come back, my love?
Phí Minh Tâm
***
Bồ Tát Man Kỳ 9
1-
Ngập cung, trăng sáng hoa lê tuyết
Bạn xưa vạn dặm quan san biệt
Đôi nhạn vàng cùng bay
Ngấn lệ áo thêu đầy
Vuờn con cỏ thơm biếc
Nhà ở khe suối Việt
Dương liễu sắc buồn tê
Yến về, chàng chẳng về!
2-
Trăng ngập cung, hoa lê ánh tuyết
Bạn ngày xưa cách biệt dặm dài
Nhạn vàng chắp cánh cùng bay
Áo thêu lệ thấm loang đầy dấu hoen
Vườn hoa nhỏ hương len thơm nức
Nhà Việt khê uốn khúc lượn lờ
Liễu dương khoe sắc mộng mơ
Yến về, chàng chẳng về cho. Ngậm ngùi!
Lộc Bắc
May22
***
Bồ Tát Man Kỳ 9
Ngập nhà trăng sáng như lê nở,
Người xưa vạn dậm xa ngăn trở.
Song cánh nhạn vàng bay,
Áo thêu hoen lệ đầy,
Ngát xanh vườn cỏ nhỏ.
Nhà khúc Việt Khê đó.
Nhìn khóm liễu xanh tươi,
Yến về chưa thấy người.
Song Thất Lục Bát.
Như lê trắng đầy nhà trăng tỏ,
Người yêu xưa cách trở muôn trùng.
Nhạn vàng chắp cánh bay tung,
Áo thêu đẫm lệ vô cùng nhớ thương.
Cỏ xanh biếc thơm hương vườn nhỏ,
Khúc Việt Khê là chỗ đất quê.
Liễu buồn lả ngọn lê thê,
Mùa xuân đã tới yến về người không.
Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Apr. 12/2023.
***
Bồ Tát Man Kỳ 9
Đầy phòng trăng toả hoa lê trắng
Người xưa vạn lý non sông chắn
Đôi nhạn ước… tung bay
Áo vàng nhoè lệ cay
Cỏ vườn sao cứ mướt?
Nỗi nhớ quê đau buốt !!!
Dáng liễu rủ… chờ ai
Én về chàng bất lai
Lục Bát
Phòng không trăng ghé sáng trong
Mới hay chàng đã… đi không trở về
Đôi chim kim nhũ ủ ê
Gối đơn chăn chiếc bóng nhoè… lệ cay
Bao năm nỗi nhớ nào phai
Cớ sao cỏ mượt phủ đầy uyển gia?
Góc vườn liễu rủ la đà
Xuân về én liệng chàng hà nơi mô ???
Kiều Mộng Hà
April12nd2023
***
Ôn làm nhiều bài từ theo điệu Bồ Tát Man:
- Thi Viện chỉ đăng có 5 bài, bài 1 ÔC đã đưa lên diễn đàn.
- Bồ Tát Man chú giải đăng 14 bài, không thấy đề tên tác giả, có bản chữ Hán, phiên âm Hán Việt, chú thích và giải nghĩa, nhưng không có thơ dịch.
Phần chữ Hán ở đây viết rất đúng, nhưng chữ y y giảng là bồi hồi thì BS thấy lấn cấn, coi bộ không ổn, bèn hỏi cố sư phụ hàm thụ Nguyễn Tôn Nhan thì được giảng là: dựa vào, bảo vệ, như cũ, vẻ tươi tốt của cây cối, dáng mềm mại, có lẽ nghĩa này là thích hợp nhất.
Câu “tiểu viên phương thảo lục”, ÔC dịch thật hay, BS loay hoay mãi, tính mượn câu “ cỏ thơm xanh vườn nhỏ “, nhưng hơi ngượng, nên dịch khác, cố giữ được vần trắc ở chữ cuối.
Như BS đã nói, những bài từ này đều diễn tả lòng nhớ thương tha thiết của nàng xuân nữ phòng khuê khi người yêu đang ở nơi ngàn trùng xa cách. Lời từ bay bướm, lãng mạn, âu yếm, nhưng lại có pha một chút trách móc nhẹ nhàng. Các vị nữ lưu chắc hiểu rõ tâm trạng của nàng hơn BS.
Bồ Tát Man Kỳ 9
Khắp nhà trăng sáng như lê trắng,
Người thương cách trở, ôi xa vắng,
Chim nhạn lướt bay đôi,
Lệ hoen áo thêu rồi.
Vườn nhỏ xanh thơm cỏ,
Nhà ở khe Việt đó,
Dương liễu rủ lê thê,
Yến về chàng không về.
Bát Sách.
(ngày 12 tháng 4 năm 2023)
***
Chàng Nay Chốn Nao?
Vầng trăng ngời chiếu ngập sân,
Trăm lê trắng toát rỡ ràng hoa viên.
Cố nhân muôn dặm triền miên,
Quan san cách trở - buồn phiền nhớ ai...
Nhạn thêu điểm khéo vạt dài,
Xiêm y đẫm lệ - anh tài xa xôi.
Hương thơm dị thảo ngát hơi,
Mảnh vườn nho nhỏ, đất trời mù sương.
Chạnh lòng tơ tưởng quê hương,
Việt Khê dòng suối - vấn vương dạt dào.
Liễu tơ mềm mại đảo chao,
Báo Xuân chim én - người nào thấy đâu?
Khánh-Hưng
bài rất hay
Trả lờiXóa