Chủ Nhật, 7 tháng 11, 2021

Quế Chi Hương 桂枝香 - Vương An Thạch

 

Vương An Thạch王安石 (1021 – 1086), tên tự là Giới Phủ 介甫, hiệu là Bán Sơn 半山, người đời gọi là Bán Sơn Cư Sĩ 半山居士, được vua phong là “Thư Quốc Công 舒國公”, sau đổi thành “Kinh Quốc Công 荆國公”, nguyên quán ở huyện Lâm Xuyên 臨川tỉnh Phủ Châu 撫州, TH.  Ông đỗ tiến sĩ năm 1042, là một chính trị gia, văn học gia đời Bắc Tống北宋. Năm 48 tuổi, ông vào triều được phong làm Hàn Lâm Học Sĩ 翰林學士. Năm sau 49 tuổi ông được phong làm Tham Tri Chính Sự 参知政事, thực thi “tân pháp”, một cải cách mạnh bạo về kinh tế, quân sự và giáo dục, đã gặp nhiều chống đối trong triều và trong dân gian. Năm 1075 Lý Thường Kiệt công hãm Khâm, Liêm châu thuộc tỉnh Quảng Tây để phản đối tân pháp. Năm sau 1076, Vương An Thạch mất chức Tể tướng, về ẩn cư và mất năm 1086 ở Giang Ninh江寧 (nay là thành Nam Kinh 南京tỉnh Giang Tô 江蘇, TH). Về từ phẩm, ông để lại “Vương lâm xuyên tập王臨川集” và “Lâm xuyên tiên sinh ca khúc臨川先生歌曲”.   

桂枝香                        Quế Chi Hương  

登臨送                 Đăng lâm tống mục,
正故國晚秋,             Chính cố quốc vãn thu,
天氣初                 Thiên khí sơ túc.
千里澄江似練,         Thiên lý trừng giang tự luyện,
翠峰如                 Thúy phong như thốc.
歸帆去棹殘陽裏,     Quy phàm khứ trạo tàn dương lý,
背西風、酒旗斜 Bối tây phong, tửu kỳ tà súc.
彩舟雲淡,                 Thải châu vân đạm,
星河鷺起,                 Tinh hà lộ khởi,
畫圖難                 Họa đồ nan túc.
 
念往昔、繁華競Niệm vãng tích, phồn hoa cạnh trục,
嘆門外樓頭,             Thán môn ngoại lâu đầu,
悲恨相                 Bi hận tương tục.
千古憑高對此,         Thiên cổ bằng cao đối thử,
漫嗟榮                 Mạn ta vinh nhục.
六朝舊事隨流水,     Lục triều cựu sự tùy lưu thủy,
但寒煙、芳草凝Đản hàn yên, phương thảo ngưng lục.
至今商女,                 Chí kim thương nữ,
時時猶唱,                 Thời thời do xướng,
後庭遺                 Hậu đình di khúc.

  王安石                       Vương An Thạch 

***

Chú Thích

1- Quế chi hương 桂枝香: tên từ điệu, còn gọi là sơ liêm đạm nguyệt 疏帘淡月, gồm 101 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn 10 câu, 5 trắc vận. Cách luật:

X B X T vận
T X T X B cú
X X B T vận
X T B B T T cú
T B B T vận
X B X T B B T cú
T B B, X X B T vận
T B B T cú
X B X T cú
X B B T vận
  
T X X, B B T T vận
T X T B X cú
X X B T vận
X T B B cú
X T T B B T vận
X B X T B B T cú
T B B X X B T vận
X B X T cú
X B X X cú
T B B T vận

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

2- Đăng lâm登臨 = đăng sơn lâm thủy 登山临水: lên núi xuống sông, du lãm sơn thủy. Trong bài này chữ “đăng lâm” chỉ có nghĩa là “lên cao”.
3- Tống mục 送目:đưa mắt nhìn xa.
4- Cố quốc 故國:Nam Triều, cố đô Kim Lăng (nay Nam Kinh, TH) trải 6 triều đại từ năm 222 đến năm 589.
5- Sơ túc 初肅: thiên khí bắt đầu lạnh và khoan khoái, thảo mộc tàn rụng.
6- Thiên lý trừng giang tự luyện 千里澄江似練: sông dài ngàn dặm trong trẻo như 1 tấm lụa. Trừng giang 澄江= sông Trường giang trong vắt. Luyện : lụa trắng.
7- Thúy phong 翠峰: núi biếc.
8- Thốc :  tụ họp lại với nhau. Như thốc 如簇: các ngọn núi như tụ lại một chỗ.
9- Quy phàm khứ trạo 歸帆去棹: thuyền về đậu bến = thuyền bè vãng lai. Khứ trạo 去棹: dừng chèo.
10- Bối tây phong 背西風 = nghinh trước tây phong迎着西風: đón gió thu.
11- Tà súc 斜矗 = tà sáp 斜插: cắm nghiêng.
12-Thải châu 彩舟: con thuyền trang sức hoa lệ.
13- Vân đạm 雲淡: mây mỏng, trời quang đãng.
14- Tinh hà 星河 hay Thiên hà 天河 ám chỉ sông Tần Hoài 秦淮.
15- Lộ = bạch lộ白鷺 con cò trắng. Có người nói chữ này ám chỉ miếng đất Bạch lộ châu 白鷺洲 ở chỗ sông Trường giang và sông Tần Hoài giao nhau.
16- Tinh hà lộ khởi 星河鷺起: cò trắng từ cồn cát giữa sông bay lên.
17- Nan túc 難足: khó biểu hiện 1 cách hoàn mỹ.
18- Họa đồ nan túc 畫圖難足: dù có vẽ lại cũng khó biểu hiện được sự kiện.
19- Vãng tích 往昔: ngày đã qua.
20- Cạnh trục 競逐: tranh nhau đeo đuổi.
21- Phồn hoa cạnh trục 繁華競逐: tranh thủ sống hào hoa. Bản khác chép Hào hoa cạnh trục 豪華競逐 cùng 1 ý nghĩa.
22- Môn ngoại lâu đầu 門外樓頭: Lấy chữ từ bài thơ “Đài thành khúc 台城曲” của Đỗ Mục 杜牧:
 
“Môn ngoại Hàn Cầm Hổ, 門外韓擒虎,Tướng Hàn Cầm Hổ ở ngoài cổng,
“Lâu đầu Trương Lệ Hoa樓頭張麗華。Quý phi Trương Lệ Hoa ở trên lầu”.

Vào thời Nam Bắc triều, nước Trần chiếm cứ vùng đất Việt gồm Chiết Giang, Quảng Đông, Quảng Tây, kể cả quận Giao Chỉ, đóng đô ở Kim lăng (Nam Kinh bây giờ). Vua cuối cùng của nước Trần là Trần Thúc Bảo 陳叔寶mà người đời gọi là Trần Hậu Chủ 陳後主 bỏ phế triều chính, say mê quý phi là Trương Lệ Hoa 張麗華. Vua Bắc Triều là Tùy Văn Đế sai con làTấn vương 晋王Dương Quảng 楊廣đem quân chinh phạt. Khi tướng nhà Tùy là Hàn Cầm Hổ 韓擒虎 (nguyên tên là Báo ) đã đến cửa thành phía nam của thành Kim Lăng 金陵 là Chu Tước môn 朱雀門thì Trần Hậu chủ và quý phi Trương Lệ Hoa còn đang vui chơi ở trên lầu Kết Ỷ Các 結綺閣. Hai người bị bắt cùng với 1 bà vợ nữa là Khổng Quý Tần 孔貴嬪. Cả 2 bà phi đều bị xử chém.

23- Môn = Chu Tước môn 朱雀門, cổng nam của thành kim Lăng; Lâu = Kết Ỷ Các 結綺閣, nơi Trần Hậu Chủ và phi tần đến yến tiệc ca hát vui chơi.
24- Bi hận tương tục 悲恨相續: mối bi hận của 6 triều đại nối tiếp nhau hưng vong.
25- Bằng cao 憑高 = Đăng cao 登高, tác giả lên chỗ cao nhìn ra xa.
26- Mạn ta vinh nhục 漫嗟榮辱:  cảm than sự hưng vong của lịch sử.
Mạn ta 漫嗟 = mạn ta 謾嗟: than thở.
27, Hai câu 14 và 15: bản khác chép:
千古憑高,Thiên cổ bằng cao, (Lên cao xem cảnh xưa nay)
對此漫嗟榮辱。Đối thử mạn ta vinh nhục. (đối diện cảnh này than thở sự vinh nhục).
 
28- Lục triều 六朝: 6 triều đại kế tiếp nhau cai trị vùng đất Giang Nam là: Ngô, Đông Tấn, Nam triều Tống, Tề, Lương, và Trần.
29- Thương nữ 商女: ca nữ ở các tửu lâu trà phường.
30- Hậu đình di khúc 後庭遺曲: tức ca khúc “Ngọc thụ hậu đình hoa 玉樹後庭花” do Trần Hậu Chủ soạn ra, lời lẽ ai oán nhu nhược. Người đời sau coi là một bài ca vong quốc.
 
Dịch Nghĩa

Lên lầu cao đưa mắt nhìn xa,
Đất nước cũ (Kim Lăng) chính vào cuối thu,
Khí trời bắt đầu khoan khoái dễ chịu.
Dòng Trường giang dài cả ngàn dặm, trong vắt như 1 tấm lụa trắng.
Những dẫy núi xanh biếc như tụ lại 1 chỗ.
Thuyền bè qua lại trong ánh sáng chiều còn sót lại,
Đón ngọn gió thu, cờ của tửu quán nghiêng ra sừng sững.
Những chiếc thuyền hoa lệ ẩn hiện trong màn mây khói mờ nhạt.
Cò trắng bay lên từ những cồn cát trên sông.
Dù có vẽ lại cũng khó miêu tả được đầy đủ rõ ràng.
 
Nghĩ đến chuyện xưa, tranh nhau sống xa hoa,
(Rồi) cảm thán (lúc quân thù đến) ngoài cổng, trên lầu (vua còn ăn chơi ca hát),
Những mối hận bi thương nối tiếp nhau.
Lên cao, (đối diện với cảnh) từ thiên cổ (đến nay),
Than vãn sự vinh nhục (của các triều đại hưng vong).
Lịch sử của sáu triều đại theo dòng nước trôi xuôi,
Chỉ còn khói sương lạnh lẽo, bãi hương thảo ngưng đọng mầu xanh.
Đến nay, ca nữ,
Thỉnh thoảng còn hát,
Bài ca “Hậu đình di khúc”.

***
 
Phỏng Dịch:

Hưng Vong
 
Lên cao nhìn khắp cựu kinh đô,
Khoan khoái trời cao ngày cuối thu.
Trường giang ngàn dặm trong như lụa,
Trùng điệp núi xanh biếc mịt mù.
 
Thuyền bến vãng lai chiều sắp hết,
Ngọn cờ tửu quán đón tây phong.
Mây mỏng thuyền hoa cò cất cánh,
Bức tranh khó họa được thành công.
 
Quá khứ phồn hoa đua tửu sắc,
Cửa thành giặc đến chúa vui chơi.
Mối hận bi thương lại tiếp nối,
Nước non thiên cổ những đầy vơi.
 
Sáu Triều vinh nhục đời than thở,
Chuyện cũ theo dòng nước xóa nhòa.
Khói lạnh cỏ xanh đọng sắc thắm,
Ca nhi còn hát Hậu đình hoa.
 
HHD 
5-2019
***
Quế Chi Hương

 1-     
Lên lầu đưa mắt
Nước cũ vào cuối thu
Khí trời tươi mát
Trừng giang dặm ngàn như lụa
Tụ lại núi biếc
Nắng chiều vương, thuyền về chèo gác
Đón gió thu, cờ quán phiêu phất
Thuyền hoa khói nhạt
Cò bay cồn cát
Vẽ lại khó thật!
 
Nghĩ chuyện xưa, xa hoa tranh sức
Than ngoài cửa, trên lầu
Hận buồn kế tục
Ngàn xưa lên cao ngắm cảnh
Thở than vinh nhục
Lịch sử sáu triều trôi theo nước
Chỉ khói mờ, cỏ thơm đậm lục
Đến nay ca nữ
Đôi khi còn hát
Hậu đình một khúc
 
2-      
Lên lầu cao đưa mắt
Nhìn nước cũ cuối thu
Khí trời trong tươi mát
Sông Trừng ngàn dặm tơ
Tụ lại ngàn núi biếc
Chiều, thuyền về chèo gác
Quán rượu cờ lắt lay
Thuyền hoa đùa khói nhạt
Cồn cát cò vụt bay
Vẽ làm sao cho thoát?
 
Nghĩ lại chuyện lúc trước
Xa hoa đua thỏa sức
Giặc đến; nhởn nhơ lầu
Hận sầu luôn kế tục
Từ thiên cổ đến nay
Luôn thở than vinh nhục
Sáu triều theo nước trôi
Còn khói mờ, cỏ lục
Thương nữ đôi lúc ca
Hậu đình hoa mạt khúc!
 
Lộc Bắc  
Sept20


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét